Luận văn Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh với việc thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động

Sự hình thành chế độ dân chủ là kết quả của quá trình phát triển kinh tế và chính trị, có tác động to lớn đến diện mạo chung của xã hội, đến sự tăng trưởng kinh tế và giải phóng năng lực sáng tạo của con người. Song, hiệu quả tác động của dân chủ lại phụ thuộc vào sự hoàn thiện của HTCT với tư cách là hệ thống các thiết chế chính trị và cơ chế thực hiện quyền lực chính trị.

Đại hội VI, VII và VIII của Đảng đã đặc biệt quan tâm đến đổi mới HTCT trong thời kỳ quá độ lên CNXH nhằm từng bước xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, coi đó là một trong những nhiệm vụ cơ bản và cấp bách của quá trình đổi mới.

Mặt trận Tổ quốc vừa là phương thức, vừa là môi trường để nhân dân thực hiện quyền lực chính trị của mình. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc và phát huy vai trò quyền làm chủ của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh có tổ chức, huy động tiềm lực to lớn, sáng tạo của nhân dân trong suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam và thực hiện quyền lực của nhân dân lao động trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đảng ta đã đánh giá: "Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã coi trọng các hình thức tập hợp đa dạng nhằm mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, động viên nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị, đẩy mạnh các hoạt động xã hội, chăm lo và bảo vệ lợi ích thiết thực của nhân dân. Sự tham gia của Mặt trận và các đoàn thể trong công tác xây dựng luật pháp, chính sách, xây dựng chính quyền các cấp, thực hiện các chính sách kinh tế- xã hội. ngày càng được tăng cường [6, 13-14].

Trong khi đánh giá cao thành tựu đổi mới hệ thống chính trị nói chung và Mặt trận Tổ quốc nói riêng, Đảng cũng nhận thấy rằng, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân còn có sự hạn chế về nhận thức; việc phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, còn chưa rõ ràng; nội dung và phương thức hoạt động còn lúng túng; tình trạng dân chủ hình thức trong các tổ chức đó còn nặng nề đã làm hạn chế đáng kể việc phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong quá trình đổi mới. Do vậy, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc các cấp vẫn là một đòi hỏi bức thiết ở nước ta hiện nay.

Vấn đề đó càng trở nên bức bách hơn khi chúng ta nhất quán thực hiện chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Bên cạnh những mặt tích cực của cải cách kinh tế - chính trị đem lại, cũng còn nhiều tác động tiêu cực, hạn chế như, phân hóa giàu nghèo, quan liêu, tham nhũng và những hành vi vi phạm đến quyền lực của nhân dân, còn nhiều biểu hiện suy giảm đạo đức, tinh thần khác, vi phạm quyền lực của nhân dân. Vì vậy, vấn đề đặt ra là bằng cách nào phát huy được dân chủ rộng rãi, đúng hướng để quy tụ được sức mạnh của các nhóm người, các tầng lớp, các giai cấp và cả cộng đồng dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, làm cho nhân dân thực sự trở thành chủ thể sáng tạo lịch sử một cách tích cực và chủ động?

