Luận văn Quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban thường vụ Tỉnh ủy Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay

Hơn 77 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã liên tiếp giành được những thắng lợi vẻ vang, từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, Việt Nam đã trở thành một quốc gia hoàn toàn độc lập, thống nhất, cả nước cùng đi lên CNXH. Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang giành được những thành tựu to lớn, được bạn bè trên thế giới hết sức khâm phục, vị thế nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng lên. Những thắng lợi trên trước hết bắt nguồn từ đường lối chính trị đúng đắn và từ việc dày công xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ của Đảng.

Vấn đề cán bộ và công tác cán bộ là một vấn đề hệ trọng, từ lâu đã được các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lênin đề cập tới trong các tác phẩm của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [45, tr.269] và “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”[45, tr.240]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW (khoá VII) đã chỉ rõ: “cán bộ có vai trò cực kỳ quan trọng hoặc kìm hãm hoặc thúc đẩy tiến trình đổi mới” [13], Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW (khoá VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ.” [13].

Để làm tốt công tác cán bộ, đòi hỏi chúng ta phải thực hiện đồng bộ nhiều nội dung, nhiều khâu, nhưng một trong những nội dung trọng yếu là công tác QHCB, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW (khoá VIII) nêu rõ: “Công tác QHCB là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài” [13]. Có làm tốt QHCB mới từng bước nâng cao được chất lượng, đảm bảo số lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ; đảm bảo tính liên tục, kế thừa và phát triển, tránh tình trạng hẫng hụt, bị động, chắp vá và không đồng bộ trong công tác cán bộ. Làm tốt công tác QHCB sẽ tạo cơ sở, điều kiện, tiền đề để làm tốt các khâu khác trong công tác cán bộ như: ĐTBD, điều động, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử và thực hiện chính sách cán bộ. Khắc phục tình trạng ĐTBD cán bộ tràn lan, không có trọng tâm, trọng điểm; lúng túng trong lựa chọn, phân công, bố trí cán bộ

Những năm qua, Đảng ta đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, quyết định, thông tri về công tác QHCB: Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng tại Đại hội IV của Đảng đã chỉ rõ: Xây dựng và chỉ đạo thực hiện tốt QHCB là một biện pháp đặc biệt trọng yếu, có tính quyết định để tăng cường công tác cán bộ về mọi mặt. Ngày 02/6/1978, BCHTW (khoá IV) đã ra Chỉ thị số 45-CT/TW “Khẩn trương đẩy mạnh việc xây dựng QHCB lãnh đạo, cán bộ quản lý”. Ngày 12/11/1983 Ban Bí thư TW Đảng (khoá V) ra Thông tri số 31-TT/TW về việc “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng QHCB lãnh đạo và cán bộ quản lý ở các ngành, các cấp”. Năm 1998, Bộ Chính trị (khoá VI) có Quyết định số 55-QĐ/TW về “Công tác QHCB lãnh đạo các cấp từ nay đến năm 1990”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW (khoá VIII) đề ra yêu cầu: “Cán bộ chủ trì phải điều hành, thực hiện quy hoạch chung về công tác cán bộ, đồng thời trực tiếp bồi dưỡng người kế cận thay mình. Trong một năm phải có ít nhất một lần kiểm điểm việc thực hiện quy hoạch của mình và kiểm tra việc thực hiện quy hoạch của cấp dưới để kịp thời bổ sung, điều chỉnh” [13]. Ngày 30/11/2004 Bộ Chính trị có Nghị quyết số 42-NQ/TW về công tác QHCB lãnh đạo quản lý thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.Nhờ vậy công tác QHCB đã có chuyển biến tích cực, góp phần đổi mới từng bước công tác cán bộ nói chung. Tuy nhiên đứng trước bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới đất nước thì công tác QHCB vẫn là một khâu yếu, chất lượng và hiệu quả còn hạn chế. Hội nghị lần thứ 3, BCHTW (khoá VIII) đã đánh giá: “Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo chưa chủ động xây dựng QHCB, không tích cực chuẩn bị người kế nhiệm” [13]. Do vậy sắp tới “Mỗi cấp, mỗi ngành phải có kế hoạch tạo nguồn cán bộ.định kỳ kiểm tra, tổng kết và nâng cao chất lượng công tác QHCB” [13].

