Luận văn Nâng cao đời sống kinh tế người có công ở tỉnh Quảng Nam

Hoạt động sống của con người gắn liền với quá trình không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống. Trong đó, đời sống kinh tế là vấn đề cốt lõi, là điều kiện tất yếu khách quan đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội, không phân biệt quốc gia, dân tộc, giai cấp. Xét đến cùng, mọi cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết vấn đề kinh tế, là không ngừng thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người, của xã hội loài người, hay nói một cách khác là không ngừng nâng cao đời sống kinh tế.

Trong quá trình phát triển lịch sử xã hội loài người đã trải qua nhiều hình thái kinh tế xã hội, hình thái kinh tế xã hội sau bao giờ cũng tiến bộ và phát triển hơn hình thái kinh tế xã hội trước. Trong đó, nền kinh tế xã hội của hình thái xã hội sau bao giờ cũng phát triển hơn xã hội trước.

Dưới góc độ kinh tế - chính trị, mục tiêu phát triển kinh tế là những điều kiện, động lực mạnh mẽ thúc đẩy và đảm bảo để nâng cao đời sống của con người, xã hội. Ngược lại, nền kinh tế kém phát triển sẽ kìm hãm sự phát triển của quốc gia, dân tộc. Vì vậy, việc nghiên cứu xây dựng các chính sách đảm bảo phát triển kinh tế bền vững để tạo tiền đề nâng cao đời sống kinh tế cho cộng đồng xã hội và có như thế mới thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Tuy nhiên, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống kinh tế phải xuất phát từ thực tế khách quan, phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, gắn với thực hiện công bằng xã hội. mới mong đạt được những hiệu quả tốt nhất.

Người có công là bộ phận hết sức đặc thù của xã hội Việt Nam. Bởi vì không đâu như ở Việt Nam, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho đất nước diễn ra trong một thời gian rất dài và vô cùng ác liệt đã để lại hậu quả vô cùng nặng nề về sức người và sức của. Trong đó, người có công là lực lượng chủ yếu chịu nhiều hy sinh mất mát. Đó là những người như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: "Khi nạn ngoại xâm ào ạt đến, nó như trận lụt to. Nó đe doạ cuốn trôi cả tính mệnh, tài sản, chìm đắm cả bố mẹ, vợ con nhân dân ta. Trước cơ nguy biến ấy, số đông thanh niên yêu quý của nước ta đã dũng cảm xông ra trận. Họ quyết tâm đem xương máu của họ đắp thành một bức tường đồng, một con đê vững để ngăn nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc làm hại đồng bào. Họ quyết hy sinh tính mệnh để giữ tính mệnh đồng bào.

Họ quyết hy sinh gia đình, tài sản của họ để bảo vệ gia đình và tài sản đồng bào. Họ quyết liều chết chống địch để cho Tổ quốc và đồng bào sống. Họ là những chiến sỹ anh dũng của chúng ta. Trong đó có người đã bỏ lại một phần thân thể ở mặt trận, có người đã bỏ mình ở chiến trường. Đó là thương binh liệt sỹ". Nhận rõ sự hy sinh to lớn đó người từng dạy: "Những người con trung hiếu ấy Chính phủ và đồng bào phải báo đáp thế nào cho xứng đáng", "Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, giúp đỡ cho những người con anh dũng ấy, mọi người phải luôn học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sỹ để vượt qua tất cả khó khăn, gian khổ hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sỹ đã để lại" [ 1, tr.16-17].

Người có công đa phần những người yếu thế, khó khăn về kinh tế, là những người cần được Nhà nước xã hội chăm lo một cách đặc biệt. Vì vậy, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần đối với người có công không chỉ là sự đền ơn đáp nghĩa và không chỉ là trách nhiệm của Đảng, nhà nước, mà còn là trách nhiệm của cộng đồng và của toàn xã hội.