 

doc81 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1110 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh với việc thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Sự hình thành chế độ dân chủ là kết quả của quá trình phát triển kinh tế và chính trị, có tác động to lớn đến diện mạo chung của xã hội, đến sự tăng trưởng kinh tế và giải phóng năng lực sáng tạo của con người. Song, hiệu quả tác động của dân chủ lại phụ thuộc vào sự hoàn thiện của HTCT với tư cách là hệ thống các thiết chế chính trị và cơ chế thực hiện quyền lực chính trị. Đại hội VI, VII và VIII của Đảng đã đặc biệt quan tâm đến đổi mới HTCT trong thời kỳ quá độ lên CNXH nhằm từng bước xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, coi đó là một trong những nhiệm vụ cơ bản và cấp bách của quá trình đổi mới. Mặt trận Tổ quốc vừa là phương thức, vừa là môi trường để nhân dân thực hiện quyền lực chính trị của mình. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc và phát huy vai trò quyền làm chủ của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh có tổ chức, huy động tiềm lực to lớn, sáng tạo của nhân dân trong suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam và thực hiện quyền lực của nhân dân lao động trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đảng ta đã đánh giá: "Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã coi trọng các hình thức tập hợp đa dạng nhằm mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, động viên nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị, đẩy mạnh các hoạt động xã hội, chăm lo và bảo vệ lợi ích thiết thực của nhân dân. Sự tham gia của Mặt trận và các đoàn thể trong công tác xây dựng luật pháp, chính sách, xây dựng chính quyền các cấp, thực hiện các chính sách kinh tế- xã hội... ngày càng được tăng cường [6, 13-14]. Trong khi đánh giá cao thành tựu đổi mới hệ thống chính trị nói chung và Mặt trận Tổ quốc nói riêng, Đảng cũng nhận thấy rằng, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân còn có sự hạn chế về nhận thức; việc phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, còn chưa rõ ràng; nội dung và phương thức hoạt động còn lúng túng; tình trạng dân chủ hình thức trong các tổ chức đó còn nặng nề đã làm hạn chế đáng kể việc phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong quá trình đổi mới. Do vậy, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc các cấp vẫn là một đòi hỏi bức thiết ở nước ta hiện nay. Vấn đề đó càng trở nên bức bách hơn khi chúng ta nhất quán thực hiện chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Bên cạnh những mặt tích cực của cải cách kinh tế - chính trị đem lại, cũng còn nhiều tác động tiêu cực, hạn chế như, phân hóa giàu nghèo, quan liêu, tham nhũng và những hành vi vi phạm đến quyền lực của nhân dân, còn nhiều biểu hiện suy giảm đạo đức, tinh thần khác, vi phạm quyền lực của nhân dân. Vì vậy, vấn đề đặt ra là bằng cách nào phát huy được dân chủ rộng rãi, đúng hướng để quy tụ được sức mạnh của các nhóm người, các tầng lớp, các giai cấp và cả cộng đồng dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, làm cho nhân dân thực sự trở thành chủ thể sáng tạo lịch sử một cách tích cực và chủ động? Để thực hiện mục tiêu chung, cần thiết phải mở rộng dân chủ, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, coi đó vừa là mục đích vừa là động lực của đổi mới về chính trị. Tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới không chỉ là trách nhiệm của Mặt trận mà còn là trách nhiệm của cả HTCT. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động, nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận ở tất cả các cấp là yêu cầu quan trọng để Mặt trận phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm kinh tế lớn của cả nước, đồng thời còn là một trong những trung tâm văn hóa của Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh có một vị trí quan trọng sau Thủ đô Hà Nội, nhân dân lao động thành phố Hồ Chí Minh vốn có tinh thần yêu nước nồng nàn, có truyền thống cách mạng kiên cường, đồng thời lại rất năng động và sáng tạo. Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh - một thành phố với lịch sử hơn 300 năm và một phần tư thế kỷ xây dựng và phát triển khi đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất. Mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí Minh trong hoạt động thực tiễn của những năm qua cho thấy, công cuộc đổi mới ở thành phố có những thành tựu của việc xây dựng và phát huy nền dân chủ XHCN ở nhiều mức độ khác nhau, nhiều hình nhiều vẻ được tích lũy từ thực tiễn cách mạng phong phú của nhân dân thành phố. Điều đó ngày càng cho thấy Mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí Minh đã và đang thật sự là một nhân tố quan trọng trong cơ chế hiện thực hóa quyền lực chính trị của nhân dân thành phố hiện nay. Nhận thức được vấn đề này, tôi chọn đề tài: "Mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí Minh với việc thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động" làm luận văn Thạc sĩ chính trị học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ở nước ta, việc củng cố và hoàn thiện HTCT nói chung và với từng thành tố cấu trúc nên HTCT, cũng như với Mặt trận Tổ quốc nói riêng, luôn là vấn đề đặc biệt, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Vai trò các đoàn thể chính trị xã hội trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động luôn được các nhà khoa học nghiên cứu gắn liền với vấn đề củng cố hệ thống quyền lực và xây dựng nền dân chủ. Đáng chú ý là các công trình nghiên cứu: "Quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta" của PGS.TS Hoàng Chí Bảo, Tạp chí Thông tin lý luận, 9/1992; "Vấn đề quyền lực và cơ chế thực hiện quyền lực chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta" của GS.TS Phạm Ngọc Quang, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, 1/1993; "Vấn đề dân chủ hóa ở Việt Nam trong những chặng đầu của thời kỳ quá độ" của GS.TS Trịnh Quốc Tuấn, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, 5/1990; "Vấn đề đổi mới hệ thống chính trị trước yêu cầu phát triển của dân tộc" của GS.TS Trần Ngọc Hiên, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, 6/1994; "Dân chủ hóa các tổ chức chính trị - xã hội, một phương hướng cơ bản để tăng cường quyền lực của nhân dân ở nước ta hiện nay" của GS.TS Hoàng Văn Hảo, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, 1/1993. Có nhiều công trình nghiên cứu cấp Nhà nước và cấp Bộ xung quanh vấn đề này, đáng chú ý là: Chương trình KX-05 về "Hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta", do GS Nguyễn Đức Bình làm chủ nhiệm, có các nhánh đề tài liên quan: "Cơ chế thực hiện dân chủ trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay", mã số KX-05.05; "Vị trí và tính chất hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể tổ chức xã hội trong hệ thống chính trị", mã số KX-05.10. Đề tài khoa học cấp Bộ: "Quyền lực chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động", 1995, do GS.TS Phạm Ngọc Quang làm chủ nhiệm; về "Mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân cấp xã ở nước ta hiện nay", 1997, do PGS.TS Dương Xuân Ngọc làm chủ nhiệm; về "Quá trình hình thành và phát triển thể chế chính trị Việt Nam kể từ 1945 đến nay", 1999, do TS Đặng Đình Tân làm chủ nhiệm, trong đó có hai vấn đề: Nhân dân lao động thực thi quyền lực chính trị thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức công đoàn trong hệ thống chính trị Việt Nam từ 1945 đến nay; về "Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nhằm thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở tại các vùng nông thôn miền núi phía Bắc nước ta", 1999, do TS Nguyễn Quốc Phẩm làm chủ nhiệm... Xét về góc độ nghiên cứu vai trò của các đoàn thể chính trị xã hội trong việc phát huy quyền dân chủ của nhân dân, nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã lồng ghép vấn đề đoàn thể nhân dân vào trong các công trình khoa học mang tính tổng thể, và mới chỉ được đề cập như một yếu tố cấu thành trong mối quan hệ giữa các thành tố của HTCT nhằm thực hiện quyền lực của nhân dân nói chung, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, riêng biệt về thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động thông qua Mặt trận Tổ quốc và đặc biệt là Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh, thành phố ở nước ta hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích: Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực chính trị của nhân dân lao động, luận văn góp phần làm rõ hai vấn đề: - Hiện trạng Mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí Minh thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong thời kỳ đổi mới. - Xác định những hạn chế và nguyên nhân trong việc thực thi quyền lực đó, đưa ra được một số giải pháp khả thi nhằm phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí Minh trong thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động. 3.2. Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn phải giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau đây: Một là: Làm rõ cơ sở lý luận về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống tổ chức quyền lực chính trị của nhân dân lao động. Hai là: Phản ánh tình hình tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí Minh trong việc phát huy quyền làm chủ về chính trị của nhân dân trong thời kỳ đổi mới; xác định nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết. Ba là: Đưa ra được hệ thống những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động theo định hướng XHCN trên địa bàn thành phố. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận: Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền lực chính trị của nhân dân lao động. 4.2. Cơ sở thực tiễn: Mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí Minh trong việc phát huy quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong mười lăm năm đổi mới vừa qua, trên cơ sở đó, luận chứng những vấn đề có liên quan tới việc thực hiện những nhiệm vụ cơ bản mà luận văn nêu ra. 4.3. Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng tổng hợp những nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; kế thừa và khai thác những thành quả khoa học của các công trình đã được công bố; sử dụng phương pháp lôgíc và lịch sử trong phân tích, sử dụng các số liệu thống kê, báo cáo, điều tra nghiên cứu thực tế, trên cơ sở đó thực hiện phân tích, so sánh và tổng hợp; vận dụng tối đa phương pháp so sánh - phương pháp đặc trưng của chính trị học. Ngoài ra, trong luận văn cũng sử dụng một số phương pháp khác của xã hội học. 5. Cái mới về mặt khoa học của luận văn Kết quả nghiên cứu góp phần: + Phân tích, làm rõ bản chất của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. + Phân tích và làm rõ vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong HTCT và trong đời sống xã hội, đặc biệt là vai trò của Mặt trận với việc xây dựng Đảng và vai trò tham chính của Mặt trận với chính quyền. + Làm rõ hiện trạng, nguyên nhân và đề ra các giải pháp nhằm phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí Minh thật sự là một liên minh chính trị rộng rãi, là khối đại đoàn kết của nhân dân thành phố và thật sự là chỗ dựa của nhân dân lao động. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về quyền lực chính trị của nhân dân lao động thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói chung và Mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. - Về mặt lý luận, luận văn góp phần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc phát huy quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong tiến trình đổi mới ở nước ta. - Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác Mặt trận của thành phố; có thể dùng tham khảo nghiên cứu phục vụ giảng dạy ở các trường Chính trị, các trường đoàn thể và các trường đào tạo khác có liên quan. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm phần mở đầu, ba chương với 7 tiết, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Chương 1 Vị trí, vai trò của mặt trận tổ quốc Việt Nam trong việc phát huy quyền lực chính trị Của nhân dân lao động Thắng lợi của cách mạng Việt Nam do nhiều nhân tố hợp thành, trong đó có nhân tố hết sức quan trọng là Mặt trận. Đây là một sáng tạo của cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta, là bài học lớn của cách mạng Việt Nam. Xuất phát từ điều kiện lịch sử tự nhiên - xã hội đặc thù của đất nước ta luôn phải chống với thiên tai, địch họa nên cộng đồng dân tộc Việt Nam phải gắn bó với nhau trong lao động và chiến đấu để dựng nước, giữ nước. Suốt chiều dài lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc đã dạy cho mỗi người trong cộng đồng Việt Nam ý thức được rằng "đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết". Qua