Luận văn Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự ở tỉnh An Giang

Trong quá trình xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, về lĩnh vực tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Đảng chủ trương phải thực hiện đồng bộ ba cuộc cải cách: cải cách tư pháp, cải cách pháp luật, cải cách hành chính. Đây là những vấn đề rất quan trọng đã và đang được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, của các ngành, các cấp.

Tuy vẫn còn những ý kiến khác nhau từ nghiên cứu lý luận và thực tiển, nhưng nhìn chung đã xác định rằng để đảm bảo cho công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính thành công thì vấn đề trọng yếu của quá trình xây dựng Nhà nước Pháp quyền và cũng là nhân tố không thể thiếu, đó là cải cách tư pháp.

“Về một số trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” của Nghị quyết 08–NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị đã chỉ rõ “ nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà, đảm bảo tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác ” và nghị quyết 49–NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tiếp tục khẳng định “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp ” là những định hướng và yêu cầu thúc đẩy việc nghiên cứu nhiều hơn nữa vấn đề tranh tụng trong hoạt động tố tụng, về chất lượng tranh tụng của Viện Kiểm sát thực hành quyền công tố, mở rộng yếu tố tranh tụng và vì vậy, tranh tụng được xác định là một trong những nội dung quan trọng về cải cách tư pháp.

Từ những vấn đề trên, về mặt lý luận, thực tiển và từ yêu cầu thực hiện nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà là một trong những nội dung cần được quan tâm nghiên cứu nhiều thêm. Do vậy, để góp phần, tác giả luận văn chọn đề tài “Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự ở tỉnh An Giang” làm đề tài luận văn Thạc sĩ luật tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.

 

doc105 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1069 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự ở tỉnh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, về lĩnh vực tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Đảng chủ trương phải thực hiện đồng bộ ba cuộc cải cách: cải cách tư pháp, cải cách pháp luật, cải cách hành chính. Đây là những vấn đề rất quan trọng đã và đang được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, của các ngành, các cấp. Tuy vẫn còn những ý kiến khác nhau từ nghiên cứu lý luận và thực tiển, nhưng nhìn chung đã xác định rằng để đảm bảo cho công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính thành công thì vấn đề trọng yếu của quá trình xây dựng Nhà nước Pháp quyền và cũng là nhân tố không thể thiếu, đó là cải cách tư pháp. “Về một số trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” của Nghị quyết 08–NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị đã chỉ rõ “… nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà, đảm bảo tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác…” và nghị quyết 49–NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tiếp tục khẳng định “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp…” là những định hướng và yêu cầu thúc đẩy việc nghiên cứu nhiều hơn nữa vấn đề tranh tụng trong hoạt động tố tụng, về chất lượng tranh tụng của Viện Kiểm sát thực hành quyền công tố, mở rộng yếu tố tranh tụng … và vì vậy, tranh tụng được xác định là một trong những nội dung quan trọng về cải cách tư pháp. Từ những vấn đề trên, về mặt lý luận, thực tiển và từ yêu cầu thực hiện nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà là một trong những nội dung cần được quan tâm nghiên cứu nhiều thêm. Do vậy, để góp phần, tác giả luận văn chọn đề tài “Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự ở tỉnh An Giang” làm đề tài luận văn Thạc sĩ luật tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong tố tụng hình sự, tranh tụng giữa các chủ thể có liên quan trong quá trình xử lý tội phạm qua những vụ án hình sự là vấn đề không phải mới trong khoa học pháp lý và được ghi nhận thành nguyên tắc của tố tụng hình sự và áp dụng phổ biến hầu hết các nước trên thế giới. Ở nước ta, tranh tụng chưa được quy định là một trong những nguyên tắc cơ bản của Bộ luận Tố tụng hình sự hiện hành, chỉ được thể hiện tại một số điều của Bộ luật. Vì vậy, vấn đề áp dụng nguyên