Thực hiện đạo lý truyền thống của dân tộc ”Uống nước nhớ nguồn” “Đền ơn đáp nghĩa” những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, chế độ và tổ chức vận động toàn dân, toàn quân chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần đối với thương binh, gia đình liệt sỹ và người có công, giải quyết có hiệu quả những tồn đọng về chính sách sau chiến tranh, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước, tăng thêm lòng tin đối với Đảng, nhà nước. Đặc biệt, trong lĩnh vực đời sống kinh tế của người có công ngày càng được quan tâm và có cải thiện đáng kể, hệ thống chính sách với các chế độ trợ cấp, đãi ngộ từng bước được điều chỉnh, việc tổ chức sản xuất - việc làm được quan tâm thích đáng, việc cải thiện nhà ở được đầu tư triển khai ở nhiều cấp, các chương trình chăm sóc người có công được xã hội và cộng đồng quan tâm và đã có những kết quả to lớn góp phần cải thiện cuộc sống đối với người có công. Đến nay, đa số gia đình chính sách có cuộc sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư nơi cư trú.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được đời sống của một bộ phận không nhỏ thương bệnh binh, thân nhân liệt sỹ còn nhiều khó khăn, nhất là đối tượng ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng trước đây. Tình hình đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước và nhân dân ta phải tiếp tục làm tốt hơn công tác chăm sóc, tiếp tục nâng cao mức sống, đảm bảo đời sống của họ ngày một tốt hơn.

Xuất phát từ thực trạng đời sống kinh tế người có công thời gian qua ở Quảng Nam, để tổ chức khảo sát một cách cơ bản, đề ra các giải pháp hiệu quả, góp phần nâng cao đời sống của người có công trên phạm vi của tỉnh Quảng Nam nói riêng và cả nước nói chung. Do đó tôi chọn đề tài: Nõng cao đời sống kinh tế người có công ở tỉnh Quảng Nam, làm luận văn tốt nghiệp

doc88 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 898 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Nâng cao đời sống kinh tế người có công ở tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Hoạt động sống của con người gắn liền với quá trình không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống. Trong đó, đời sống kinh tế là vấn đề cốt lõi, là điều kiện tất yếu khách quan đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội, không phân biệt quốc gia, dân tộc, giai cấp. Xét đến cùng, mọi cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết vấn đề kinh tế, là không ngừng thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người, của xã hội loài người, hay nói một cách khác là không ngừng nâng cao đời sống kinh tế. Trong quá trình phát triển lịch sử xã hội loài người đã trải qua nhiều hình thái kinh tế xã hội, hình thái kinh tế xã hội sau bao giờ cũng tiến bộ và phát triển hơn hình thái kinh tế xã hội trước. Trong đó, nền kinh tế xã hội của hình thái xã hội sau bao giờ cũng phát triển hơn xã hội trước. Dưới góc độ kinh tế - chính trị, mục tiêu phát triển kinh tế là những điều kiện, động lực mạnh mẽ thúc đẩy và đảm bảo để nâng cao đời sống của con người, xã hội. Ngược lại, nền kinh tế kém phát triển sẽ kìm hãm sự phát triển của quốc gia, dân tộc. Vì vậy, việc nghiên cứu xây dựng các chính sách đảm bảo phát triển kinh tế bền vững để tạo tiền đề nâng cao đời sống kinh tế cho cộng đồng xã hội và có như thế mới thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Tuy nhiên, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống kinh tế phải xuất phát từ thực tế khách quan, phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, gắn với thực hiện công bằng xã hội... mới mong đạt được những hiệu quả tốt nhất. Người có công là bộ phận hết sức đặc thù của xã hội Việt Nam. Bởi vì không đâu như ở Việt Nam, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho đất nước diễn ra trong một thời gian rất dài và vô cùng ác liệt đã để lại hậu quả vô cùng nặng nề về sức người và sức của. Trong đó, người