các triều đại phong kiến ở đất nước ta cho thấy: khi nào đoàn kết vua tôi, trên dưới một lòng thì giặc ngoại xâm dù có mạnh đến mấy cũng phải thất bại. Tinh thần đoàn kết lưu truyền từ đời này sang đời khác, trở thành truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, làm nên sức mạnh Việt Nam. Đảng và Bác Hồ đã sớm nhận thức sâu sắc về vai trò của Mặt trận trong việc kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước của dân tộc ở thời đại mới - Thời đại giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH. Chỉ có đoàn kết toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, đoàn kết các dân tộc, đoàn kết lương giáo, đoàn kết quốc tế mới thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng vạch ra. Ngay sau khi thành lập Đảng (3/2/1930) Đảng ta đã thấy sự sự cần thiết tập hợp mọi lực lượng yêu nước đoàn kết xung quanh Đảng chống thực dân, phong kiến. Các giai cấp, các tầng lớp ở Việt Nam đều bị thực dân phong kiến áp bức bóc lột, đều có nguyện vọng thiết tha chung là giành độc lập cho dân tộc, giải phóng khỏi thân phận bị áp bức bóc lột. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Cuộc cách mạng trong một nước thuộc địa và nửa thuộc địa là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Để đưa cuộc cách mạng đó đi đến thắng lợi, có thể và cần phải thành lập một Mặt trận dân tộc rất rộng rãi đoàn kết tất cả các giai cấp và tầng lớp xã hội mong muốn được giải phóng khỏi ách thuộc địa. Do đó, ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra chỉ thị thành lập Hội phản đế Đồng Minh. Đây là tổ chức Mặt trận đầu tiên, là một sáng tạo to lớn của cách mạng Việt Nam trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Trải qua các thời kỳ cách mạng, Mặt trận không ngừng được củng cố và mở rộng: Từ tổ chức Mặt trận đầu tiên là Hội phản đế Đồng Minh (1930) đến Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936 - 1939), Mặt trận Việt Minh (1941 - 1945), Mặt trận Liên Việt (1946 - 1955) và trong những năm 1955 - 1975 Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời, đã cùng với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình ở Việt Nam thực hiện đoàn kết các dân tộc trong cả nước hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. "Lịch sử cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay không lúc nào vắng bóng tổ chức Mặt trận" [4, 27-28]. 1.1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị đại biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân 1.1.1. Bản chất của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Về khái niệm Mặt trận, theo cách hiểu chung nhất của từ này thì Mặt trận là một tập hợp các lực lượng, các tổ chức, các cá nhân cùng theo đuổi một mục tiêu, một định hướng, một lý tưởng. Mặt trận cũng được hiểu theo nghĩa là một liên minh chính trị rộng rãi. "Mặt trận là một liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân" [5, 20]. Nói một cách khác, Mặt trận là một liên minh chính trị của mọi người Việt Nam yêu nước, là một liên minh chính trị của các giai cấp, các đảng phái, các dân tộc, các tôn giáo, các nhân sĩ yêu nước và tiến bộ của dân tộc để hướng vào mục tiêu giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có quy định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài " [17, 5]. Với ý nghĩa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị rộng rãi như trên thì Mặt trận cũng là tổ chức tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân, đại đoàn kết dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lập ra và lãnh đạo. Chức năng của liên minh chính trị là hoạt động tham chính, tham gia vào công việc của chính quyền Nhà nước, tham gia tổ chức thi hành đường lối, chính sách và xây dựng cuộc sống, chăm lo lợi ích của các cộng đồng dân cư. Tùy theo hoàn cảnh và nhiệm vụ cụ thể, chức năng cụ thể của Mặt trận có thể thay đổi. Trong Hiến pháp 1992, Mặt trận Tổ quốc được ghi nhận là cơ sở chính trị của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Có quan điểm cho rằng, trong CNXH, chế độ chính trị nhất nguyên, một Đảng duy nhất cầm quyền - Đảng cộng sản, trong Nhà nước pháp quyền XHCN thì không cần thiết tổ chức Mặt trận, và nếu có Mặt trận thì Mặt trận có vai trò không lớn. Chúng