Luận văn Thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh

Loài người đang phải đối mặt với HIV/AIDS, một đại dịch có sức tàn phá chưa từng thấy trong lịch sử. Từ khi đại dịch xuất hiện, theo thống kê của Tổ chức UNAIDS, cho đến nay trên thế giới đã có hơn 20 triệu người chết vì AIDS, khoảng 39.4 triệu người đang sống chung với HIV/AIDS. Cùng với quá trình phá huỷ dần tuổi thọ, sự phát triển kinh tế - xã hội và công cuộc xoá đói giảm nghèo, thì HIV/AIDS đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến lực lượng và năng suất lao động. Khi Việt Nam vững bước vào thế kỷ XXI, mỗi người dân đều hy vọng về một tương lai ổn định, hạnh phúc và tốt lành. Những niềm hy vọng này đã và đang bị ảnh hưởng bởi sự hiện diện của HIV/AIDS khi đại dịch này tấn công ngày càng nhiều cá nhân và gia đình ở Việt Nam và ảnh hưởng về mặt kinh tế của HIV/AIDS ngày càng được nhận thức rõ hơn.

HIV/AIDS là một nguy cơ lớn đối với loài người, đối với các quốc gia, các dân tộc, đối với mỗi gia đình và mỗi người, HIV/AIDS đang là hiểm hoạ hàng đầu về việc gây ra chết chóc, nghèo đói lạc hậu, ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều thế hệ ở nhiều quốc gia, dân tộc. Có ý kiến cho rằng, AIDS có thể gây ra cả tình trạng mất ổn định về chính trị ở một số quốc gia như châu Phi chẳng hạn. Ở Việt Nam, cho đến nay (2009), HIV/AIDS đã lan rộng ở 64 tỉnh, thành phố (= 100%), 93 số huyện, 49% số xã phường với 315.171 người có HIV còn sống, 29.134 người có AIDS còn sống, 4.418 người đã chết. Nói về tính nghiêm trọng của tình hình đại dịch HIV/AIDS ở Việt Nam, Chỉ thị 54 ngày 30/11/2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng viết: Cho đến nay, “ở nước ta, tình hình lây nhiễm HIV/AIDS vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp. HIV/AIDS xuất hiện ở tất cả các tỉnh, thành phố và có xu hướng ngày càng lan rộng”. Ngoài các nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao (tiêm chích ma tuý, mại dâm, tình dục đồng giới ), “HIV/AIDS đang đe doạ trực tiếp đến sức khoẻ, tính mạng con người, trật tự an toàn xã hội, đến sự phát triển của đất nước, tương lai của giống nòi”.

Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS nhấn mạnh: “phòng, chống HIV/AIDS phải được coi là một nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và lâu dài”.

Tại Quảng Ninh, trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện đầu tiên vào tháng 6 năm 1994, năm 1996 phát hiện ca nhiễm thứ 2. Đến 31/12/2008 số người nhiễm HIV được xác định là 6.878 người, số tử vong do AIDS 3.757. Như vậy, đại dịch HIV/AIDS đã nhanh chóng lan rộng trên khắp địa bàn trong tỉnh, số người nhiễm cả trong 14/14 huyện, thị, thành phố, 155/186 xã, phường có người nhiễm HIV (số liệu cập nhật tại Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS Quảng Ninh).

Tình hình lây nhiễm HIV/AIDS ở Quảng Ninh đã gây ra dư luận xấu và tâm lý lo ngại, gây bất lợi đối với một tỉnh có tiềm năng du lịch, đang trên đà phát triển và hội nhập. Trong những năm qua, công tác phòng, chống HIV/AIDS của tỉnh đã có nhiều cố gắng nhưng hiệu quả đạt được còn thấp. Công tác truyền thông chưa sâu rộng, chưa phong phú, đa dạng; còn nhiều người chưa nhận thức hết tính nguy hiểm của đại dịch và cách phòng, chống cho bản thân và cộng đồng. Cấp uỷ, chính quyền một số địa phương chưa tập trung chỉ đạo cho ngang tầm với mức độ nghiêm trọng của tình hình, chưa huy động được cả cộng đồng tham gia phòng, chống. Nhiều tổ chức và cá nhân vẫn đứng ngoài cuộc. Còn có nhiều nơi phó thác trách nhiệm cho ngành y tế. Đây là một vấn đề y tế - xã hội cấp bách và nghiêm trọng cho cả nước nói chung, tỉnh Quảng Ninh nói riêng. Vì vậy, việc nghiên cứu thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS có ý nghĩa quan trọng và thiết thực.