có công là lực lượng chủ yếu chịu nhiều hy sinh mất mát. Đó là những người như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: "Khi nạn ngoại xâm ào ạt đến, nó như trận lụt to. Nó đe doạ cuốn trôi cả tính mệnh, tài sản, chìm đắm cả bố mẹ, vợ con nhân dân ta. Trước cơ nguy biến ấy, số đông thanh niên yêu quý của nước ta đã dũng cảm xông ra trận. Họ quyết tâm đem xương máu của họ đắp thành một bức tường đồng, một con đê vững để ngăn nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc làm hại đồng bào. Họ quyết hy sinh tính mệnh để giữ tính mệnh đồng bào. Họ quyết hy sinh gia đình, tài sản của họ để bảo vệ gia đình và tài sản đồng bào. Họ quyết liều chết chống địch để cho Tổ quốc và đồng bào sống. Họ là những chiến sỹ anh dũng của chúng ta. Trong đó có người đã bỏ lại một phần thân thể ở mặt trận, có người đã bỏ mình ở chiến trường. Đó là thương binh liệt sỹ". Nhận rõ sự hy sinh to lớn đó người từng dạy: "Những người con trung hiếu ấy Chính phủ và đồng bào phải báo đáp thế nào cho xứng đáng", "Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, giúp đỡ cho những người con anh dũng ấy, mọi người phải luôn học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sỹ để vượt qua tất cả khó khăn, gian khổ hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sỹ đã để lại" [ 1, tr.16-17]. Người có công đa phần những người yếu thế, khó khăn về kinh tế, là những người cần được Nhà nước xã hội chăm lo một cách đặc biệt. Vì vậy, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần đối với người có công không chỉ là sự đền ơn đáp nghĩa và không chỉ là trách nhiệm của Đảng, nhà nước, mà còn là trách nhiệm của cộng đồng và của toàn xã hội. Thực hiện đạo lý truyền thống của dân tộc ”Uống nước nhớ nguồn” “Đền ơn đáp nghĩa” những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, chế độ và tổ chức vận động toàn dân, toàn quân chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần đối với thương binh, gia đình liệt sỹ và người có công, giải quyết có hiệu quả những tồn đọng về chính sách sau chiến tranh, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước, tăng thêm lòng tin đối với Đảng, nhà nước. Đặc biệt, trong lĩnh vực đời sống kinh tế của người có công ngày càng được quan tâm và có cải thiện đáng kể, hệ thống chính sách với các chế độ trợ cấp, đãi ngộ từng bước được điều chỉnh, việc tổ chức sản xuất - việc làm được quan tâm thích đáng, việc cải thiện nhà ở được đầu tư triển khai ở nhiều cấp, các chương trình chăm sóc người có công được xã hội và cộng đồng quan tâm và đã có những kết quả to lớn góp phần cải thiện cuộc sống đối với người có công... Đến nay, đa số gia đình chính sách có cuộc sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư nơi cư trú. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được đời sống của một bộ phận không nhỏ thương bệnh binh, thân nhân liệt sỹ còn nhiều khó khăn, nhất là đối tượng ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng trước đây. Tình hình đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước và nhân dân ta phải tiếp tục làm tốt hơn công tác chăm sóc, tiếp tục nâng cao mức sống, đảm bảo đời sống của họ ngày một tốt hơn. Xuất phát từ thực trạng đời sống kinh tế người có công thời gian qua ở Quảng Nam, để tổ chức khảo sát một cách cơ bản, đề ra các giải pháp hiệu quả, góp phần nâng cao đời sống của người có công trên phạm vi của tỉnh Quảng Nam nói riêng và cả nước nói chung. Do đó tôi chọn đề tài: Nõng cao đời sống kinh tế người cú cụng ở tỉnh Quảng Nam, làm luận văn tốt nghiệp . 