Quán triệt những quan điểm của Đảng, từ nhiều năm nay BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang đã quan tâm đến công tác QHCB, tích cực, tập trung lãnh đạo công tác QHCB ở tỉnh, do đó công tác QHCB đã bước đầu đi vào nền nếp, đạt được kết quả nhất định, góp phần làm tốt công tác cán bộ của tỉnh. Tuy vậy công tác QHCB trong thời gian qua cũng bộc lộ không ít những thiếu sót, khuyết điểm cần sớm được khắc phục.

Là một tỉnh miền núi, mới được tái lập từ ngày 01/01/1997, với diện tích 3.882, 6 km¬2, dân số trên 1,5 triệu người, địa hình phức tạp, mặc dù tình hình chính trị-an ninh, trật tự, xã hội tương đối ổn định, kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, song nhìn chung nền kinh tế của tỉnh chủ yếu vẫn là nông nghiệp, công nghiệp nhỏ bé, nguồn thu ngân sách hạn hẹp, GDP bình quân đầu người còn thấp hơn nhiều so với bình quân chung của cả nước. Nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với đội ngũ CBCC nói chung, trước hết là đội ngũ cán bộ thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý, bởi lẽ đây là ĐNCBCC của hệ thống chính trị ở tỉnh và cấp huyện, là lực lượng chủ yếu, lãnh đạo, tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, quyết định của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước ở địa bàn tỉnh. Muốn có đội ngũ cán bộ ngang tầm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài thì trước hết phải thực hiện tốt quy hoạch đội ngũ cán bộ thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý.

 

doc125 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1167 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban thường vụ Tỉnh ủy Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hơn 77 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã liên tiếp giành được những thắng lợi vẻ vang, từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, Việt Nam đã trở thành một quốc gia hoàn toàn độc lập, thống nhất, cả nước cùng đi lên CNXH. Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang giành được những thành tựu to lớn, được bạn bè trên thế giới hết sức khâm phục, vị thế nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng lên. Những thắng lợi trên trước hết bắt nguồn từ đường lối chính trị đúng đắn và từ việc dày công xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ của Đảng. Vấn đề cán bộ và công tác cán bộ là một vấn đề hệ trọng, từ lâu đã được các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lênin đề cập tới trong các tác phẩm của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [45, tr.269] và “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”[45, tr.240]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW (khoá VII) đã chỉ rõ: “cán bộ có vai trò cực kỳ quan trọng hoặc kìm hãm hoặc thúc đẩy tiến trình đổi mới” [13], Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW (khoá VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ...” [13]. Để làm tốt công tác cán bộ, đòi hỏi chúng ta phải thực hiện đồng bộ nhiều nội dung, nhiều khâu, nhưng một trong những nội dung trọng yếu là công tác QHCB, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW (khoá VIII) nêu rõ: “Công tác QHCB là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài” [13]. Có làm tốt QHCB mới từng bước nâng cao được chất lượng, đảm bảo số lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ; đảm bảo tính liên tục, kế thừa và phát triển, tránh tình trạng hẫng hụt, bị động, chắp vá và không đồng bộ trong công tác cán bộ. Làm tốt công tác QHCB sẽ tạo cơ sở, điều kiện, tiền đề để làm tốt các khâu khác trong công tác cán bộ như: ĐTBD, điều động, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử và thực hiện chính sách cán bộ. Khắc phục tình