Việc tác giả chọn Quảng Ninh là nơi tìm hiểu khảo sát thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh là do:

Quảng Ninh là tỉnh trọng điểm về tệ nạn nhiễm HIV/AIDS, mặt khác, chỉ có những đề tài được nghiên cứu về thực trạng nhiễm HIV/AIDS mà chưa có đề tài khoa học nào về thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh.

 

doc127 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1267 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thùc hiÖn ph¸p luËt phßng, chèng hiv/adis ë tØnh Qu¶ng Ninh HÀ NỘI - 2009 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS 7 1.2. Các hình thức thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS 25 1.3. Vai trò của thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS 27 1.4. Các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS 31 Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS Ở TỈNH QUẢNG NINH 35 2.1. Khái quát đặc điểm và tình hình dịch HIV/AIDS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh 35 2.2. Những kết quả đạt được và hạn chế của thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh 37 Chương 3: CÁC QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS Ở TỈNH QUẢNG NINH 67 3.1. Yêu cầu và quan điểm thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh 67 3.2. Mục tiêu thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS tại tỉnh Quảng Ninh 84 3.3. Các giải pháp nhằm bổ trợ thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS tại Quảng Ninh 90 3.4. Một số khuyến nghị 116 KẾT LUẬN 119 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 121  DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT AHF : Dự án do tổ chức chăm sóc sức khoẻ AIDS, Hoa Kỳ AIDS : Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ARV : Thuốc kháng vi rút HIV CBLTQĐTD : Chữa bệnh lây truyền qua đường tình dục CD4, CD8 : Máy đếm tế bào DFTD : Dự án phòng lây nhiễm HIV tại Việt Nam FHI : Tổ chức sức khoẻ gia đình quốc tế HIV : Vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người NAV : Tổ chức Bắc Âu trợ giúp Việt Nam PSI : Sự án do tổ chức dân số thế giới tài trợ STI : Bệnh lây nhiễm qua đường tình dục UNAIDS : Chương trình Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS USAID : Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ WHO : Tổ chức Y tế thế giới XHCN : Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Loài người đang phải đối mặt với HIV/AIDS, một đại dịch có sức tàn phá chưa từng thấy trong lịch sử. Từ khi đại dịch xuất hiện, theo thống kê của Tổ chức UNAIDS, cho đến nay trên thế giới đã có hơn 20 triệu người chết vì AIDS, khoảng 39.4 triệu người đang sống chung với HIV/AIDS. Cùng với quá trình phá huỷ dần tuổi thọ, sự phát triển kinh tế - xã hội và công cuộc xoá đói giảm nghèo, thì HIV/AIDS đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến lực lượng và năng suất lao động. Khi Việt Nam vững bước vào thế kỷ XXI, mỗi người dân đều hy vọng về một tương lai ổn định, hạnh phúc và tốt lành. Những niềm hy vọng này đã và đang bị ảnh hưởng bởi sự hiện diện của HIV/AIDS khi đại dịch này tấn công ngày càng nhiều cá nhân và gia đình ở Việt Nam và ảnh hưởng về mặt kinh tế của HIV/AIDS ngày càng được nhận thức rõ hơn. HIV/AIDS là một nguy cơ lớn đối với loài người, đối với các quốc gia, các dân tộc, đối với mỗi gia đình và mỗi người, HIV/AIDS đang là hiểm hoạ hàng đầu về việc gây ra chết chóc, nghèo đói lạc hậu, ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều thế hệ ở nhiều quốc gia, dân tộc. Có ý kiến cho rằng, AIDS có thể gây ra cả tình trạng mất ổn định về chính trị ở một số quốc gia như châu Phi chẳng hạn. Ở Việt Nam, cho đến nay (2009), HIV/AIDS đã lan rộng ở 64 tỉnh, thành phố (= 100%), 93 số huyện, 49% số xã phường với 315.171 người có HIV còn sống, 29.134 người có AIDS còn sống, 4.418 người đã chết. Nói về tính nghiêm trọng của tình hình đại dịch HIV/AIDS ở Việt Nam, Chỉ thị 54 ngày 30/11/2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng viết: Cho đến nay, “ở nước ta, tình hình lây nhiễm HIV/AIDS vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp. HIV/AIDS xuất hiện ở tất cả các tỉnh, thành phố và có xu hướng ngày càng lan rộng”. Ngoài các nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao (tiêm chích ma tuý, mại dâm, tình dục đồng giới…), “HIV/AIDS đang đe doạ trực tiếp đến sức khoẻ, tính mạng con người, trật tự an toàn xã hội, đến sự phát triển của đất nước, tương lai của giống nòi”. Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS nhấn mạnh: “phòng, chống HIV/AIDS phải được coi là một nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và lâu dài”. Tại Quảng Ninh, trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện đầu tiên vào tháng 6 năm 1994, năm 1996 phát hiện ca nhiễm thứ 2. Đến 31/12/2008 số người nhiễm HIV được xác định là 6.878 người, số tử vong do AIDS 3.757. Như vậy, đại dịch HIV/AIDS đã nhanh chóng lan rộng trên khắp địa bàn trong tỉnh, số người nhiễm cả trong 14/14 huyện, thị, thành phố, 155/186 xã, phường có người nhiễm HIV (số liệu cập nhật tại Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS Quảng Ninh). Tình hình lây nhiễm HIV/AIDS ở Quảng Ninh đã gây ra dư luận xấu và tâm lý lo ngại, gây bất lợi đối với một tỉnh có tiềm năng du lịch, đang trên đà phát triển và hội nhập. Trong những năm qua, công tác phòng, chống HIV/AIDS của tỉnh đã có nhiều cố gắng nhưng hiệu quả đạt được còn thấp. Công tác truyền thông chưa sâu rộng, chưa phong phú, đa dạng; còn nhiều người chưa nhận thức hết tính nguy hiểm của đại dịch và cách phòng, chống cho bản thân và cộng đồng. Cấp uỷ, chính quyền một số địa phương chưa tập trung chỉ đạo cho ngang tầm với mức độ nghiêm trọng của tình hình, chưa huy động được cả cộng đồng tham gia phòng, chống. Nhiều tổ chức và cá nhân vẫn đứng ngoài cuộc. Còn có nhiều nơi phó thác trách nhiệm cho ngành y tế. Đây là một vấn đề y tế - xã hội cấp bách và nghiêm trọng cho cả nước nói chung, tỉnh Quảng Ninh nói riêng. Vì vậy, việc nghiên cứu thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS có ý nghĩa quan trọng và thiết thực. Việc tác giả chọn Quảng Ninh là nơi tìm hiểu khảo sát thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh là do: Quảng Ninh là tỉnh trọng điểm về tệ nạn nhiễm HIV/AIDS, mặt khác, chỉ có những đề tài được nghiên cứu về thực trạng nhiễm HIV/AIDS mà chưa có đề tài khoa học nào về thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh. Với những lý do trên em chọn đề tài “Thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh” để làm luận văn thạc sĩ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thực hiện pháp luật là một trong những nội dung quan trọng của lý luận chung về nhà nước và pháp luật nói chung và đối với hoạt động phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh nói riêng, là một nội dung quan trọng nhằm góp phần bảo