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công trong nhiều thập niên qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm có nhiều chủ trương chính sách và tăng cường công tác quản lý chỉ đạo tổ chức thực hiện nhằm từng bước nâng cao đời sống người có công. Các ngành các cấp, luôn xem đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng thường xuyên trong việc xây dựng triển khai các chiến lược trung hạn, dài hạn và các giải pháp có tính lâu dài cũng như trước mắt. Trên cấp độ quốc gia, sau hàng loạt các Nghị định đã ban hành, năm 1995 Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh ưu dãi đối với Thương bệnh binh, gia đình liệt sỹ, người có công. Đây là lần đầu tiên có một Pháp lệnh được xây dựng có cơ sở khoa học, có hệ thống về đối tượng và tiêu chuẩn, về chế độ chính sách, định tính và định lượng hợp lý... đã thể hiện sự quan tâm của Đảng, nhà nước đối với người có công, qua đó đảm bảo được một bước lợi ích, công bằng xã hội và góp phần nâng cao đời sống kinh tế của họ, góp phần ổn định chính trị xã hội trong thời gian qua. Tuy nhiên, dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường trong quá trình đổi mới, nhiều chính sách, chế độ không còn phù hợp, nhà nước đã nghiên cứu, ban hành nhiều Nghị định kịp thời điều chỉnh chế độ chính sách đối với người có công, để phù hợp với giai đoạn phát` triển mới, ngày 29/6/2005 Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 26/2005/PL-UBTVQH11, đây là một văn bản được xây dựng trên cơ sở khoa học nghiên cứu một cách hệ thống, phù hợp với tình hình hiện nay, định hướng cho việc thực hiện chính sách ưu đãi, góp phần cải thiện nâng cao đời sống kinh tế đối với người có công ở giai đoạn hiện nay và trong những năm tới. Riêng đối với tỉnh Quảng Nam, việc nghiên cứu, ban hành các cơ chế chính sách mặc dù đã có nhiều người đề cập nhưng còn phân tán, thiếu tính hệ thống và không cơ bản. Các công trình nghiên cứu tổng kết việc thực hiện các chương trình hỗ trợ, góp phần nâng cao đời sống kinh tế đối với người có công như việc tổng kết thực hiện 5 năm, 10 năm thực hiện Pháp lệnh ưu đãi người có công năm 1995, Đề án hỗ trợ cải thiện nhà ở đối với người có công giai đoạn 1995-2000 và 2001-2005; Tổng kết thực hiện chương trình giải quyết việc làm theo Nghị quyết 120/HĐBT, ngày 11/4/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ)... đã bước đầu đã xác định rõ việc thực hiện chính sách đối với người có công, đã góp phần cải thiện đáng kể đời sống vật chất và tinh thần đối với người có công và góp phần vào sự tăng trưởng phát triển kinh tế, ổn định trật tự xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Đồng thời qua các công trình trên cũng đã khái quát được tình hình thực hiện chính sách, đảm bảo công bằng xã hội, trách nhiệm của nhà nước, xã hội đối với người có công của nhà nước nói chung và của tỉnh Quảng Nam nói riêng trong thời gian qua. Song những công trình đó mới chỉ nêu những vấn đề có tính hiện tượng, bề ngoài, kết quả tổ chức thực hiện, hạn chế ở việc giới thiệu một số kết quả nhất định chưa phân tích những căn nguyên, những nhân tố có tính cốt lõi tác động đến việc thực hiện chính sách, đảm bảo nâng cao đời sống nói chung và đời sống kinh tế của người có công trong thời gian qua và vì vậy việc đề ra giải pháp chưa mang tính cơ bản khái quát, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn hiện nay trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, về giới khoa học, tuy trong thời gian qua đã có một số đề án nghiên cứu ở cấp quốc gia nhằm phục vụ cho việc xây dựng các chính sách đối với người có công ở tầm vĩ mô, nhưng ở trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ngoài việc tổ chức một số cuộc toạ đàm mang tính lĩnh vực (toạ đàm về hỗ trợ cải thiện nhà ở đối với người có công), các cuộc khảo sát nhỏ (nhóm đối tượng như: Khảo sát thực trạng chăm sóc Thương bệnh binh nặng; thực trạng chăm sóc, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng)... việc nghiên cứu khoa học về những vấn đề liên quan đến lợi ích kinh tế của người có công còn rất nhiều hạn chế, chưa có công trình nào trùng tên với đề tài nghiên cứu. Vì vậy, việc cần có một công trình nghiên cứu một cách độc lập và sâu sắc dưới góc độ kinh tế chính trị để tìm ra những vấn đề mang tính quy luật, khách quan trong sự vận động của đời sống kinh tế