trạng ĐTBD cán bộ tràn lan, không có trọng tâm, trọng điểm; lúng túng trong lựa chọn, phân công, bố trí cán bộ… Những năm qua, Đảng ta đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, quyết định, thông tri về công tác QHCB: Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng tại Đại hội IV của Đảng đã chỉ rõ: Xây dựng và chỉ đạo thực hiện tốt QHCB là một biện pháp đặc biệt trọng yếu, có tính quyết định để tăng cường công tác cán bộ về mọi mặt. Ngày 02/6/1978, BCHTW (khoá IV) đã ra Chỉ thị số 45-CT/TW “Khẩn trương đẩy mạnh việc xây dựng QHCB lãnh đạo, cán bộ quản lý”. Ngày 12/11/1983 Ban Bí thư TW Đảng (khoá V) ra Thông tri số 31-TT/TW về việc “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng QHCB lãnh đạo và cán bộ quản lý ở các ngành, các cấp”. Năm 1998, Bộ Chính trị (khoá VI) có Quyết định số 55-QĐ/TW về “Công tác QHCB lãnh đạo các cấp từ nay đến năm 1990”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW (khoá VIII) đề ra yêu cầu: “Cán bộ chủ trì phải điều hành, thực hiện quy hoạch chung về công tác cán bộ, đồng thời trực tiếp bồi dưỡng người kế cận thay mình. Trong một năm phải có ít nhất một lần kiểm điểm việc thực hiện quy hoạch của mình và kiểm tra việc thực hiện quy hoạch của cấp dưới để kịp thời bổ sung, điều chỉnh” [13]. Ngày 30/11/2004 Bộ Chính trị có Nghị quyết số 42-NQ/TW về công tác QHCB lãnh đạo quản lý thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước...Nhờ vậy công tác QHCB đã có chuyển biến tích cực, góp phần đổi mới từng bước công tác cán bộ nói chung. Tuy nhiên đứng trước bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới đất nước thì công tác QHCB vẫn là một khâu yếu, chất lượng và hiệu quả còn hạn chế. Hội nghị lần thứ 3, BCHTW (khoá VIII) đã đánh giá: “Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo chưa chủ động xây dựng QHCB, không tích cực chuẩn bị người kế nhiệm” [13]. Do vậy sắp tới “Mỗi cấp, mỗi ngành phải có kế hoạch tạo nguồn cán bộ...định kỳ kiểm tra, tổng kết và nâng cao chất lượng công tác QHCB” [13]. Quán triệt những quan điểm của Đảng, từ nhiều năm nay BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang đã quan tâm đến công tác QHCB, tích cực, tập trung lãnh đạo công tác QHCB ở tỉnh, do đó công tác QHCB đã bước đầu đi vào nền nếp, đạt được kết quả nhất định, góp phần làm tốt công tác cán bộ của tỉnh. Tuy vậy công tác QHCB trong thời gian qua cũng bộc lộ không ít những thiếu sót, khuyết điểm cần sớm được khắc phục. Là một tỉnh miền núi, mới được tái lập từ ngày 01/01/1997, với diện tích 3.882, 6 km2, dân số trên 1,5 triệu người, địa hình phức tạp, mặc dù tình hình chính trị-an ninh, trật tự, xã hội tương đối ổn định, kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, song nhìn chung nền kinh tế của tỉnh chủ yếu vẫn là nông nghiệp, công nghiệp nhỏ bé, nguồn thu ngân sách hạn hẹp, GDP bình quân đầu người còn thấp hơn nhiều so với bình quân chung của cả nước. Nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với đội ngũ CBCC nói chung, trước hết là đội ngũ cán bộ thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý, bởi lẽ đây là ĐNCBCC của hệ thống chính trị ở tỉnh và cấp huyện, là lực lượng chủ yếu, lãnh đạo, tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, quyết định của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước ở địa bàn tỉnh. Muốn có đội ngũ cán bộ ngang tầm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài thì trước hết phải thực hiện tốt quy hoạch đội ngũ cán bộ thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý. Xuất phát từ yêu cầu khách quan của công cuộc đổi mới đất nước, yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị nơi mình đang công tác, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp khoá học thạc sỹ chuyên ngành xây dựng Đảng tại Học Viện Chính trị -Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của công tác QHCB, mà nhiều cơ quan, nhà khoa học, nhiều cán bộ, đã tập trung nghiên cứu vấn đề này, đã có không ít đề tài, báo cáo, bài viết và công trình nghiên cứu về công tác QHCB với các góc độ, khía cạnh, phạm vi, thời gian khác nhau được công bố, chẳng hạn như: -“Xây dựng đội ĐNCBCC trước hết là người đứng đầu” của đ/c Chu Văn Rỵ, Tạp chí Cộng sản, số 5, 1997. - Xây dựng và thực hiện tốt công tác QHCB trong thời kỳ mới” của Tô Huy Rứa, Tạp chí Cộng sản, số 3 (tháng 2/1999). - “Quan niệm khoa học về QHCB-lịch sử vấn đề và quá trình tiếp cận vấn đề” của Phó Giáo sư Lê Văn Lý, Tạp trí Thông tin lý luận, tháng 6/1999. - “Công tác QHCB chủ chốt của hệ thống chính trị-một số giải pháp chủ yếu” của Tiến sĩ Ngô Kim Ngân, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6, năm 2002. - “QHCB lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Đình Hoan, Tạp chí Cộng sản, số 33, năm 2003. - "Thực trạng trình độ học vấn và giải pháp quy hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn của Hà Nội”, Đề tài khoa học của Trường Đào tạo Cán bộ Lê Hồng Phong, năm 1998. - “Công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Trần Minh Thấu, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2000. - “Quy hoạch ĐNCBCC của hệ thống chính trị các xã ở tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Mỹ Trang, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2004. - “Quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Bộ Lao động- Thương binh và xã hội trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Xuân Lập, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006. - “Công tác QHCB lãnh đạo, quản lý cấp quận, huyện thuộc diện BTV Thành uỷ Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thắng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006. - “Quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện Quận uỷ Ba Đình, Thành phố Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Lưu Tiến Định, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006. Tuy nhiên, những đề tài nghiên cứu, những công trình, bài viết đó mới chỉ đề cập vấn đề QHCB nói chung hoặc là QHCB riêng của một số địa phương, đơn vị. Cho đến nay chưa có tác giả nào công bố đề tài về quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay. Luận văn này sẽ kế thừa, tiếp thu một cách có chọn lọc các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các tác giả có liên quan về công tác QHCB, để tập trung nghiên cứu sâu vấn đề trên, góp phần làm tốt công tác QHCB của tỉnh trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích nghiên cứu: Mục đích của luận văn chủ yếu là đi sâu làm rõ những cơ sở khoa học và đề xuất những giải pháp chủ yếu, góp phần nâng cao chất lượng quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay. * Nhiệm vụ nghiên cứu: - Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay. - Đánh giá đúng thực trạng ĐNCBCC và quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý từ khi tái lập tỉnh (01/01/1997) đến nay; chỉ ra nguyên nhân những ưu điểm, tồn tại, thiếu sót, rút ra những kinh nghiệm trong quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý hiện nay. - Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu có tính khả thi, nhằm nâng cao chất lượng quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu cụ thể là ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý (theo quyết định về phân cấp quản lý cán bộ) bao gồm các chức danh: Bí thư, phó bí thư Tỉnh uỷ, chủ tịch, phó chủ tịch HĐND, UBND tỉnh; trưởng, phó các ban, cơ quan của Tỉnh uỷ, MTTQ và các đoàn thể nhân dân