tôi không đồng tình với quan điểm trên, vì rằng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là thành viên chiến lược của HTCT và có vai trò to lớn đã thể hiện trong suốt tiến trình lịch sử của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong sự nghiệp xây dựng nền dân chủ XHCN. Một trong những mục tiêu cơ bản của chính trị và cả HTCT trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là xây dựng nền dân chủ XHCN, nền dân chủ với quảng đại quần chúng nhân dân, vì lợi ích của nhân dân. Nền dân chủ ấy có sự thống nhất về cơ bản giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân, tính dân tộc và tính nhân loại. Đảng ta đã khẳng định: "Dân chủ là bản chất của chế độ mới, trong đó, nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, là người làm chủ đất nước, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân" [11, 9-10]. Nền dân chủ XHCN thâm nhập vào mọi mối quan hệ xã hội. Mọi thành viên ở mọi cấp độ (cá nhân, nhóm, tập đoàn xã hội, giai cấp, dân tộc...), đều là chủ thể của nền dân chủ. Họ là những chủ thể sáng tạo, thể chế hóa và thừa hưởng trên thực tế các giá trị dân chủ, và do đó họ cũng chiến đấu để xây dựng và bảo vệ nền dân chủ. Trong chế độ ta, dân chủ được thực hiện bằng cả HTCT, bao gồm Nhà nước, Đảng cộng sản, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị, xã hội khác. HTCT do Đảng cộng sản lãnh đạo là cơ chế đảm bảo quyền lực của nhân dân. Đó là căn cứ lý luận để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản với HTCT, với nhà nước; sự cần thiết phải tập hợp quảng đại quần chúng nhân dân xung quanh Đảng trong tổ chức Mặt trận Tổ quốc; khẳng định mục tiêu đổi mới của cả HTCT nói chung và với mỗi thành tố cấu trúc nên HTCT nói riêng, cũng như với Mặt trận Tổ quốc là nhằm thực hiện tốt nền dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Điều đó đặt cơ sở khách quan cho hoạt động của Mặt trận và cũng là cơ sở để xác định quan hệ giữa Mặt trận với các nhân tố cấu thành HTCT và nội dung lãnh đạo của Đảng với Mặt trận. Nếu không có quan niệm đúng đắn thì trong chỉ đạo, hoạt động, Mặt trận sẽ chỉ đóng vai trò hình thức, hời hợt. Mặt trận đóng vai trò là một liên minh chính trị, là khối đại đoàn kết dân tộc thể hiện trên mấy vấn đề sau: - Mặt trận thật sự là nơi hiệp thương bầu cử các cơ quan quyền lực Nhà nước ở Trung ương và ở địa phương. - Mặt trận thật sự có đại diện trong các cơ quan quyền lực dân cử: Quốc hội, HĐND các cấp. Các đại diện ấy do các thành viên của Mặt trận chọn và cử vào danh sách bầu vào các cơ quan quyền lực của dân. Mặt trận thật sự thực hiện được chức năng tư vấn và giám sát đối với Nhà nước và cả đối với Đảng. - Đồng thời Mặt trận phải là nơi quy tụ đại diện tiêu biểu của các tầng lớp nhân dân, là một diễn đàn thu hút mọi sáng kiến, mở ra một lĩnh vực hoạt động rộng rãi cho toàn dân để thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong công tác vận động quần chúng của Đảng. Cách mạng nước ta cũng như các nước khác, muốn giành thắng lợi sau khi có đường lối đúng phải tiến hành tuyên truyền giáo dục, giác ngộ, vận động và tập hợp quần chúng thành lực lượng có tổ chức để làm cách mạng. Đảng của giai cấp công nhân phải thực hiện liên minh với giai cấp nông dân và các tầng lớp xã hội khác - sự liên minh ấy là một tất yếu. Từ khi đất nước thống nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giữ vai trò to lớn trong việc củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, có được thành tích đó chính là nhờ: Hồ Chí Minh và Đảng ta có ý thức sâu sắc về sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, bởi vì Hồ Chủ tịch và Đảng ta luôn nhìn thấy ở mỗi người Việt Nam một người yêu nước và Mặt trận là sự tập hợp và nhân lên gấp bội nhiệt tình yêu nước ấy. Đại hội VIII của Đảng tiếp tục khẳng định chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là: "Đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi người trong đại gia đình Việt Nam dù sống ở trong nước hay định cư ở nước ngoài. Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc vì mục tiêu giữ vững độc lập thống nhất, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, lấy mục tiêu đó làm điểm tương đồng, đồng thời chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, cùng nhau xóa bỏ định kiến, mặc cảm, hướng tới tương lai, xây dựng tinh thần đại đoàn kết, cởi mở, tin cậy lẫn nhau..., phát huy vai trò làm chủ của nhân dân nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa" [7, 122]. 