của người có công trên địa bàn tỉnh đến nay vẫn còn bỏ ngõ. Và đó cũng là những nguyên nhân chưa tạo ra được các giải pháp mang tính cơ bản lâu dài để giúp cho người có công đảm bảo cuộc sống cá nhân, gia đình họ và qua đó đóng góp cho sự phát triển chung của xã hội thúc đẩy sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn Xuất phát từ tính chất vấn đề cần nghiên cứu và khả năng của bản thân, luận văn đặt ra các mục đích và nhiệm vụ sau đây: 3.1. Mục đích của luận văn - Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta cũng như các nhà khoa học khác về vấn đề công bằng xã hội, nâng cao đời sống kinh tế đối với người có công . - Khái quát bức tranh về thực trạng người có công, tình hình thực hiện các chính sách, đảm bảo lợi ích, công bằng xã hội, nâng cao đời sống kinh tế của người có công, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp mang tính khả thi cho việc tìm kiếm các cách thức nhằm góp phần nâng cao đời sống nói chung và đời sống kinh tế cho đối tượng người có công trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn - Khảo sát, kế thừa và nghiên cứu các công trình, các tài liệu có liên quan đến hướng nghiên cứu của luận văn. - Làm rõ lý luận chung về công bằng xã hội và nâng cao đời sống kinh tế đối với người có công. - Phân tích thực trạng đối tượng người có công và đời sống của người có công trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ 1997 đến nay. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để góp phần nâng cao đời sống kinh tế đối với người có công trên địa bàn tỉnh, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Luận văn nghiên cứu về thực tiễn đời sống người có công ở địa bàn tỉnh Quảng Nam. - Luận văn nghiên cứu các vấn đề về liên quan đến đời sống nói chung và đời sống kinh tế người có công và các vấn đề có liên quan chủ yếu là trong những năm 2001-2005. Các vấn đề có liên quan khi nghiên cứu nhằm phục vụ cho việc kiến giải các lập luận, các giải pháp, các nhận định được luận văn rút ra. 5. Phương pháp nghiên cứu luận văn Để đạt được mục tiêu và nhiệm vụ luận văn đặt ra, ngoài phương pháp luận khoa học Mác - Lênin, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: khảo sát, điều tra nghiên cứu thực tế, tổng hợp, phân tích và một số phương pháp khác có liên quan. 6. ý nghiã của luận văn Có thể cung cấp cho các cấp chính quyền, các nhà khoa học quan tâm đến vấn đề công bằng xã hội và đời sống kinh tế của người có công địa bàn tỉnh Quảng Nam những luận cứ khoa học. Vấn đề mang tính lý luận về chính sách đối với người có công trên phạm vi cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Quảng Nam nói riêng. Kết quả của luận văn có thể giúp cho các cấp chính quyền trong địa bàn tỉnh tham khảo, nghiên cứu ứng dụng trong việc hoạch định các chính sách kinh tế đối với người có công trên địa bàn địa phương đơn vị mình. 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu nội dung luận văn gồm 3 chương 6 tiết. Chương 1 Nâng cao đời sống kinh tế đối với người có công - một trong những nhiệm vụ để thực hiện công bằng xã hội 1.1. công bằng xã hội là một Tất yếu của kinh tế thị trường hiện đại 1.1.1. Khái niệm công bằng xã hội Công bằng xã hội là một phạm trù lịch sử. Trong mỗi giai đoạn phát triển của nhân loại, con người có quan niệm và đánh giá khác nhau về công bằng xã hội phù hợp với địa vị, lợi ích của từng giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội đó. Chính vì vậy khi đề cập đến công bằng xã hội Ph.