đảm các quyền con người trong bối cảnh đại dịch HIV/AIDS và cũng nhằm phòng ngừa, chăm sóc, điều trị và giảm thiểu tác động tiêu cực của HIV/AIDS, mà còn là phương thức cơ bản, một giải pháp có hiệu quả trong phòng, chống HIV/AIDS nói chung, trong dự phòng – bảo vệ sức khoẻ cộng đồng nói riêng, đưa ra các giải pháp bảo đảm việc thực hiện pháp luật, nâng cao hiệu quả, hiệu lực thực hiện pháp luật. Trong thời gian vừa qua ở nước ta đã có một số công trình và bài viết của các nhà khoa học, nhà quản lý nghiên cứu về HIV/AIDS, nhưng chủ yếu là nghiên cứu dưới góc độ là các chuyên đề, các báo cáo, hầu như chưa có công trình khoa học nào về vấn đề thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS cụ thể là: - Tổ chức Care với chuyên đề: “Chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS tại nhà” (2003). - Dự án SMARTWORK Việt Nam hướng dẫn nhà quản lý và công đoàn về chương trình, chính sách phòng ngừa HIV/AIDS tại nơi làm (2005). - Viện Nghiên cứu quyền con người viết chuyên đề về “HIV/AIDS và quyền con người” (năm 2006). - Viện Nghiên cứu quyền con người viết chuyên đề về “Tôn trọng và bảo vệ quyền con người của người nhiễm HIV” (năm 2007). - Ngoài ra, còn một số bài nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí như: AIDS và cộng đồng, Tạp chí của Cục Phòng, chống HIV/AIDS – Bộ Y tế, số 10(117), 2008, Hà Nội. - Dự án phòng, chống HIV/AIDS cho thanh niên viết cẩm nang đào tạo “Kỹ năng sống trong phòng, chống HIV/AIDS cho thanh niên” (2008). - Bên cạnh đó, có một số bài báo được đăng trên các phương tiện thông tin đại chúng như Báo Pháp luật Việt Nam, Báo Quảng Ninh. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, các bài viết nêu trên chỉ đề cập đến một số khía cạnh và ở mức độ nhất định về những khó khăn thách thức của người nhiễm HIV/AIDS, quyền lợi của những người nhiễm HIV/AIDS, thực trạng, giải pháp nhằm ngăn chặn HIV/AIDS… mỗi đề tài, mỗi bài viết, mỗi chuyên đề lại đưa ra hướng nghiên cứu theo một hướng khác nhau, mà chưa có một đề tài nào nghiên cứu toàn diện về vấn đề thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Dưới phương diện lý luận chung về nhà nước và pháp luật, đề tài tập trung: - Làm rõ thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh. - Xác định rõ thực trạng thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh. - Đưa ra các giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Phân tích làm rõ khái niệm thực hiện pháp luật, làm cơ sở xây dựng khái niệm thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS để rút ra có đặc thù gì khác. - Phân tích và làm rõ những yếu tố đặc thù về kinh tế - xã hội khiến dịch HIV/AIDS lây nhiễm cao và nhanh ở Quảng Ninh. - Thu thập các nguồn thông tin (có thể từ điều tra, giám sát dịch tễ) để làm rõ thực trạng về việc thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh. - Từ thực tế của tỉnh liên hệ với tình hình nhiễm HIV/AIDS trên cả nước để làm rõ tính đặc thù của của thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS, các hình thức thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS và tình trạng lây nhiễm HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh. - Rút ra được những đặc điểm của dịch HIV/AIDS trên địa bàn tỉnh để có dự báo xu hướng biến động của dịch trong những năm tới, từ đó đưa ra các giải pháp và khuyến nghị thích hợp nhằm thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật như: Khái niệm thực hiện pháp luật, khái niệm thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS, làm rõ các hình thức, nội dung và vai trò của thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS, thực trạng thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, từ đó đề ra các giải pháp nhằm bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề về thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh từ năm 1998 - 2008. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối lãnh đạo của Đảng về nhà nước và pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS trong giai đoạn hiện nay. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp phương pháp phân tích, thống kê, so sánh, tổng hợp, khảo sát thực tiễn, phỏng vấn một số đối tượng đặc biệt. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Có thể nói luận văn “Thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh” là công trình đầu tiên được nghiên cứu dưới góc độ lý luận chung về lịch sử nhà nước và pháp luật, nhằm luận giải một cách tương đối có hệ thống về cơ sở lý luận thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS. Vì vậy, luận văn bước đầu đã có những đóng góp về mặt khoa học sau đây: - Luận văn đã xây dựng được một hệ thống quan điểm lý luận về thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh. Trong đó xây dựng được khái niệm, phân tích được đặc điểm của thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS, các hình thức thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS, làm rõ các phương hướng giải pháp bảo đảm hiệu quả, hiệu lực việc thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh. Luận văn đã phân tích, đánh giá khách quan, khoa học một cách có hệ thống về thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh. Luận văn đã xây dựng được một số quan điểm và đề xuất được các giải pháp pháp lý có tính khả thi cao nhằm hoàn thiện việc thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh. Qua đó định hướng hoạt động thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS cho các giai đoạn sau. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm có 3 chương, 10 tiết. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS 1.1.1. Phòng, chống HIV/AIDS 1.1.1.1. Quan niệm pháp luật về HIV và AIDS * HIV: Cấu trúc vi rút HIV Là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh (Human Immunodeficiency Virus) Là vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người, làm cho cơ thể suy giảm khả năng chống lại các tác nhân gây bệnh. Khi vào cơ thể con người vi rút tấn công các tế bào miễn dịch (là các tế bào bạch cầu) là đội quân chủ lực bảo vệ cơ thể chống lại các vi trùng gây bệnh. Các tế bào miễn dịch bị tấn công trong một thời gian (có thể là 10 đến 20 năm) sẽ bị giảm về số lượng và cơ thể không có khả năng chống đỡ được các vi trùng gây bệnh như lao, tiêu chảy, vi rút, nấm… dẫn đến suy kiệt và tử vong. Có 2 loại HIV: - HIV1: Giống một loại vi rút ở loài khỉ Chiqanzel tại Gabong, HIV1 gây nhiễm bệnh trên toàn cầu được tìm thấy vào năm 1983. - HIV2: Giống một loại vi rút ở loài khỉ Sooty Mangabey tại Tây phi, HIV 2 gây nhiễm bệnh chủ yếu ở khu vực châu Phi, tìm thấy vào năm 1986. Hai loại virus này cùng một loại virus mà sau đó được hội nghị về danh pháp quốc tế về AIDS do một loại virus gây suy giảm miễn dịch ở người gây nên, virus có tên gọi là HIV (Human Immuno deficiency Virus). Đặc điểm sinh học của HIV: HIV