tỉnh; giám đốc, phó giám đốc các sở, ban, ngành tỉnh và tương đương; bí thư, phó bí thư, uỷ viên BTV huyện uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ; chủ tịch, phó chủ tịch HĐND, UBND các huyện, thành phố. Không đi sâu nghiên cứu đội ngũ CBCC nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý các chức danh khác ở tỉnh và cấp huyện hoặc ĐNCBCC ở cơ sở, xã, phường, thị trấn. - Phạm vi nghiên cứu: Công tác quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý, từ năm 1997 đến nay. 5. C¬ së lý luËn vµ ph­¬ng ph¸p nghiªn cøu * Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ, công tác cán bộ nói chung và công tác QHCB nói riêng, có kế thừa các công trình khoa học đã được công bố liên quan đến đề tài. * Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể như: Lôgíc- lịch sử, thống kê số liệu, khảo sát thực tế; phương pháp phân tích - tổng hợp, khái quát hoá, gắn lý luận với thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn. 6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn - Cung cấp những luận cứ khoa học, làm rõ quan niệm, quan điểm, nguyên tắc, phương châm, quy trình về quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay. - Đánh giá đúng thực trạng công tác quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong thời gian 10 năm qua. Đề xuất phương hướng, nhiệm vụ và những giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay, góp phần đổi mới công tác cán bộ của tỉnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 7. ý nghÜa lý luËn vµ thùc tiÔn cña luËn v¨n - Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định, điều chỉnh, bổ sung, cụ thể hoá chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý. - Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, phục vụ cho việc sơ, tổng kết về công tác cán bộ nói chung và công tác quy họạch cán bộ của tỉnh và làm cơ sở để xây dựng một số kế hoạch, đề án…về quy hoạch, ĐTBD, luân chuyển, bổ nhiệm, bố trí, sắp xếp và thực hiện chính sách đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan, sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh và ở cấp huyện trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 và những năm tiếp theo. - Luận văn cũng có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo trong giảng dạy cho đội ngũ cán bộ ở Trường Chính trị tỉnh và trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn chia làm 2 chương, 4 tiết. Chương 1 QUY HOẠCH ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT THUỘC DIỆN BAN THƯỜNG VỤ TỈNH UỶ BẮC GIANG QUẢN LÝ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT, QUY HOẠCH ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT THUỘC DIỆN BAN THƯỜNG VỤ TỈNH UỶ BẮC GIANG QUẢN LÝ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 1.1.1. Quan niệm, vai trò và đặc điểm đội ngũ cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý hiện nay 1.1.1.1. Một số khái niệm - Cán bộ là một danh xưng rất đẹp, đầy niềm tự hào và vinh dự trong nhân dân ta. Nó xuất hiện trong đời sống xã hội nước ta khoảng mấy chục năm gần đây, để chỉ một lớp người là những chiến sĩ cách mạng, lớp người mới, luôn gắn bó với nhân dân, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh, vì sự nghiệp độc lập, tự do của dân tộc. Tên gọi cán bộ đã để lại dấu ấn đẹp đẽ trong lịch sử nước ta từ khi có Đảng lãnh đạo đến nay. Cho đến nay hai từ "cán bộ " đã rất thân thuộc đối với những đảng viên cộng sản nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. Tuy nhiên khi nghiên cứu, đề cập đến khái niệm "cán bộ " vẫn còn những ý kiến, quan điểm chưa đồng nhất. Xuất phát từ đặc điểm, truyền thống dân tộc và lịch sử từng quốc gia nên việc xác định đối tượng cán bộ ở mỗi nước có khác nhau. Từ trước