ăng-ghen viết: “Công bằng của của những người Hy Lạp và La Mã là sự công bằng của chế độ nô lệ. Công bằng của giai cấp tư sản năm 1789 là những đòi hỏi phải xoá bỏ chế độ phong kiến mà nó coi là bất công” [12, tr.273]. Từ điển Bách khoa Việt Nam viết về công bằng xã hội: Công bằng xã hội là phương thức đúng đắn nhất để thỏa mãn một cách hợp lý những nhu cầu của các tầng lớp xã hội, các nhóm xã hội, các cá nhân, xuất phát từ những khả năng hiện thực của những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Về nguyên tắc, chưa thể có sự công bằng nào được coi là tuyệt đối trong chừng mực mà mâu thuẩn giữa nhu cầu của con người và khả năng hiện thực của xã hội còn chưa được giải quyết. Bởi vậy, mỗi thời đại lại có những đòi hỏi riêng về công bằng xã hội. Tư tưởng về công bằng xã hội được đặt ra rất sớm trong lịch sử nhân loại. Khi tư duy đạt đến trình độ nhất định, con người đã biết đặt mình trong mối quan hệ với tự nhiên, với người khác và với xã hội. Có so sánh mới thấy sự hơn thua, cao thấp, được mất giữa người này với người khác, giữa cá nhân với xã hội. Có thể nói so sánh là khởi điểm của tư tưởng công bằng. Xã hội càng phát triển thì tư tưởng về công bằng càng phát triển. ở xã hội cộng sản nguyên thuỷ, con người sinh hoạt và lao động mang tính cộng đồng nhằm thoả mãn nhu cầu của mình. Xã hội này tồn tại trên nguyên tắc cùng làm cùng hưởng. Do sản xuất hết sức thấp kém làm cho sản phẩm lao động quá ít ỏi chỉ đảm bảo cho sự tồn tại của cộng đồng ở mức tối thiểu, do vậy sản phẩm đó phải được chia đều cho mọi thành viên trong cộng đồng. Như vậy ở thời kỳ này công bằng xã hội là phương thức để đảm bảo cho sự tồn tại của cộng đồng nguyên thuỷ- phương thức tối ưu và duy nhất. Sự công bằng ở thời kỳ này đồng nhất với chủ nghĩa bình quân. ở cuối thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, do lực lượng sản xuất phát triển của cải làm ra không những đủ nuôi sống cộng đồng mà còn có tích luỹ. Chính phần của cải dư thừa nầy đủ kích thích cho sự nẩy sinh xung đột về lợi ích của những người trong cộng đồng. Tư hữu, giai cấp và nhà nước ra đời làm cho công bằng xã hội bị vi phạm ở mức độ “văn minh hơn”. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra ngày càng gay gắt và công bằng xã hội trở thành một trong những nội dung chính trị của cuộc đấu tranh đó. Trong các thời đại khác nhau, con người đều quan tâm đến vấn đề công bằng xã hội và đã có nhiều nhận thức đánh giá giải quyết khác nhau: Pla-tôn (427-437, trước Công nguyên) là một trong những nhà triết học kiệt xuất thời cổ đại. Trong học thuyết triết học của mình, Pla- tôn cho rằng: xã hội được chia làm ba hạng người tương ứng với ba phần của linh hồn con người. Nhà nước xuất hiện từ sự đa dạng của nhu cầu con người và từ đó xuất hiện các dạng phân công lao động để thoả mãn nhu cầu ấy. Vì vậy trong xã hội cần phải duy trì các hạng người khác nhau, và do đó không thể có sự hoàn toàn bình đẳng giữa mọi người được. Công lý là ở chỗ mỗi hạng người làm hết trách nhiệm của mình, biết sống đúng với tầng lớp của mình, nói một cách khác là phải biết phận mình. A-rixtốt (384-322 trước công nguyên) bộ óc bách khoa toàn thư của triết học Hy Lạp cổ đại. Ông cho rằng, việc phân chia giai cấp và địa vị giai cấp là một trật tự tự nhiên. Công bằng là sự đối xử ngang nhau, bình đẳng chỉ với những người trong cùng một giai cấp. Còn những người ở các giai cấp khác nhau thì không thể có chung một sự công bằng. Đó chính là lẽ đương nhiên, là sự công bằng của tự nhiên. T. Hốp-xơ (1588-1679) là nhà triết học đại biểu cho chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII. Vấn đề trung tâm trong học thuyết của ông là lạm bàn về xã hội và nhà nước, Hốp-xơ cho rằng: con người là giống nhau, nghĩa là theo tạo hóa, con người phải bình đẳng, phải được hưởng sự công bằng. Nhưng do lòng tham lam ích kỷ và dục vọng của bản thân nên không thể có sự bình đẳng và công bằng với nhau được. Từ sự phân tích đó ông chỉ ra: để đi đến sự hoà hợp, công bằng giữa con người với con người thì phải có một lực lượng đứng lên trên dàn xếp các lợi ích cá nhân, đó là Nhà nước. Như vậy Hốp-xơ đã có tư tưởng duy vật về các hiện tượng xã hội. Tuy nhiên ông không thấy được nhà nước cũng mang bản chất giai cấp cuả nó, trong xã hội có đối kháng giai cấp, nhà nước không thể nào thiết lập được sự công bằng chung cho toàn xã hội. Xpi-nô-za (1632-1677), nhà triết học duy vật