Luận văn Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi - Thực trạng và giải pháp

Trong lịch sử phát triển của các nước, doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) luôn luôn có vai trò và tác dụng rất quan trọng. Gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ và xu hướng toàn cầu hóa kinh tế diễn ra khá sôi nổi, thực tiễn quản lý kinh tế và quản lý doanh nghiệp (DN) có những chuyển biến sâu sắc, thì các DNVVN lại càng được chú trọng.

Ở nước ta, DNVVN cũng có vai trò quan trọng, do sự phát triển còn thấp của nền kinh tế quốc dân, do tiềm năng còn lớn của nội lực dân tộc, do yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Trong 16 năm đổi mới vừa qua, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng: cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến theo hướng tiến bộ, tăng trưởng kinh tế ổn định trong một thời gian dài,. Kết quả đó có sự đóng góp của các DNVVN. Vì vậy, DNVVN ngày càng được coi trọng. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội lần thứ IX của Đảng một lần nữa chỉ rõ: "Chú trọng phát triển các DNVVN.". Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 cũng nhấn mạnh: "Phát triển mạnh các DNVVN. ".

Quảng Ngãi là một tỉnh mới được tái lập từ năm 1989 sau gần 14 năm hợp nhất với tỉnh Bình Định (từ 11/1975 đến 7/1989), là một tỉnh nghèo, với gần 90% dân số sống ở nông thôn, lại chủ yếu sống bằng nghề nông và ở mức sống thấp, lao động nhàn rỗi và dư thừa nhiều (tỷ lệ thất nghiệp chung khoảng 2,64%, tỷ lệ thất nghiệp thành thị: 5,74%). Song bên cạnh đó Quảng Ngãi lại có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế: về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, có nhiều làng nghề truyền thống, có khu công nghiệp Dung Quất, có nhiều nhà máy lớn, có lực lượng lao động dồi dào,. Vì vậy, việc phát triển và phát huy tiềm lực của các DNVVN trên địa bàn tỉnh là rất cần thiết bởi nó sẽ đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội cho tỉnh. Muốn vậy, đòi hỏi cần phải nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống về thực trạng DNVVN trên địa bàn tỉnh để từ đó tìm ra định hướng, giải pháp phát triển DNVVN trên địa bàn, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Ngãi trong những năm tới.

 

doc119 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 913 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong lịch sử phát triển của các nước, doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) luôn luôn có vai trò và tác dụng rất quan trọng. Gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ và xu hướng toàn cầu hóa kinh tế diễn ra khá sôi nổi, thực tiễn quản lý kinh tế và quản lý doanh nghiệp (DN) có những chuyển biến sâu sắc, thì các DNVVN lại càng được chú trọng. ở nước ta, DNVVN cũng có vai trò quan trọng, do sự phát triển còn thấp của nền kinh tế quốc dân, do tiềm năng còn lớn của nội lực dân tộc, do yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Trong 16 năm đổi mới vừa qua, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng: cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến theo hướng tiến bộ, tăng trưởng kinh tế ổn định trong một thời gian dài,... Kết quả đó có sự đóng góp của các DNVVN. Vì vậy, DNVVN ngày càng được coi trọng. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội lần thứ IX của Đảng một lần nữa chỉ rõ: "Chú trọng phát triển các DNVVN...". Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 cũng nhấn mạnh: "Phát triển mạnh các DNVVN... ". Quảng Ngãi là một tỉnh mới được tái lập từ năm 1989 sau gần 14 năm hợp nhất với tỉnh Bình Định (từ 11/1975 đến 7/1989), là một tỉnh nghèo, với gần 90% dân số sống ở nông thôn, lại chủ yếu sống bằng nghề nông và ở mức sống thấp, lao động nhàn rỗi và dư thừa nhiều (tỷ lệ thất nghiệp chung khoảng 2,64%, tỷ lệ thất nghiệp thành thị: 5,74%)... Song bên cạnh đó Quảng Ngãi lại có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế: về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, có nhiều làng nghề truyền thống, có khu công nghiệp Dung Quất, có nhiều nhà máy lớn, có lực lượng lao động dồi dào,... Vì vậy, việc phát triển và phát huy tiềm lực của các DNVVN trên địa bàn tỉnh là rất cần thiết bởi nó sẽ đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội cho tỉnh. Muốn vậy, đòi hỏi cần phải nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống về thực trạng DNVVN trên địa bàn tỉnh để từ đó tìm ra định hướng, giải pháp phát triển DNVVN trên địa bàn, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Ngãi trong những năm tới. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Trong những năm gần đây, những vấn đề liên quan đến mô hình DNVVN luôn được nhiều tổ chức và cá nhân quan tâm nghiên cứu. Điều đó có thể thấy rõ qua khối lượng các tài liệu về chuyên đề này rất dồi dào, đa dạng được công bố hầu như hàng ngày, hàng tuần, từ các luật lệ của Chính phủ, các chiến lược, chương trình phát triển DNVVN của quốc gia, đến các sách hướng dẫn, các công trình nghiên cứu và các bài báo về DNVVN. Có thể nêu một số công trình và tài liệu chủ yếu như sau: - Định hướng chiến lược và chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đến năm 2010 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. - Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Dự án US/VIE/95/007 "Hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam" do UNIDO tài trợ. - Dự án "Chính sách hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam" do PGS.TS Nguyễn Cúc - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ dự án. - PGS.TS Nguyễn Cúc (chủ biên), Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam đến năm 2005, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. - Vương Liêm - Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội, 2000. - Vũ Quốc Tuấn - Hoàng Thu Hà, Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa: Kinh nghiệm nước ngoài và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2001 v.v... Tuy vậy, vấn đề DNVVN đối với cả nước ta và đối với tỉnh Quảng Ngãi vẫn còn là vấn đề mới, đặc biệt trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2001 - 2010 và thực hiện đường lối CNH, HĐH do Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra thì việc nghiên cứu DNVVN vẫn là vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Đối với địa bàn tỉnh Quảng Ngãi chưa có tác giả, chưa có công trình nào đặt vấn đề nghiên cứu về DNVVN. Đây là vấn đề lớn, mới mẻ và có ý nghĩa thiết thực đối với tỉnh, đang đòi hỏi cần có những đầu tư nghiên cứu cụ thể, có hệ thống. Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó, tôi lựa chọn đề tài này với mong muốn đi sâu nghiên cứu, học hỏi những vấn đề về lý luận, đồng thời tiến hành tổng hợp số liệu kết hợp với quá trình khảo sát thực tiễn trên địa bàn, để từ đó đề xuất ý kiến của mình về phát triển DNVVN ở tỉnh Quảng Ngãi. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu - Mục đích: Luận văn hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về quá trình hình thành và phát triển của DNVVN, cũng như luận giải rõ vai trò của DNVVN trong nền kinh tế ở Việt Nam trong thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH, HĐH và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, đặc biệt là trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nói riêng. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm phát triển DNVVN có hiệu quả, đóng góp vào tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ngãi. - Nhiệm vụ: Thứ nhất, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về DNVVN trong nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ hai, phân tích thực trạng DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Thứ ba, nêu những quan điểm và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm phát triển DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. - Phạm vi nghiên cứu: Vấn đề DNVVN là vấn đề rộng và phức tạp, tồn tại trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, luận văn tập trung chủ yếu phân tích thực trạng của các DNVVN trong công nghiệp - dịch vụ trên địa bàn tỉnh, từ đó đề xuất các giải pháp để phát triển DNVVN trên địa bàn. Luận văn không đề xuất các giải pháp để phát triển DNVVN trong từng ngành cụ thể cũng như trong từng DN cụ thể. Thời gian nghiên cứu chủ yếu từ năm 1996 đến nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; kế thừa một cách có chọn lọc, hợp lý các công trình nghiên cứu có liên quan. - Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học, trong đó chủ yếu sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp so sánh,... để phân tích đối tượng nhằm đạt được mục đích luận văn đề ra. 5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận của DNVVN, trên cơ sở phân tích rõ thực trạng của các DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ở nhiều khía cạnh, luận văn sẽ mang lại một bức tranh tổng quát, toàn diện về DNVVN trên địa bàn, về những kết quả đạt được, về những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân. Từ đó đề xuất được các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển DNVVN trong quá trình CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, giúp các cơ quan nghiên cứu, các ban ngành liên quan của tỉnh Quảng Ngãi tham khảo để hoạch định chính sách và chỉ đạo thực tiễn trong việc khuyến khích phát triển DNVVN trên địa bàn tỉnh. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các trường đào tạo và các lớp tập huấn cho cán bộ quản lý kinh tế của tỉnh. 7. Kết cấu luận văn Ngoài ra mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn được trình bày trong 3 chương, 7 tiết. Chương 1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1.1. Sự phát triển lý luận và quan điểm về doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam 1.1.1. Quá trình nghiên cứu về DNVVN ở Việt Nam - Tính tất yếu khách quan của sự phát triển của DNVVN ở Việt Nam Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, DNVVN ra đời sớm hơn DN lớn. Tiền thân của các DNVVN là các hộ gia đình sản xuất tự cung tự cấp. DNVVN không chỉ là một phạm trù phản ánh độ lớn của DN mà là một phạm trù bao hàm nội dung tổng hợp về kinh tế tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý, tiến bộ khoa học - công nghệ. DNVVN tồn tại và phát triển là tất yếu khách quan phù hợp với yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ, tính chất phát triển của lực lượng sản xuất. Lịch sử ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hóa gắn với sự hình thành và phát triển của các DN. Nền sản xuất hàng hóa xuất hiện khi sự phân công lao động đạt đến một trình độ nhất định, cùng với chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất được xác lập. Trong giai đoạn tiền sử (Các Mác gọi là sản xuất hàng hóa giản đơn) không có sự phân biệt giữa giới chủ và giới thợ. Người sản xuất hàng hóa vừa là người chủ sở hữu tư liệu sản xuất, vừa là người lao động trực tiếp, vừa là người điều khiển (quản lý) công việc của mình (gia đình mình), vừa là người trực tiếp mang sản phẩm của mình ra trao đổi thị trường. Đó là loại DN cá thể, DN gia đình. Trong quá trình sản xuất kinh doanh (SXKD), có một số người gặp một số vận may và đặc biệt là nhờ tài ba, biết chớp thời cơ, có sáng kiến cải tiến kỹ thuật, biết cách điều hành tổ chức công việc,... để thành đạt, ngày càng giàu lên, tích lũy vốn, mở rộng được quy mô SXKD và do đó cần phải thuê thêm người làm và trở thành ông chủ. Ngược lại, một bộ phận lớn người sản xuất hàng hóa nhỏ khác thua lỗ triền miên, buộc phải bán tư liệu sản xuất, đi làm thuê cho người khác. Theo các nhà kinh tế học hiện đại, thông thường đại đa số những người khi mới trưởng thành đều muốn thử sức mình trong nghề kinh doanh. Bắt đầu sự nghiệp với số vốn ít ỏi của mình phần lớn họ đều thành lập DN nhỏ chỉ của riêng mình, tự SXKD. Trong quá trình kinh doanh của mình, một số người thành đạt đã phát triển DN của mình bằng cách mở rộng quy mô SXKD và như vậy, nhu cầu về vốn đòi hỏi sẽ nhiều hơn. Từ đó, thôi thúc các nhà DN hoặc là vài ba người cùng nhau góp vốn liên doanh thành lập xí nghiệp liên doanh, hoặc phát hành cổ phiếu thành lập công ty cổ phần (CTCP), bằng cách thành lập "liên kết dọc", "liên kết ngang"... để phát triển DN. Các DN lớn ra đời phát triển từ các DNVVN và thông qua liên kết với các DNVVN. Nền kinh tế của một quốc gia là do tổng thể các DN lớn, nhỏ tạo thành. Ngày nay, khi cách mạng khoa học - công nghệ diễn ra như vũ bão và tác động sâu sắc tới sự thay đổi của sản xuất, quản lý và đời sống thì DNVVN cũng có sự thay đổi về chất so với DNVVN của các thế kỷ trước: có kỹ thuật và công nghệ hiện đại, sản xuất sản phẩm đạt chất lượng cao,.. DNVVN không phát triển rời rạc mà gắn bó và "nấp dưới bóng" của các DN lớn. Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, mô hình DNVVN ngày càng được mở rộng và phổ biến không chỉ ở các nước công nghiệp phát triển mà cả ở những nước đang phát triển và kém phát triển. Vì thế, dù mang cái tên rất khiêm tốn "vừa và nhỏ" song sức sống và vai trò của nó thật sự không nhỏ. - Sự ra đời của các DNVVN ở Việt Nam Theo các tài liệu lịch sử, DNVVN ở Việt Nam đã được hình thành cùng với quá trình ra đời nghề thủ công và làng nghề truyền thống trong nông thôn. Những nghề và làng nghề thủ công truyền thống quan trọng, nổi tiếng phần lớn đã ra đời từ rất lâu, vài trăm đến hàng nghìn năm ở đồng bằng sông Hồng rồi sau đó lan ra cả nước. Hình thành tổ chức SXKD của nghề thủ công và làng nghề truyền thống trước đây chủ yếu là kinh tế hộ gia đình hoặc liên gia đình trong từng làng xã, vừa mang tính chất sản xuất hàng hóa, vừa mang tính chất sáng tạo nghệ thuật. Trong thời kỳ bị thực dân Pháp đô hộ, nghề thủ công truyền thống vẫn được tiếp tục tồn tại và phát triển. Dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật và phương thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa (TBCN), các DNVVN đã được hình thành. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công và đất nước bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, các DNVVN vẫn phát triển. Vùng bị tạm chiếm, nhiều chủ DN chủ yếu ở các thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn... bỏ vốn ra kinh doanh. Trong vùng tự do, chính quyền cách mạng thành lập các DN để sản xuất các mặt hàng phục vụ kháng chiến và đáp ứng nhu cầu của nhân dân, đồng thời khuyến khích nhân dân lập xưởng sản xuất sản phẩm phục vụ tiêu dùng. Các DNVVN ở vùng tự do đã có tác dụng to lớn trong việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của bộ đội, nhân dân và phục vụ cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp đến thắng lợi vẻ vang. Từ năm 1954 đến năm 1975, các DNVVN ở hai miền Bắc - Nam phát triển theo hai đường lối, cơ chế khác nhau. ở miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH), hàng loạt xí nghiệp quốc doanh có quy mô lớn ra đời, đồng thời các xí nghiệp quốc doanh của cấp huyện được phát triển mạnh, còn DNVVN của tư nhân bị cải tạo, xóa bỏ. ở miền Nam, một mặt các cơ sở công nghiệp lớn, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Đà Nẵng, Sài Gòn,... được phát triển, mặt khác các DNVVN chủ yếu thuộc sở hữu tư nhân cũng ra đời và phát triển mạnh. Từ năm 1975 - 1985, các DNVVN ở miền Nam hoặc là bị quốc hữu hóa, hoặc được cải tạo, xóa bỏ. DNVVN ngoài quốc doanh không được khuyến khích phát triển, phải hoạt động dưới hình thức hộ gia đình, tổ hợp, hợp tác xã (HTX), công tư hợp doanh,... Nói chung, ở thời kỳ này các DNVVN ở hai miền được phát triển theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, số lượng DNVVN chưa nhiều và tồn tại dưới hai loại hình: xí nghiệp quốc doanh, HTX. Sau năm 1986, nhờ tác động của các chủ trương và chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thừa nhận sự tồn tại và lâu dài của các hình thức sở hữu khác nhau, đã tạo điều kiện cho hàng loạt cơ sở sản xuất tư nhân, cá thể, hộ gia đình ra đời, phát triển. - Quá trình nghiên cứu về DNVVN ở Việt Nam Nhìn lại quá khứ, chúng ta nhận thấy, trên thực tế các DNVVN ở nước ta đã ra đời, tồn tại cách đây hàng trăm, nghìn năm. Song trước đây do chúng ta quan niệm và vận dụng máy móc chế độ sở hữu, chỉ chú trọng phát triển kinh tế quốc doanh, coi nhẹ việc sử dụng kinh tế ngoài quốc doanh, muốn xóa bỏ nhanh kinh tế tư nhân, cá thể (hầu hết là DNVVN) nên Chính phủ đã áp dụng nhiều chính sách và biện pháp nhằm hạn chế tối đa sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Có thể nói, về mặt nhận thức, chúng ta không chính thức thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư nhân. Từ đó làm cho bộ phận kinh tế ngoài quốc doanh phát triển rất thấp, không tương xứng với tiềm năng của nó trong nền kinh tế, làm cho nền kinh tế Việt Nam liên tục rơi vào các cuộc khủng hoảng trầm trọng. Để khắc phục khủng hoảng kinh tế, bắt nguồn từ năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, trên phạm vi toàn quốc, trong đó đổi mới kinh tế được chú trọng đặc biệt, sự đổi mới kinh tế này đã tạo ra những cơ sở pháp lý, chính trị và kinh tế cho sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tại Việt Nam, bao gồm khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân). Nhờ đó, hàng loạt các DN (chủ yếu là DNVVN) đã được hình thành, phát triển và đóng góp một phần đáng kể cho sự tăng trưởng của nền kinh tế. Tuy nhiên, theo nhận định của các nhà kinh tế thì DNVVN còn gặp nhiều khó khăn trong SXKD, chưa phát huy được hết tiềm năng của mình bởi nhiều nguyên nhân: do bản thân của các DN, do hiểu biết về loại hình DN này còn nhiều hạn chế,... Mặt khác, các chuyên gia cùng nhận định, khu vực DNVVN ở Việt Nam sẽ trở thành một động lực quan trọng cho sự phát triển của kinh tế đất nước. Chính vì vậy, đòi hỏi cần phải tiến hành nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện về DNVVN, để từ đó tạo điều kiện cho các DNVVN phát huy hết khả năng của mình cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Việc nghiên cứu loại hình DNVVN đã được Nhà nước quan tâm và được các tổ chức của nhiều nước trên thế giới ủng hộ, hỗ trợ. Nhiều cơ quan khoa học, cơ quan quản lý và nhiều địa phương đã tiến hành nghiên cứu về DNVVN: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hội đồng Liên minh các HTX Việt Nam, Tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp quốc (UNIDO), Trung tâm kinh tế châu á - Thái Bình Dương, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh... Ngay từ những năm 1990, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương đã tiến hành hai cuộc hội thảo về DNVVN có sự tài trợ của Cộng hòa Liên bang Đức, sau đó tiến hành khảo sát 135 DNVVN ở tỉnh Hà Bắc. Năm 1991, Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) cùng với Trung tâm xúc tiến việc làm châu á (ARTEP-ILO) và các cộng tác của trường Đại học kinh tế Stockholm (Thụy Điển) đã tiến hành khảo sát điều tra 1.000 DN nhỏ ở Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, Vĩnh Phú, Quảng Ninh, Long An (theo chương trình của dự án VIE 90/MO). Năm 1993, Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội phối hợp với Viện Khoa học lao động Nhật Bản thực hiện cuộc khảo sát 300 DNVVN ở Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Nam - Đà Nẵng... Việc nghiên cứu về DNVVN ở Việt Nam cũng được thuận lợi bởi Việt Nam trong những năm qua liên tục nhận được sự ủng hộ rộng rãi của quốc tế. Trước hết, Việt Nam tiếp nhận nhiều dự án phát triển DNVVN của Liên Hợp Quốc như dự án VIE/86-054 về đào tạo bồi dưỡng kiến thức cho các DNVVN, Liên minh châu Âu (EU) - Việt Nam xây dựng "Quỹ phát triển các DNVVN", năm 1996 Viện FRIEDRICH EBERT của Cộng hòa Liên bang Đức hợp tác với Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tài trợ cho dự án: "Chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt Nam", năm 1997 Công ty Tài chính quốc tế chuyên trách khu vực tư nhân thuộc Ngân hàng Thế giới xây dựng "Chương trình dự án Mê Kông MPDF" nhằm thành lập và phát triển DNVVN khu vực tư nhân cho ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia. Các nước Vương quốc Anh, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan,... đã cử chuyên gia, giúp tư vấn cũng như tài trợ về vốn cho khảo sát, lập quỹ bảo lãnh tín dụng,... để nghiên cứu và phát triển DNVVN ở Việt Nam. Có thể nói, mặc dù thời gian nghiên cứu DNVVN ở Việt Nam chưa nhiều song được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự hỗ trợ của các tổ chức trên thế giới, quá trình nghiên cứu này đã thu hút được nhiều nhà khoa học, nhiều chuyên gia trong nước và ngoài nước tham gia, do đó hàng loạt các tài liệu, các sách hướng dẫn, các bài báo, các công trình nghiên cứu về DNVVN được công bố. Các vấn đề về lý luận và thực tế liên quan đến DNVVN đều được đưa ra nghiên cứu và ngày càng sáng tỏ: khái niệm, tiêu chí xác định, ý nghĩa của DNVVN ở Việt Nam, các chính sách liên quan đến DNVVN,... Song vì đây là vấn đề nghiên cứu rất rộng và phức tạp, nên quá trình nghiên cứu về DNVVN vẫn luôn là vấn đề cấp thiết, luôn cần sự quan tâm của các nhà khoa học để từng bước tháo gỡ những vướng mắc, những vấn đề mới nảy sinh nhằm tạo điều kiện cho các DNVVN phát triển, khai thác tốt tiềm năng, góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. 1.1.2. Những vấn đề lý luận đã đạt được về DNVVN ở Việt Nam Như đã trình bày phần trên, việc nghiên cứu DNVVN ở Việt Nam mặc dù chỉ mới thực hiện trong thời gian ngắn so với thực tế tồn tại DNVVN ở Việt Nam, song kết quả đạt được rất lớn, hàng loạt các vấn đề về DNVVN ở Việt Nam đã được làm sáng tỏ. Cụ thể: - Từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, bắt đầu đã hình thành khái niệm DNVVN, thuật ngữ DNVVN bước đầu đã đi vào cuộc sống, đi vào các tài liệu khoa học, các văn kiện của Đảng và Nhà nước. - Từng bước hoàn chỉnh định nghĩa về DNVVN. Mỗi cơ quan nghiên cứu đều đưa ra định nghĩa về DNVVN. Trên cơ sở những định nghĩa đó, trong Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ đã đưa ra định nghĩa DNVVN ở Việt Nam: DNVVN là các cơ sở SXKD, đã ĐKKD theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Theo định nghĩa thì DNVVN ở Việt Nam bao gồm: + Các DN thành lập và hoạt động theo Luật DN. + Các DN thành lập và hoạt động theo Luật DNNN. + Các HTX thành lập và hoạt động theo Luật HTX. + Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh (ĐKKD). - Khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của các DNVVN trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. - Phân tích làm rõ những ưu thế, hạn chế cũng như khuyết điểm của các DNVVN. - Xác định những điều kiện kinh tế - xã hội cũng như vai trò quản lý của Nhà nước, của các tổ chức phi chính phủ đối với sự phát triển nhanh, mạnh và có hiệu quả của các DNVVN. - Nghiên cứu hình thành và hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô cũng như các chính sách hỗ trợ để phát triển DNVVN. Với kết quả đạt được của quá trình nghiên cứu, đặc biệt là với sự ra đời của Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNVVN đã làm thay đổi quan niệm của các cấp ủy Đảng và Nhà nước cũng như nhận thức của mọi người nói chung về loại hình DNVVN, từ chỗ không chấp nhận sự tồn tại, phân biệt đối xử, kỳ thị,... đến chỗ thừa nhận, khuyến khích hỗ trợ DNVVN phát triển. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, nhiều kiến nghị, giải pháp được trình bày cho các nhà hoạch định chính sách, cho Chính phủ, tạo cơ sở ban hành những chính sách nhằm khuyến khích phát triển DNVVN. Bên cạnh những kết quả nghiên cứu đã đạt được, đứng trước tình hình biến đổi phức tạp và sôi động của đời sống kinh tế - xã hội nhiều vấn đề mới đối với DNVVN tiếp tục phát sinh, đòi hỏi cần được tiếp tục nghiên cứu để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ CNH, HĐH. 1.1.3. Những quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước về DNVVN Trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam, các DN có quy mô vừa và nhỏ đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, song trong từng giai đoạn khác nhau sự quan tâm, tạo điều kiện cũng khác nhau bởi sự khác nhau về quan điểm đối với loại hình DN này. - Giai đoạn từ 1986 trở về trước Trong giai đoạn này, Đảng và Nhà nước ta quan niệm về chế độ sở hữu XHCN gồm hai bộ phận quốc doanh và tập thể, còn kinh tế tư nhân thuộc diện cải tạo. Xét về quy mô, cả quốc doanh và tập thể đều là loại vừa và nhỏ, nhất là các HTX tiểu thủ công nghiệp, nhưng chưa có khái niệm về DNVVN. - Giai đoạn từ 1986 đến nay Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện mà trọng tâm là đổi mới kinh tế, thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Nghị quyết Đại hội VI khẳng định: cùng với việc phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, cần sử dụng khả năng tích cực của kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa, kinh tế tư bản tư nhân, mở rộng nhiều hình thức liên kết giữa các thành phần kinh tế theo nguyên tắc cùng có lợi và bình đẳng trước pháp luật. Đường lối này lại được củng cố thêm ở Đại hội Đảng VII, VIII, IX, các văn kiện của Đảng tại các kỳ Đại hội này đều nêu rõ chủ trương xuyên suốt là thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là các bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Theo đó các DN thuộc bất cứ thành phần kinh tế nào kinh doanh đúng pháp luật, theo định hướng chung của Nhà nước đều được khuyến khích, tạo điều kiện để phát triển. Vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, thuật ngữ DNVVN bắt đầu du nhập vào nước ta, cũng có ý kiến cho rằng, đây là loại hình kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Nhưng qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn đã khẳng định rằng, sự tồn tại của DNVVN là tất yếu khách quan đối với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Từ đó, đã tác động lớn đến quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với DNVVN. DNVVN không còn coi là phụ trợ như trước, mà giờ đây là công cụ hữu hiệu, là nhà thầu phụ quan trọng cho các DN lớn góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII nhấn mạnh: "Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả" [10, tr. 28]. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục nhấn mạnh: "Chú trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, xây dựng một số tập đoàn lớn đi đầu trong cạnh tranh và hiện đại hóa" [12, tr. 27]. Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để từng bước hình thành hệ thống thể chế chính sách khuyến khích phát triển DNVVN. Có thể kể ra đây những văn bản quan trọng như: + Hiến pháp năm 1992 công nhận quyền tự do kinh doanh của mọi công dân theo quy định của pháp luật, công nhận quyền được đối xử của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. + Nghị định 66-HĐBT ngày 2-3-1992 của Hội đồng Bộ trưởng về cá nhân và nhóm kinh doanh có vốn thấp hơn mức vốn pháp định quy định trong Nghị định 221-HĐBT ngày 23-7-1991 + Luật Công ty và Luật DN tư nhân 1990 quy định khung pháp luật cho các DN này hoạt động, tham gia thị trường trong nước và ngoài nước. + Luật Đất đai năm 1993, sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 1998 và năm 2001 đã quy định các DN có quyền hợp pháp về sử dụng đất, có quyền chuyển nhượng hoặc thế chấp quyền sử dụng đất. + Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 quy định rõ những chính sách ưu đãi cho các dự án kinh doanh thuộc các ngành nghề,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUANVA~1.DOC
  • docBIA-TH~1.DOC
  • docMUCLUC~1.DOC
  • docPHULUC~1.DOC
  • docVIETTA~1.DOC
Tài liệu liên quan