xuất hiện tự nhiên có thể từ trước thập niên 60 của thế kỷ XX nhưng nguồn gốc thực sự của HIV là gì thì người ta vẫn chưa biết chắc chắn. Rất nhiều giả thuyết đã được đưa ra nhằm giải thích cho nguyên nhân gây ra đại dịch HIV/AIDS. Giả thuyết được nhiều người ủng hộ hiện nay là HIV đã hiện diện ở một phần nhóm người tách biệt nào đó trên thế giới và đối với họ vi rút này hoàn toàn vô hại. Vì điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi trên cục diện toàn thế giới: Du lịch phát triển, giải phóng tình dục, trình trạng nghiện ngập ma tuý ngày càng nhiều cùng với sự lạm dụng tiêm chích mà không đảm bảo vô trùng, truyền máu cũng gia tăng… Nên HIV đã lan truyền rộng khắp là kết quả loài người phải đối mặt với đại dịch HIV/AIDS như hiện nay. HIV xâm nhập và phát triển trong cơ thể, nó tấn công vào tế bào bạch cầu đặc biệt là Lympho bào T4 (Lym pho bào T4 là thành phần quan trọng của hệ thống miễn dịch của cơ thể, đóng vai trò như một tổng chỉ huy có nhiệm vụ điều phối huy động, kìm hãm toàn bộ hệ miễn dịch của cơ thể). Như vậy, HIV làm suy giảm hệ thống miễn dịch, cơ thể không còn khả năng tự bảo vệ. Mọi mầm bệnh mặc sức hoành hành gây nên nhiều chứng bệnh nguy hiểm dẫn đến tử vong. * AIDS: AIDS (viết tắt từ tiếng anh: Acquired Immune Deficiency Syndrom) là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải do HIV gây ra, thường được biểu hiện thông qua các nhiễm trùng cơ hội, các ung thư và có thể dẫn đến tử vong. AIDS là giai đoạn cuối của sự nhiễm vi rút HIV. Người ta không thể bị AIDS nếu không bị lây nhiễm HIV. Phòng ngừa nhiễm HIV là phòng ngừa AIDS. * Tại sao HIV/AIDS lại nguy hiểm? Sự lây lan của vi rút HIV - Các nhà nghiên cứu khoa học hiện nay cho rằng HIV/AIDS vẫn là một loại “bệnh” phức tạp chưa có thuốc chữa trị đặc hiệu, chưa có vác xin phòng HIV/AIDS. - HIV/AIDS là một bệnh nhiễm trùng suốt đời, khi đã thích hợp vào bộ gen của tế bào chủ. HIV tồn tại cùng với vật chủ cả đời, thậm chí nó tiếp tục sống trong cơ thể nhiều giờ sau khi đã tử vong. Vì vậy, người nhiễm HIV có thể truyền bệnh cho người khác bất kể lúc nào suốt cả cuộc đời họ. - HIV/AIDS là một “dịch” ẩm từ khi nhiễm HIV trở thành AIDS, trải qua nhiều giai đoạn (giai đoạn sơ nhiễm (cửa sổ), giai đoạn nhiễm HIV không triệu chứng, giai đoạn cận AIDS, giai đoạn AIDS). Người bệnh không hề có triệu chứng đặc trưng ở các giai đoạn đầu, nhưng có khả năng lan truyền âm ỉ mà ta không hề biết. Điều này như hiện tượng “Tảng băng trôi”, do đó rất phức tạp và khó khăn cho phòng và chống. Theo một số nghiên cứu, ảnh hưởng của HIV/AIDS tác động như nhiều làn sóng kế tiếp nhau: Giai đoạn đầu: người khoẻ mạnh trở thành người mang vi rút HIV. Đặc điểm của giai đoạn này là thời gian ủ bệnh khó nhận biết, kéo dài có thể lây truyền sang người khác… Giai đoạn hai, người mang vi rút HIV chuyển thành người bệnh, đồng thời xuất hiện nhiều bệnh lây nhiễm khác như bệnh lao và nhiều bệnh khác do hệ miễn dịch bị phá hoại. Giai đoạn này làm đảo lộn mọi đời sống của người bệnh đồng thời kéo theo những khó khăn, tổn thất cho người thân, gia đình và xã hội… Giai đoạn thứ ba, người bệnh tử vong, đây là một cái chết khủng khiếp… Giai đoạn thứ tư, là những hậu quả sau cái chết, trên các cấp độ: người thân (vợ, chồng, con cái) gia đình nhiều thế hệ, cộng đồng và xã hội. Đó là tình trạng nghèo đói, mồ côi, thất học, goá bụa, nỗi lo sợ sự kỳ thị, xa lánh của người thân và cộng đồng đối với