lỗi lạc Hà Lan, là người kế tục Hốp - xơ trong học thuyết về xã hội. Ông đưa ra quan điểm hạn chế quyền lực vô hạn của nhà nước bằng những đòi hỏi về tự do. Xpi-nô-za đã đề ra tư tưởng giải phóng con người và chìa khoá để giải phóng chính là nhận thức. Nhận thức và không ngừng nâng cao nhận thức là biện pháp để con người tránh khỏi mọi tệ nạn xã hội, giải phóng mọi áp bức bất công. Theo ông, những tệ nạn xã hội, áp bức và bất công có nguyên nhân từ sự dốt nát, không nhận thức được hiện thực, không chế ngự được lòng tham của mình. Tuy nhiên, ở đây ông đã bộc lộ quan điểm không triệt để về xã hội. J.J. Rút-xô (1712-1778) nhà triết học khai sáng vĩ đại người Pháp, đã phê phán các quan hệ đẳng cấp và chế độ chuyên chế. Theo ông, xã hội công dân đã tạo ra một xiềng xích mới để trói buột kẻ yếu, trao vũ khí và sinh lực cho kẻ mạnh, tiêu diệt không thương tiếc bình đẳng cá nhân, duy trì quan hệ bất bình đẳng. Muốn xoá bỏ bất công cần phải có một nhà nước kiểu mới trong đó nhân dân phải có vai trò thật sự trong chính quyền. Rút-xô đã phê phán sâu sắc tính hai mặt của sở hữu tư nhân và chính sở hữu tư nhân làm cho xã hội phân hoá thành kẻ giàu người nghèo. Các cơ sở pháp lý về sở hữu là xiềng xích trói buộc người nghèo và là đôi cánh cho những người giàu có. Như vậy, mặt trái của sở hữu đã làm cho xã hội bất công hơn. Để xoá bỏ được tình trạng đó, con người cần phải lập “khế ước xã hội” để cải biến chính mình, loại bỏ tính xấu xa đặc biệt là lòng tham và tính ích kỷ thì sẽ đạt được công bằng và bình đẳng. Những giải pháp của ông mang ý tưởng nhân đạo nhất định, tuy nhiên vẫn chưa thoát khỏi hạn chế của lịch sử. Can- tơ (1724-104), người thiết lập nền triết học cổ điển Đức, ông có những đóng góp hết sức to lớn vào tư tưởng công bằng xã hội. Theo ông, công bằng xã hội bao gồm công bằng về bảo hộ, công bằng trong trao đổi và trong phân phối. Trong đó công bằng trong phân phối là quan trọng nhất. Theo ông, trạng thái không pháp luật là một xã hội không công bằng về phân phối, thông thường gọi nó là trạng thái tự nhiên. Đối lập với trạng thái tự nhiên là trạng thái văn minh, bởi vì xã hội này xây dựng trên sự công bằng về phân phối. Tư tưởng của Can-tơ về công bằng sau này được nhiều người chấp nhận và vận dụng. Các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng như Xanh- xi-mông người (Pháp), Pu-riê (người Pháp) và Owen (người Anh) đã phê phán xã hội đương thời được xây dựng trên nền tảng tư hữu- nguyên nhân của mọi bất công xã hội. Đồng thời, đề ra việc xây dựng một xã hội mới mà trong đó nguyên tắc tối cao là mọi người đều phải lao động, mọi người đều được hưởng thụ như nhau, xoá bỏ hết mọi đặc quyền, đặc lợi, xây dựng một xã hội công bằng. Xã hội công bằng là điều kiện để đem đến sự công bằng cho tất cả các thành viên. Tuy nhiên, mô hình xã hội mà các ông xây dựng ngay từ đầu đã biến thành những điều không tưởng (cả lý luận và thực tiễn). Như vậy, vấn đề công bằng xã hội được đề cập trong suốt quá trình lịch sử của nhân loại, nó phản ánh sự đấu tranh của các giai cấp về quyền sỡ hữu về tư liệu sản xuất, tổ chức và quản lý sản xuất, xã hội, phân phối và sử dụng sản phẩm lao động. Các nhà tư tưởng trong lịch sử nhân loại đã trình bày những quan niệm khác nhau về công bằng xã hội mặc dù chưa đầy đủ và chưa hệ thống. Song những quan niệm đó là tiền đề lý luận quan trọng làm cơ sở cho việc nghiên cứu vấn đề công bằng xã hội cho các nhà tư tưởng sau này. * Quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lê-nin về công bằng xã hội trong chủ nghĩa xã hội. Bằng việc kế thừa có chọn lọc những tư tưởng của các nhà triết học trước đó, trên nền tảng thế giới quan duy vật biện chứng, Các Mác, Ph.