đến nay khái niệm cán bộ thường được dùng phổ biến trong các nước XHCN, các tổ chức thuộc phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, còn ở các nước phương Tây như: Mỹ, Anh, Pháp, Đức thường dùng khái niệm công chức, ở Nhật dùng khái niệm quan chức. Theo Từ điển Từ Hải của Trung Quốc, từ cán bộ được giải thích là: Xuất phát từ tiếng Pháp, được dịch ra tiếng Nhật. Như vậy từ này do người Nhật sử dụng đầu tiên, sau đó được chuyển sang Trung Quốc, và từ Trung Quốc du nhập vào nước ta. Trong tiếng Pháp, cũng như tiếng Anh, từ "cán bộ " có nhiều nghĩa, nhưng có hai nghĩa chủ yếu được chuyển vào từ "cán bộ" của Nhật, Trung Quốc và Việt Nam. Nghĩa thứ nhất là cái khung (ảnh), cái khuôn. Nghĩa thứ hai là người nòng cốt, những người chỉ huy trong quân đội trong một số tổ chức làm nòng cốt. Ở nước ta, từ "công chức" cũng được dùng từ lâu và có nhiều văn bản đã quy định. Năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 76/SL về quy chế công chức. Năm 1991, Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Nghị định 169/HĐBT quy định đối tượng công chức. Ngày 09/3/1998 Uỷ BTV Quốc hội ban hành Pháp lệnh cán bộ công chức, trong đó tại Điều 1 nêu: “Công chức là những người làm việc trong các cơ quan nhà nước được tuyển dụng, bổ nhiệm làm nhiệm vụ thường xuyên trong biên chế, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước, theo ngạch, bậc lương được pháp luật quy định” [52] Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, năm 2002, ghi công chức là: "Người được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong cơ quan nhà nước, hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp" [65, tr.207]. Tuy vậy trong thời gian dài từ công chức ít được sử dụng, từ cán bộ gần như được dùng thay thế cho từ công chức, vì hình ảnh công chức trong xã hội cũ thường bị coi là xấu "sáng vác ô đi, tối vác ô về". Từ những năm 90 của thế kỷ XX, trở lại đây đã có người ta thường gọi những người công tác trong các cơ quan nhà nước là công chức, những người đang công tác trong các cơ quan Đảng, đoàn thể là cán bộ. Song tiêu thức phân biệt giữa khái niệm cán bộ và khái niệm công chức chưa thực sự rõ ràng. Trong Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý chủ biên, xuất bản năm 1999, từ cán bộ được định nghĩa là: 1. Người làm việc trong cơ quan nhà nước. 2. Người giữ chức vụ, phân biệt với người bình thường không giữ chức vụ trong các cơ quan tổ chức nhà nước [19, tr.249]. Trong cuốn "Từ điển tiếng Việt", Nxb Đà Nẵng, năm 2002, nêu cán bộ có hai nghĩa: 1. Người làm công tác có nghiệp vụ, chuyên môn trong cơ quan nhà nước. Cán bộ nhà nước. Cán bộ khoa học. Cán bộ chính trị. 2. Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức phân biệt với người thường không có chức vụ. Đoàn kết giữa cán bộ và chiến sĩ. Họp cán bộ và công nhân nhà máy. Làm cán bộ Đoàn thanh niên [65, tr.109]. Ở đây hàm nghĩa thứ nhất, cán bộ được xem như là người làm hành chính công trong các cơ quan Nhà nước, bao gồm cả những người có chức vụ hành chính cao nhất đến những người không có chức vụ hành chính nào, tất cả đều nằm trong bộ máy, có nghĩa vụ, trách nhiệm trong bộ máy Nhà nước và được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước theo ngạch lương nhất định do Nhà nước quy định. Nghĩa thứ hai, cán bộ được coi như là người có chức vụ và trách nhiệm cao hơn người khác trong bộ máy tổ chức. Điều này phản ánh nghĩa gốc của từ cán bộ, bởi vì chính những người có chức vụ, trách nhiệm cao mới có vai trò là nòng cốt, là người chỉ huy và đây chính là một góc độ trong cách hiểu thông thường. Hai định nghĩa nêu trong từ điển nói trên so với các định nghĩa trong một số thời điểm khác có sự phát triển và hợp lý hơn, nhưng cũng cần lãm rõ nội