tắc tranh tụng, đảm bảo tranh tụng dân chủ giữa các chủ thể mà trong đó có vai trò của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố thể hiện năng lực tranh tụng tại phiên tòa xét xử án hình sự cũng đang thu hút sự chú ý của các nhà khoa học pháp lý nghiên cứu. Có những công trình và đề tài khoa học về lĩnh vực này, trong đó đáng chú ý như: Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Đức Mai về “Vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự” – năm 1996. Nội dung luận văn làm rõ tính khoa học và sự cần thiết trong hoạt động tranh tụng, đáp ứng yêu cầu trong quan hệ tố tụng tại phiên tòa xét xử hình sự. Luận văn Thạc sỹ luật học của Nguyễn Tiến Long về “Thực hiện pháp luật đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử hình sự sơ thẩm ở Việt Nam hiện nay” – năm 2005. Qua nội dung của luận văn đã làm rõ thêm các khái niệm tranh tụng; vai trò, đặc điểm của tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong xét xử hình sự từ đó đề xuất các giải pháp đảm bảo tranh tụng trong xét xử hình sự sơ thẩm ở nước ta hiện nay. Luận văn Thạc sỹ luật học của Hoàng Anh Phương “Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự ở Việt Nam hiện nay” – năm 2007. Nội dung của luận văn đã phân tích và đánh giá một cách hệ thống cơ sở lý luận năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên; các tiêu chí đánh giá và thực trạng về năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự ở Việt Nam hiện nay và đề xuất các giải pháp để nâng cao năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay; Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện khoa học Kiểm sát – Viện Kiểm sát nhân dân tối cao “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay” – năm 1999, đã tập hợp những nghiên cứu so sánh những vấn đề lịch sử và thực tiễn của chế định quyền công tố trong tư pháp hình sự trên thế giới, cũng như việc phân tích khoa học các đặc điểm chủ yếu của mỗi chức năng của quyền công tố trong luật tố tụng hình sự Việt Nam và đưa ra khái niệm khoa học về quyền công tố nhằm góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Đề tài khoa học cấp Bộ của Trường đào tạo các chức danh Tư pháp – Bộ Tư pháp “Tranh tụng tại phiên tòa – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” – năm 2003. Nội dung của đề tài làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến tranh tụng tại phiên tòa; đánh giá thực trạng thực hiện tranh tụng và đề ra giải pháp nhằm mở rộng tranh tụng tại phiên tòa nhằm định hướng cho việc xây dựng và thực hiện các chương trình đào tạo chức danh tư pháp ở nước ta. Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới thủ tục tranh tụng tại phiên tòa” – năm 2004. Nội dung chỉ ra một số vấn đề lý luận cơ bản về hệ thống tranh tụng qua phương pháp so sánh với hệ thống tố tụng hình sự thẩm vấn và những quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự cần sữa đổi bổ sung để đáp ứng yêu cầu khi áp dụng tố tụng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. “Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm” của Tiến sỹ Dương Thanh Biểu, Nxb Tư pháp, năm 2007. Đề cập những vấn đề lý luận, vận dụng kiến thức pháp luật, về các trình tự, nội dung liên quan việc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm và qua các ví dụ minh họa đã nêu được những tồn tại, thiếu sót của Kiểm sát viên trong tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. “Kỹ năng tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự liên quan đến phụ nữ” – Nxb CAND, năm 2007 của nhóm nghiên cứu Viện Kiểm sát nhân dân tối cao với nội dung dẫn chứng từ công ước CEDAW và Luật Bình đẳng giới của Việt Nam, tuyển chọn một số bản luận tội, bản đối đáp, tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự liên quan đến phụ nữ đã góp phần khắc phục những khuyết điểm, tồn tại của hoạt động thực hành quyền công tố, trong đó có hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự nói chung và tại phiên tòa sơ thẩm hình sự có liên quan đến phụ nữ nói riêng. Bài đăng tải trong Tạp chí Kiểm sát số 12 năm 2005 của Lê Hữu Thể: “Vai trò của Kiểm sát viên trong hoạt động tranh dụng tại phiên tòa”, có nội dung chỉ ra cách để Kiểm sát viên thực hiện tốt hơn trong hoạt động tranh tụng và các giải pháp thực hiện vai trò chủ động, tích cực qua tranh tụng. Bài đăng trong Tạp chí Kiểm sát số 8 năm 2006 của Phạm Hồng Hải về: “Thực trạng tranh tụng trong phiên tòa hình sự của Kiểm sát viên dưới góc độ luật sư”, có nội dung nêu ra những mặt được, chưa được qua thực hiện tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và những yêu cầu khắc phục để nâng cao chất lượng tranh tụng. Tuy vẫn còn nhiều bài viết khác được đăng tải trên các tạp chí nghiên cứu lập pháp, tạp chí Luật học, Thông tin khoa học pháp lý, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Tòa án nhân dân, ... Nhưng nhìn chung, nội dung các đề tài phần nhiều xoay quanh nghiên cứu hoạt động tranh tụng ở giai đoạn tố tụng sơ thẩm hình sự, còn mảng tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm hình sự ít được đề cập và năng lực Kiểm sát viên cần được nghiên cứu nhiều thêm ở cả giai đoạn tố tụng này của Bộ Luật tố tụng hình sự. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu Tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận có liên quan đến năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và những yếu tố đảm bảo năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm và thực tế thực hiện ở địa phương. Phạm vi nghiên cứu Từ thực tiễn thực hành quyền công tố của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang, luận văn nghiên cứu vấn đề về năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm và phúc thẩm ở địa phương. Luận văn không nghiên cứu vấn đề tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử phúc thẩm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao. Về thời gian nghiên cứu, luận văn chủ yếu tập trung làm rõ những vấn đề có liên quan đến đề tài trong khoảng thời gian từ năm 1998 đến năm 2007. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích nghiên cứu của luận văn Qua thực tiển, với mong muốn nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiển liên quan đến đề tài của luận văn, luận chứng và đề xuất những giải pháp để năng lực thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử án hình sự thực hiện việc tranh tụng được tốt hơn, nhằm đảm bảo phiên tòa hình sự thể hiện đầy đủ tính dân chủ, bình đẳng, khách quan, công khai và qua đó, Hội đồng xét xử ra quyết định, bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật ; góp phần hoàn thiện các quy định về tranh tụng của Bộ luật tố tụng hình sự, thực hiện cải cách tư pháp, lấy “xét xử là hoạt động trung tâm” theo tinh thần của Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 của Bộ chính trị (Khóa IX). Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Để đạt được mục đích nên trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau: Làm rõ sở lý luận về năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm. Đánh giá thực trạng về năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm ở tỉnh An Giang. Đề xuất quan điểm, giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật đảm bảo năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử án hình sự ở tỉnh An Giang. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Cơ sở lý luận của luận văn Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, nhất là các quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp. Luận văn có dựa trên cơ sở lý luận của Khoa học luật tố tụng hình sự, những nghiên cứu có liên quan đến áp dụng pháp luật theo hệ tố tụng tranh tụng, hệ tố tụng thẩm vấn. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử như phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiển, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích tổng hợp. Ngoài ra, còn sử dụng một số phương pháp của các bộ môn khoa học khác như phương pháp so sánh, thống kê kết hợp với khảo sát thực tế. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Phân tích và góp phần làm rõ thêm các khái niệm có liên quan đến đề tài như: khái nhiệm quyền công tố, thực hành quyền công tố, năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự ; các yếu tố cấu thành năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự. Đề xuất các giải pháp để nâng chất lượng năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tốt tại phiên tòa xét xử án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn, trong chừng mực, góp phần làm cơ sở tham khảo cho việc nghiên cứu, phục vụ yêu cầu thực tiễn về các tiêu chí đánh giá năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm theo phân cấp trong tố tụng hình sự. Luận văn cũng có thể sử dụng nghiên cứu, tham khảo “đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng ...” theo yêu cầu cải cách tư pháp của Nghị quyết 49 Bộ chính trị (Khóa IX). Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được trình bày thành 3 chương, 7 tiết. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ ÁN HÌNH SỰ KHÁI NIỆM NĂNG LỰC TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TẠI PHIÊN TOÀ XÉT XỬ ÁN HÌNH SỰ Để làm rõ khái niệm năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự, trước hết cần làm rõ một số khái niệm khác có liên quan đến vấn đề này. Trước hết là, Khái niệm quyền công tố Hiện nay, trong khoa học pháp lý ở nước ta tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố. Quan điểm thứ nhất cho rằng: Công tố là quyền chỉ thuộc Nhà nước, không một cá nhân, một tổ chức nào được thực hiện nếu không được Nhà nước cho phép. Từ đó đưa ra quan điểm về quyền công tố: Là một quyền năng của Nhà nước, quyền công tố được thực hiện trong tất cả các quá trình giải quyết các vi phạm pháp luật bao gồm tố tụng hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng hình sự [8, tr.87]. Quan điểm này đã coi quyền công tố là một quyền năng của Nhà nước và được giao cho cá nhân, tổ chức thực hiện việc cáo buộc đối tượng có hành vi sai trái, vi phạm pháp luật. Đối tượng bị cáo buộc là con người cụ thể hoặc một tổ chức, một cơ quan tùy theo vi phạm đối với quan hệ pháp luật nào. Trong tố tụng hình sự, cả ba cơ quan tiến hành tố tụng là Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án đều có quyền công tố. Quan điểm thứ hai cho rằng: Quyền công tố có trong hai cơ quan tiến hành tố tụng đó là cơ quan điều tra và cơ quan truy tố là Viện Kiểm sát và được Nhà nước giao quyền khởi tố, điều tra, truy tố người phạm tội: Quyền công tố là quyền của Nhà nước được giao cho các cơ quan nhất định khởi tố, điều tra và truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử và thực hiện việc buộc tội trước phiên tòa [35, tr.240]. Quan điểm này giải thích quyền công tố thuộc phạm vi tố tụng hình sự, nhưng chỉ có hai cơ quan được Nhà nước giao quyền theo tố tụng, thu hẹp hơn so với quan điểm thứ nhất. Quan điểm thứ ba cho rằng: Không có quyền công tố chung chung mà có tính cụ thể, quyền này xuất hiện một khi một tội phạm cụ thể đã được thực hiện bởi người phạm tội. Thực chất của quyền công tố là quyền của Nhà nước, ủy quyền hoặc phân công cho một cơ quan trong bộ máy Nhà nước thực hiện chức năng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Từ đó đưa ra khái niệm: Quyền công tố là quyền của một cơ quan Nhà nước được Nhà nước ủy quyền thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nhằm đưa người đó ra xét xử trước Tòa án và đồng thời bảo vệ sự buộc tội đó [7, tr.52]. Quan điểm này cũng xác định quyền công tố là quyền năng của Nhà nước ủy quyền hoặc phân công cho một cơ quan trong bộ máy Nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong lĩnh vực tố tụng hình sự là buộc tội đối với người phạm tội hình sự. Như vậy, giữa các quan điểm có khác nhau về việc xác định lĩnh vực phát sinh quyền công tố; phạm vi; chủ thể thực hiện quyền năng công tố của Nhà nước. Quan điểm thứ tư cho rằng: Khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam kế thừa luật tố tụng hình sự các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô (cũ). Mô hình tổ chức, hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân cũng được xây dựng theo mô hình tương tự. Do vậy, theo luật định giao cho Viện Kiểm sát thực hành quyền công tố ngay trong giai đoạn xét xử. Từ đó, thống nhất khái niệm: Quyền công tố là quyền đưa vụ án ra tòa để xét xử và quyền công tố có thể thực hiện từ khi kết thúc điều tra đến khi có bản luận tội của Viện Kiểm sát trước phiên tòa [19, tr.21]. So với các quan điểm nên trên, quan điểm này xác định quyền công tố chỉ phát sinh sau khi cơ quan điều tra đã hoàn tất, có kết luận điều tra và chấm dứt khi Kiểm sát viên thực hành công tố công bố việc luận tội tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. Nói cách khác, đây là quan điểm thu hẹp khái niệm quyền công tố, đồng nhất quyền công tố với thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử án hình sự. Nhìn chung, các quan điểm đã nêu trên đều dựa vào các quy định pháp luật làm cơ sở và từ thực tiển ở nước ta để nghiên cứu. Do cách tiếp cận khác nhau nên vẫn còn có những quan điểm chưa thống