người có HIV/AIDS và những người chung sống với HIV/AIDS. - Một khi đại dịch bùng nổ, HIV/AIDS không chỉ làm tổn thương đến những người có HIV/AIDS mà còn phá hoại nhiều mặt của đời sống cộng đồng, từ kinh tế đến xã hội, văn hoá như một thảm hoạ. HIV/AIDS có khả năng huỷ diệt không chỉ đến một gia đình, một dòng họ mà có thể huỷ diệt cả một quốc gia, dân tộc. HIV/AIDS được cộng đồng quốc tế xem như một vấn đề của sự phát triển của mỗi quốc gia. * Đường lây truyền của HIV và cách phòng tránh - Đường lây truyền của HIV HIV, loại vi rút gây ra AIDS, thường lây nhiễm qua đường tình dục. Tuy nhiên, vi rút HIV có thể lây nhiễm qua nhiều đường khác. Đường lây truyền của virut HIV Thứ nhất, đường lây truyền qua quan hệ tình dục: Những vết xước ở niêm mạc âm đạo, hậu môn, miệng hay dương vật có thể xảy ra trong quan hệ tình dục là đường vào của vi rút và từ đó vào máu. HIV có thể gắn và xâm nhập vào tinh trùng, bạch cầu của tinh dịch, tế bào langerhan ở dịch nhầy âm đạo hoặc hậu môn. Lây nhiễm thông qua quan hệ tình dục không được bảo vệ với một người nhiễm HIV, không được bảo vệ có nghĩa là không sử dụng bao cao su nam (hoặc bao cao su cho nữ). Các nghiên cứu cho thấy, nguy cơ lây nhiễm cao nhất là qua giao cấu bằng đường hậu môn và âm đạo mà không có sự bảo vệ. Quan hệ tình dục bằng đường khác có nguy cơ thấp hơn. Nguy cơ lây nhiễm HIV qua một lần quan hệ tình dục với người nhiễm HIV từ 1-10%. Nguy cơ này tăng lên khi quan hệ tình dục với nhiều người, đặc biệt với người có bệnh lây truyền qua đường tình dục thì nguy cơ có thể tăng lên tới 20 lần, làm tăng nhanh tiến triển của người nhiễm HIV thành AIDS, nam truyền HIV cho nữ nhiều hơn gấp 2 lần so với nữ truyền cho nam vì thiết diện bề mặt tiếp xúc HIV của nữ rộng hơn nam. Thứ hai, đường lây truyền qua máu: Máu toàn phần bao gồm các thành phần hữu hình và các yếu tố đông máu có thể có chứa HIV. Nguy cơ lây truyền qua đường máu có tỉ lệ rất cao. Từ năm 1985, việc tìm ra các phương pháp xét nghiệm phát hiện kháng thể kháng HIV đã làm giảm rõ rệt nguy cơ lây truyền qua đường máu, tuy nhiên, đối với những người cho máu mới nhiễm HIV thì bằng các xét nghiệm huyết thanh không thể phát hiện được mà phải có các xét nghiệm phát hiện kháng nguyên virut (P24) hoặc phát hiện DNA của virut (bằng PCR) hoặc phân lập virut. Điều này thực sự hạn chế ở các nước đang phát triển và các nước kém phát triển. HIV có thể lây truyền qua các vật xuyên chọc qua da và niêm mạc như: Lây nhiễm qua dùng chung bơm kim tiêm hoặc các dụng cụ xuyên qua da đã nhiễm HIV. Những dụng cụ này được sử dụng bởi thầy thuốc, bơm kim tiêm thuốc chữa bệnh, bơm kim tiêm ma tuý, kim dùng xăm mình, kim châm cứu hoặc kim chọc lỗ tai, lưỡi dao lam không được tiệt khuẩn đúng cách. HIV cũng có thể lây truyền qua tiếp xúc với máu và các dịch sinh học có HIV mà không sử dụng cụ phòng hộ; cấy truyền hoặc ghép cơ quan, tổ chức và tinh dịch, dịch vụ thẩm mỹ… Tiếp nhận máu hoặc các sản phẩm máu, các bộ phận cơ thể, hoặc các mô từ người nhiễm HIV. Trừ khi đã sàng lọc cẩn thận người cho máu và nguồn máu cung cấp đã được xét nghiệm trong phòng thí nghiệm, sự truyền máu có thể làm lây nhiễm HIV. Người cho máu không có nguy cơ nhiễm HIV, trừ khi sử dụng kim tiêm không được khử khuẩn đúng cách. Tiếp xúc trực tiếp với máu của người nhiễm HIV. Ta có thể nhiễm nếu tiếp xúc trực tiếp với máu (ví dụ qua các sây sát trên da của chúng ta) của người nhiễm HIV