hàm và cả ngoại diên của khái niệm cán bộ hơn nữa: Một là, nói cán bộ là người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn, cần chỉ rõ là được đào tạo thông qua hệ thống nhà trường để có trình độ (tốt nghiệp) từ trung cấp, cao đẳng, đại học trở lên mới gọi là cán bộ để phân biệt với người dưới trình độ này gọi là nhân viên. Hai là, nói cán bộ là người làm công tác có chức vụ để phân biệt với người không có chức vụ. Nhưng cần nói rõ là chức vụ được hình thành thông qua con đường bầu cử dân chủ, hoặc đề bạt, bổ nhiệm. Mặt khác nói cán bộ là người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức thì phải nói của cả hệ thống chính trị. Thực tế, từ cán bộ không chỉ có đối tượng là các công chức nhà nước mà là toàn bộ những người làm việc trong hệ thống chính trị. Điều này xuất phát từ chỗ sự hình thành và phát triển của hệ thống chính trị ở các nước XHCN trong đó có Việt Nam là: Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội đều là các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị, tất cả những người làm việc trong các tổ chức đó đều được tuyển chọn, quản lý và hưởng quyền lợi theo quy chế chung thống nhất. Ba là, nói đến cán bộ là nói đến con người và người cán bộ ở nước ta phải được đặt trong các mối quan hệ xác định. Trước hết là trong mối quan hệ với đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng trong từng thời kỳ, quan hệ với tổ chức và cơ chế chính sách, quan hệ với thực tiễn và phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân. Trong xã hội có giai cấp, cán bộ phải mang bản chất của giai cấp cầm quyền. Người cán bộ cách mạng phải là người trung thành, tận tuỵ vì lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Chính vì vậy Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, viết từ năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ rõ, để đặt chính sách cho đúng” [45, tr.269]. Trước đây, trong chiến tranh cách mạng, cán bộ được coi là tất cả những người thoát ly, làm việc trong bộ máy chính quyền, đảng, đoàn thể, quân đội. Hiện nay, mặc dù hoàn cảnh thực tế khác đi và trong nhận thức của con người cũng có nhiều thay đổi, nhưng trong cách hiểu thông thường nhất, từ cán bộ trước hết vẫn đề phân biệt những người làm việc trong các cơ quan, đơn vị của Đảng, Nhà nước, đoàn thể nằm trong biên chế, với những người dân không nằm trong các tổ chức trên. Trong cuốn "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước", từ cán bộ được dùng với rất nhiều nghĩa khác nhau: - Trong các tổ chức Đảng, đoàn thể, từ cán bộ được dùng với hai nghĩa: Một là, chỉ những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ sở đến TW (cán bộ lãnh đạo) để phân biệt với đảng viên thường, đoàn viên, hội viên; hai là, người làm công tác chuyên trách có hưởng lương trong các tổ chức này. - Trong quân đội là những chỉ huy từ tiểu đội trưởng trở lên (cán bộ tiểu đội, cán bộ đại đội, cán bộ tiểu đoàn...) và thường là sĩ quan từ cấp uý trở lên. - Trong hệ thống Nhà nước, từ cán bộ được hiểu cơ bản trùng với từ công chức, chỉ những người làm việc trong các cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp. Đồng thời cán bộ cũng được hiểu là những người có chức vụ chỉ huy, phụ trách, lãnh đạo (trưởng, phó phòng...). Dù cách dùng, cách hiểu trong các trường hợp, các lĩnh vực cụ thể có khác nhau, nhưng về cơ bản từ cán bộ bao hàm nghĩa chính của nó là bộ khung, là nòng cốt là chỉ huy. Như vậy có thể quan niệm một cách chung nhất, "cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị nòng cốt trong một tổ chức và có tác động ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng cho sự phát triển của tổ chức" [62, tr.18]. Trong pháp lệnh CBCC Việt Nam năm 1998, đã xác định đối tượng là CBCC