Ăng- ghen và V.I.Lênin đã giải quyết một cách triệt để các vấn đề về tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong học thuyết của mình các ông đã bàn nhiều về công bằng xã hội. Khi phân tích chủ nghĩa tư bản, Các Mác đã chỉ ra rằng: sự tăng trưởng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản đồng nghĩa với quá trình tăng cường bóc lột giai cấp công nhân, do vậy sự tăng trưởng đó, về bản chất không dẫn đến công bằng xã hội được. Phương thức phân phối trong chủ nghĩa tư bản là bất hợp lý, bởi nó không dựa vào sức lao động, mà căn cứ vào tài sản, vào lượng vốn. Và kết quả của những phương thức này là: nhà tư bản ngày càng giàu lên trên sự đau khổ và nghèo đói của những người lao động, người công nhân. Từ sự phân phối không công bằng đó đã làm cho những mâu thuẫn xã hội nẩy sinh và ngày càng trở nên gay gắt. Các Mác đã chỉ ra rằng phương thức phân phối tư bản chủ nghĩa đó sẽ mất đi khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hoá ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất trong phương thức tư bản chủ nghĩa trở nên gay gắt đến mức bùng nổ cách mạng xã hội xã hội chủ nghĩa, để mở ra một thời đại mới. Trong thời đại mới đó tư liệu sản xuất sẽ được công hữu hoá và phương thức phân phối sản phẩm sẽ hợp lý hơn, công bằng xã hội sẽ được đảm bảo. Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô-ta” Các Mác đã chỉ ra những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội “Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó một xã hội về mọi phương diện: kinh tế, đạo đức, tinh thần, còn mang dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra”[13,tr.33]. Do đó, theo Các Mác, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa người lao động làm việc theo năng lực của bản thân và được nhận lại phần vừa đúng cái mà anh ta đã đóng góp cho xã hội sau khi đã trừ đi số lao động cần thiết để duy trì phát triển sản xuất và quỹ phúc lợi xã hội. Đây là một nguyên tắc mang tính công bằng trong chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, theo nguyên tắc này tất cả những người sản xuất đều có quyền ngang nhau trong việc tham gia vào quỹ tiêu dùng của xã hội khi làm một công việc ngang nhau. Nguyên tắc phân phối trên đây được coi là công bằng. Tuy nhiên Các Mác cũng chỉ rõ rằng trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, sự phân phối công bằng đó chẳng những chưa loại trừ được, mà vẫn còn hàm chứa trong nó sự chấp nhận một tình trạng bất bình đẳng nhất định giữa các thành viên trong xã hội và với một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế người này vẫn lĩnh hơn người kia, người nầy vẫn giàu hơn người kia” [12, tr.35], do vậy, “Muốn tránh tất cả những thiếu sót ấy thì quyền phải không bình đẳng, chứ không phải là bình đẳng” [13, tr.35]. Đây vừa là ưu việt, vừa là thiếu sót của phân phối theo lao động, một thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa. V.I. Lênin trong một số tác phẩm của mình cũng đã đề cập đến vấn đề công bằng xã hội trong chủ nghiã xã hội, ông cho rằng “Như thế là trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa (mà người ta vẫn thường gọi là chủ nghĩa xã hội), “pháp quyền tư sản” chưa bị xoá bỏ hoàn toàn, mà chỉ bị xoá bỏ một phần, chỉ bị xoá bỏ với mức độ phù hợp với cuộc cách mạng kinh tế đã được hoàn thành, nghĩa là chỉ trong phạm vi tư liệu sản xuất thôi. “Pháp quyền tư sản” thừa nhận tư liệu sản xuất là sở hữu riêng của cá nhân. Chủ nghĩa xã hội biến tư liệu sản xuất thành tài sản chung” [11, tr.116]. Đặc biệt V.I. Lênin chú ý đến công bằng trong phân phối lao động “Người nào không làm thì không có ăn”: nguyên tắc xã hội chủ nghĩa ấy được thực hiện: “Số lượng lao động ngang nhau, thì hưởng số lượng sản phẩm ngang nhau”, nguyên tắc xã hội chủ nghĩa naỳ cũng đã được thực hiện” [11, tr.116]. Như vậy, theo Các Mác, Ph.Ăng ghen và V.I.Lênin thì trong chủ nghĩa xã hội, công bằng xã hội trong lĩnh vực kinh tế đóng vai trò là cơ sở và quyết định các lĩnh vực khác như văn hoá, xã hội... cụ thể là về phương diện quan hệ giữa cống hiến (thực hiện nghiã vụ) và hưởng th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDu thao lan 1.doc
  • docbia.doc
Tài liệu liên quan