nhất về quyền công tố. Tuy vậy, vẫn có được nhận thức chung là nó thuộc lĩnh vực hình sự tố tụng để nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội và quyền này được luật quy định giao cho một cơ quan thực hiện nằm trong hệ thống tổ chức bộ máy của Nhà nước. Mặt khác, trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và định hướng cải cách tư pháp đến năm 2020 mà Đảng và Nhà nước đang quan tâm, các quan điểm nghiên cứu mang tính khoa học cũng đã gợi mở, kích thích việc tìm tòi nhận thức về tính xác thực của quyền công tố. Để góp phần cho công việc nghiên cứu này, tôi cho rằng: Quyền công tố là quyền riêng biệt của một trong những cơ quan nhà nước trong hệ thống cơ quan tư pháp, được Nhà nước giao quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm một hay nhiều tội danh được quy định trong Bộ luật hình sự và bảo vệ việc buộc tội của người đó tại phiên tòa xét xử án hình sự. * Từ khái niệm này, có thể xác định được: Quyền công tố là quyền đặc thù được Nhà nước giao cho một trong những cơ quan hoạt động trong lĩnh vực tư pháp nằm trong bộ máy nhà nước, ở nước ta hiện nay đó là Viện Kiểm sát nhân dân. Và quyền này được thực hiện trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Buộc tội đối với người phạm tội tại phiên tòa xét xử án hình sự là nội dung của quyền công tố qua từng vụ án cụ thể. Để thực hiện việc đó là cả một quá trình xác định những căn cứ đối với những hành vi được xem là tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự và đã được khởi tố, điều tra, cho đến lập cáo trạng chuyển hồ sơ sang tòa án để truy tố, xét xử cho đến khi hiệu lực của bản án được xác định. Như vậy, trong giai đoạn khởi tố điều tra, truy tố, xét xử thì quyền công tố luôn được thể hiện. Khái niệm thực hành quyền công tố. Với khái niệm quyền công tố nêu ở phần trên thì thực hành quyền công tố là thể hiện nội dung hoạt động của quyền công tố. Trước những năm 1980 của thế kỷ trước, thực hành quyền công tố được hiểu như là một nhiệm vụ của công tố viên (còn gọi là Kiểm sát viên) giữ quyền công tố tại các phiên tòa hình sự của giai đoạm xét xử sơ thẩm; ở giai đoạn xét xử phúc thẩm thì xem Kiểm sát viên chỉ tham gia phiên tòa khi bản án ở cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực thi hành do có kháng cáo hoặc kháng nghị. Quyền công tố sẽ bị cắt xén nếu chỉ dừng lại việc thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm án hình sự. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố là thực hiện quyền năng theo luật định. Đây cũng là việc thực hiện một chức năng cơ bản của Viện Kiểm sát thông qua các hoạt động ở các giai đoạn khác nhau được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001), Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) năm 2003 và Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân. Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân quy định . Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự Viện Kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Đọc cáo trạng, quyết định của Viện Kiểm sát nhân dân liên quan đến việc giải quyết vụ án tại phiên tòa; 2. Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm, tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm; 3. Phát biểu quan điểm của Viện Kiểm sát về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm [26, Đ.17]. Thực hành quyền công tố của Viện Kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự có cả trong giai đoạn tố tụng điều tra và tố tụng xét xử, qua đó mới đảm bảo được việc xác định sự thật của vụ án, thực hiện quyền truy cứu trách nhiệm hình sự và công khai bảo vệ sự buộc tội tại phiên tòa đối với người đã thực hiện tội phạm; Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng Hiến pháp, Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, cũng ghi nhận Viện Kiểm sát nhân dân còn một chức năng song hành với chức năng thực hành quyền công tố đó là Kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Do vậy, cần phân biệt qua đối tượng của hai chức năng luật định này, vì đối tượng của chức năng Kiểm sát hoạt động tư pháp là việc sử dụng để yêu cầu xử lý các vi phạm pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng; còn đối tượng của chức năng thực hành quyền công tố là các quyết định liên quan đến cáo buộc người phạm tội. Từ đó có thể hiểu: Thực hành quyền công tố là việc Viện Kiểm sát nhân dân thực hiện quyền năng và các biện pháp pháp lý theo quy định của pháp luật để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội và đưa người phạm tội ra phiên tòa xét xử để bảo vệ việc quy buộc tội trạng đã được xác định đối với người đó. Khái niệm về tranh tụng tại phiên tòa xét xử án hình sự Một trong những nội dung cơ bản để xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta là cải cách tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp. ... Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác ... việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định [2, tr.4]. Nếu tiếp cận theo cách thức tiến hành tố tụng thì tranh tụng là một kiểu tố tụng được áp dụng phổ biến ở hệ thống pháp luật Anh và Mỹ theo sự phân định của các chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử mà ở đó, công tố viên là phía buộc tội luôn đối lập với phía thực hiện quyền bào chữa. Một kiểu tố tụng nữa là kiểu tố tụng “thẩm vấn” cũng được áp dụng từ lâu và phổ biến ở nhiều nước theo hệ thống của Châu Âu lục địa, tại phiên tòa Thẩm phán xét xử vẫn là người xét hỏi chính, phía công tố viên và phía bào chữa chỉ thẩm vấn bổ sung để làm rõ thêm những vấn đề chưa rõ tại phiên xử công khai và ở chừng mực về quan điểm thể hiện qua đối đáp, tranh luận thì nội dung đối lập có thể hiện nhưng không nhiều: Qua nghiên cứu cho thấy, kiểu tố tụng tranh tụng hay kiểu tố tụng thẩm vấn đều có những mặt được và chưa được. Ngay trong các nước có truyền thống áp dụng cũng rút ra những vấn đề có tính khoa học để khắc phục những nhược điểm và áp dụng đan xen nhằm phục vụ yêu cầu đấu tranh chống tội phạm “như Italia vốn theo truyền thống tố tụng tranh tụng nhưng đã lâm vào tình trạng bất lực trước tình hình xã hội đen maphia phạm tội, nay đã chuyển sang kiểu tố tụng thẩm vấn kết hợp với các yếu tố tranh tụng để bảo đảm yêu cầu xử lý tội phạm được nhanh chóng, kịp thời và bảo vệ các quyền cá nhân có hiệu quả” [1, tr.17]. Như vậy, tranh tụng trong tố tụng hình sự nói chung và tranh tụng tại phiên tòa hình sự nói riêng không phải là vấn đề mới trong khoa học pháp lý thế giới, nhiều nội dung liên quan đến tranh tụng như khái niệm, bản chất của tranh tụng; phạm vi và nội dung tranh tụng ... vẫn được tiếp tục nghiên cứu làm rõ. Ở nước ta, trước khi có Nghị quyết 08 ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị thì vấn đề tranh tụng ít được bóc tách, đề cập trong khoa học pháp lý mặc dù thực tế nó đang tồn tại trong quá trình tố tụng hình sự và tại các phiên tòa xét xử án hình sự. Trong thời gian gần đây, từ những góc độ và phạm vi tiếp cận khác nhau nhằm góp phần thúc đẩy tiến trình cải cách tư pháp đã được các nhà khoa học pháp lý quan tâm nghiên cứu và đề cập nhiều hơn, nhưng cũng có những vấn đề đang còn quan điểm chưa thống nhất. Bàn về cải cách pháp luật ở nước ta hiện nay: Có quan điểm cho rằng: “Nhà nước pháp quyền chỉ có thể xây dựng thành công khi có một tổ chức tư pháp xứng đáng và luôn hướng tới đó” [4,tr.504] và qua sử dụng phương pháp so sánh, tác giả cho rằng tố tụng hình sự Việt Nam không có các đặc trưng quan trọng của tố tụng tranh tụng theo như hệ thống pháp luật Anh và Mỹ, cũng không theo hệ thống tố tụng thẩm vấn như nhiều nước ở Châu Âu lục địa, mà đặc trưng quan trọng của tố tụng hình sự hiện hành “... Là hệ tố tụng riêng biệt có thể gọi là “tố tụng buộc tội”” [4, tr.588]. Quan điểm này có nhiều điểm mới với lập luận, đề xuất khá chặt qua cơ sở lý luận và rất cần được quan tâm nghiên cứu trong tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta. Đặc biệt là về cải cách hoạt động xét xử nên hướng tới các nguyên tắc tranh tụng đã được định hướng qua các Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 của Bộ chính trị đã nêu ở phần trên. Có quan điểm khi nghiên cứu đổi mới pháp luật tố tụng hình sự để nâng cao tính tranh tụng trong quá trình xét xử đã xuất phát từ thuật ngữ “tranh tụng” được hiểu là tranh luận trong tố tụng và cho rằng: “Nâng cao tính tranh tụng trong quá trình xét xử án hình sự có nghĩa là nâng cao hơn nữa hoạt động tranh luận” [5, tr.122]. Từ đó đặt ra yêu cầu chỉ cần chủ toạ phiên tòa tăng thời gian để luật sư và bị cáo được trình bày hết các ý kiến của mình tại phiên tòa, không được ngắt lời hay hạn chế thời gian phát biểu của họ bảo đảm s

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUAN VAN.doc
  • docmục lục.doc
Tài liệu liên quan