bao gồm những người: Trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước; những người được bầu cử, được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên… trong các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội và trong các cơ quan, đơn vị quân đội nhân dân và công an nhân dân [52, tr.5-6]. Từ những điều nêu trên, chúng ta có thể khẳng định: Cán bộ là một phạm trù dùng để chỉ tất cả những người công tác ở các cơ quan tổ chức của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể, lực lượng vũ trang, nằm trong biên chế, cả những người giữ chức vụ lẫn những người làm công tác chuyên môn nghiệp vụ không giữ chức vụ. Trong khoa học tổ chức chúng ta có thể phân chia cán bộ thành các loại khác nhau tuỳ theo từng tiêu thức. Thường người ta phân loại cán bộ theo những cách sau: - Cách 1: Phân theo lĩnh vực hoạt động chuyên môn: Cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ chủ chốt, lãnh đạo chủ chốt, cán bộ chính trị, cán bộ quân sự, cán bộ kinh tế, cán bộ khoa học kỹ thuật… - Cách 2: Phân loại theo chức vụ, cấp hàm trình độ tổ chức xã hội và vị trí vai trò của cán bộ: Cán bộ cao cấp, trung cấp, sơ cấp... - Cách 3: Phân theo loại hình tổ chức trong hệ thống chính trị: Cán bộ Đảng, cán bộ Nhà nước, cán bộ đoàn thể nhân dân... Ngoài ra có thể phân loại theo thẩm quyền chủ thể quản lý cán bộ (được quy định tại quyết định phân cấp quản lý cán bộ): Cán bộ thuộc diện TW quản lý (Bộ Chính trị, Ban Bí thư TW), cán bộ thuộc diện BTV tỉnh uỷ (thành uỷ) quản lý, cán bộ thuộc diện BTV huyện uỷ (quận uỷ) quản lý... Trên cơ sở phân loại cán bộ như trên chúng ta thấy cần làm rõ khái niệm vị trí, vai trò, đặc điểm của từng loại cán bộ, từ đó mới có cơ sở vững chắc để xây dựng, hoạch định các chủ trương, chính sách về công tác cán bộ. Trong khuôn khổ giới hạn của đề tài, ở đây chúng ta đi sâu vào khái niệm sau: - Khái niệm cán bộ chủ chốt: Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nằng, năm 2002, định nghĩa: "Chủ chốt quan trọng nhất, có tác dụng làm nòng cốt. Cán bộ chủ chốt của phong trào" [65, tr.174]. Trong mỗi tổ chức có những người lãnh đạo, nhiều tổ chức có tập thể lãnh đạo. Những người đó là cán bộ chủ chốt. Vậy cán bộ chủ chốt là những người đứng đầu quan trọng nhất, có tác dụng chi phối toàn bộ hoạt động của một tổ chức nhất định. Khi nghiên cứu cán bộ chủ chốt cần phân biệt cán bộ chủ chốt với cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt là người đứng đầu trong một tổ chức, cán bộ chủ chốt là những người lãnh đạo của một tổ chức nhất định. Chúng ta đã biết rằng: Trong các tổ chức thuộc hệ thống chính trị của nước ta hiện nay được phân thành nhiều cấp và nhiều bộ phận khác nhau. Nếu như ở mỗi cấp, mỗi bộ phận trong các hệ thống tổ chức đều có một tập thể lãnh đạo quản lý, thì những người đứng đầu quan trọng nhất, có chức vụ cao nhất trong các tập thể ấy được gọi là cán bộ lãnh đạo chủ chốt [57, tr.35]. Việc xác định cán bộ lãnh đạo chủ chốt không những phải gắn với một hệ thống tổ chức nhất định mà còn phải căn cứ vào chức danh cụ thể của từng người, bởi vì trong thực tế một người cán bộ "ở cương vị này, trong tổ chức này là chủ chốt, nhưng trong mối quan hệ khác, vị trí khác, thì lại không phải là chủ chốt" [57, tr.35]. Khi nói đến cán bộ lãnh đạo chủ chốt người ta không coi họ chỉ là những người thực hiện các chức năng lãnh đạo đơn thuần, mà còn nhìn nhận họ là những người có trách nhiệm cả về phương diện quản lý. Trên thực tế người ta quan niệm: Tất cả những đ/c là uỷ viên BTV tỉnh uỷ, huyện uỷ... đều là cán bộ chủ chốt vì: Một là: Xét trong mối quan hệ tổ chức, cấp uỷ đảng là cơ quan lãnh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van.doc
  • docmuc luc LV.doc
Tài liệu liên quan