1.1.2. Mặt trận là khối thống nhất về tư tưởng, hành động của khối đại đoàn kết toàn dân Trong lịch sử cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay không có thời kỳ nào vắng bóng tổ chức Mặt trận. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình Việt Nam đã đoàn kết quân dân cả nước làm tròn nhiệm vụ lịch sử vẻ vang giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đưa cả nước tiến lên CNXH. Đó là đặc trưng bao quát nhất thể hiện Mặt trận là tổ chức chính trị thống nhất cả về tư tưởng và hành động trong thực hiện mục tiêu chính trị cao cả nhất của mình là thực hiện quyền lực của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam kết hợp nhuần nhuyễn tính dân tộc và tính giai cấp. Tính dân tộc luôn rộng rãi và nổi trội, tính giai cấp là cơ sở, là định hướng để giữ vững và phát huy tính dân tộc... Tính dân tộc rộng rãi biểu hiện từ mục tiêu đến cơ cấu, thành phần của Mặt trận. Mặt trận không có hội viên chỉ có thành viên nên hoạt động của Mặt trận thực chất là hoạt động của từng thành viên là chủ yếu. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay gồm có sáu thành viên quan trọng là: + Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (thành lập 7/1929), là tổ chức chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam, giai cấp tiêu biểu cho lực lượng sản xuất tiến bộ, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hiện có 6,4 triệu công nhân (chiếm khoảng 16% lao động xã hội, trong đó khu vực nhà nước có 2,7 triệu, khu vực tư nhân có 3,7 triệu, gần 40% trong tổng số công nhân trực tiếp sản xuất, trên 24% là cán bộ khoa học kỹ thuật), sinh hoạt trong 32.375 tổ chức công đoàn cơ sở, 68 công đoàn liên hiệp xí nghiệp, 240 công đoàn ngành và địa phương, 420 liên đoàn lao động cấp huyện, 61 liên đoàn cấp tỉnh và thành phố, 24 công đoàn ngành nghề. + Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (thành lập 3/1930), với 2,05 triệu đoàn viên (trong tổng số 20,5 triệu thanh niên), là tổ chức đại biểu cho trên 30% dân số, gần 50% lao động xã hội, là tổ chức chính trị của thế hệ trẻ, thế hệ tràn đầy nhựa sống sẽ tiếp nối sự nghiệp cha ông, thế hệ đã từng "sẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, mà lòng phơi phới dậy tương lai". + Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (thành lập tháng 10/1931), có trên 10 triệu hội viên, sinh hoạt trong hơn 19. 930 tổ chức hội cơ sở. Đây là tổ chức đại biểu cho 52% lao động xã hội, là tổ chức chính trị, xã hội của một nửa thế giới, có nhiệm vụ thực hiện quyền làm chủ của các chị, các mẹ trong các phong trào "Ba đảm đang", "Giỏi việc nước, đảm việc nhà" và trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ. + Hội Nông dân Việt Nam (Công hội đỏ, thành lập 10/1930), là tổ chức chính trị - xã hội với 7,685 triệu hội viên, chiếm trên 42% nông dân từ 18 tuổi trở lên. Họ là những người đang lao động hết mình trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, lĩnh vực trung tâm, nhân tố quyết định của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hiện có 61 tỉnh thành hội nông dân, trên 540 huyện quận hội, trên 9.330 hội nông dân xã phường, gần 6 vạn chi hội nông dân thôn, bản, ấp. + Hội Cựu chiến binh Việt Nam (thành lập 12/1989), có 80 vạn hội viên đại biểu cho khoảng 4 -5 triệu cựu chiến binh (chiếm khoảng 15% dân số, trong đó có trên 13% tham gia cấp ủy địa phương, 14% tham gia công tác trong các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể ở cơ sở, 48% đang lao động trong nông nghiệp, sinh hoạt trong hơn 9.530 tổ chức hội cơ sở. Đây là tổ chức chính trị - xã hội tiêu biểu của các "Anh bộ đội cụ Hồ" đã từng vào sinh, ra tử, chiến đấu, hy sinh một phần xương máu cho sự nghiệp giành, giữ và bảo vệ nền độc lập cho Tổ quốc. Họ là những người lính đã chuyển ngành, hoặc nghỉ hưu, có mặt trên mọi lĩnh vực, có vai trò đặc biệt quan trọng trong động viên toàn dân tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. + Đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUANVAN.doc
  • docMUCLUC.doc
Tài liệu liên quan