khi không sử dụng các biện pháp phòng vệ như găng tay cao su, nhựa vinilong hoặc tấm nhựa. Tiếp xúc này có thể xảy ra khi bị tai nạn, khi chữa răng hoặc chăm sóc y tế. Thứ ba, đường lây truyền từ mẹ sang con: Người ta có thể phân lập HIV hoặc DNA của vi rút trong tế bào bánh rau, máu của thai nhi từ 8 tuần tuổi và ở nhiều tuần sau đó. Cơ thể lây truyền HIV từ mẹ sang con vẫn chưa hoàn toàn sáng tỏ. Trẻ sơ sinh có thể nhiễm HIV từ mẹ xảy ra ở 3 giai đoạn: Thứ nhất: Giai đoạn khi thai nằm trong tử cung: Người mẹ có HIV (+) có thể truyền HIV cho con qua bánh rau. Người ta đã phát hiện vi rút hoặc DNA của vi rut trong tổ chức này từ 10-15 lần. Lây truyền trong thời kỳ mang thai chiếm khoảng 5% số trường hợp trẻ sơ sinh từ bà mẹ có HIV (+). Tỷ lệ lây truyền trong thời kỳ mang thai chủ yếu xảy ra vào những tháng cuối của thai kỳ, đặc biệt khi thai được khoảng 34 tuần. Cơ chế lây truyền theo đường này rất phức tạp và chưa hoàn toàn biết rõ do cấu trúc và chức năng của bánh rau thay đổi theo sự phát triển của thai. Vào thời gian cuối của thai nghén các tế bào của mẹ có thể vào tuần hoàn của thai nhi. Do vậy đường này vi rút có thể chuyển vào thai nhi qua bánh rau. Người ta thấy tỷ lệ lây truyền qua bánh rau khi thai nằm trong tử cung của người mẹ HIV (+) tăng lên khi tuổi của mẹ cao, khi nồng độ HIV trong máu mẹ cao, khi kháng nguyên P24 (+) và khi ở giai đoạn muộn đã có các triệu chứng lâm sàng của AIDS hoặc tế bào TCD4<200 tế bào/mm3. Thứ hai: Giai đoạn thai qua đường sinh dục người mẹ khi chuyển dạ Khi chuyển dạ đứa trẻ có thể bị lây nhiễm do tiếp xúc trực tiếp với máu và các chất dịch ở âm đạo người mẹ có HIV (+). Nguy cơ lây truyền qua đường này tăng lên khi ối đã vỡ, khi đẻ khó, chuyển dạ kéo dài, phần mềm của người mẹ bị sang chấn, thai bị xây xước và đặc biệt cơn co tử cung mạnh cũng có thể đẩy máu mẹ có HIV vào tuần hoàn con. Nếu không được can thiệp, khoảng 15-25% mẹ nhiễm HIV sẽ truyền cho con. Thứ ba: Giai đoạn cho con bú: Lây truyền HIV qua sữa mẹ được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1989, báo cáo đã chứng minh một trẻ sơ sinh từ mẹ HIV (-) bị nhiễm HIV do bú sữa của người nuôi dưỡng bị nhiễm HIV. Tỷ lệ lây truyền qua đường này thấp khoảng 10-15%. Tỷ lệ này cao hơn khi bệnh của mẹ ở giai đoạn muộn, khi có nhiều HIV trong máu. HIV cao trong sữa ở giai đoạn đầu (6 tuần) sau đẻ và giảm dần trong suốt thời gian cho con bú. Lây nhiễm từ người mẹ nhiễm HIV sang con trong thời gian mang thai, trong khi sinh, hoặc cho con bú. Các liệu pháp mới được sử dụng trong thai kỳ, ví dụ một liều duy nhất hoặc nhiều liều neviripene thấp, sẽ giúp giảm mạnh nguy cơ lây nhiễm HIV từ mẹ sang con. Có thể có nhiều thông tin cập nhật để phòng lây nhiễm từ mẹ sang con. Vì vậy, bố mẹ nhiễm HIV nên đến cơ sở tư vấn để được cung cấp các thông tin làm giảm khả năng lây truyền sang cho con. - Trong các trường hợp cực kỳ hi hữu, lây nhiễm có thể xẩy ra khi hôn kéo dài hoặc “sâu”. Các nghiên cứu cho thấy việc lây nhiễm này chỉ xẩy ra khi trong miệng cả hai bên có sây sát và có máu. Một lý do khác khiến đường lây nhiễm này rất hiếm xảy ra là các chất đặc biệt có trong nước bọt có thể khử hoạt tính của vi rút HIV. Vì những khác biệt về sinh học, phụ nữ thường bị lây nhiễm hơn nam giới khi quan hệ tình dục không có dụng cụ bảo vệ. Tuy nhiên, khi cả nam và nữ đều có nguy cơ cao nhiễm HIV từ bạn tình nhiễm HIV khi có quan hệ tình dục không có dụng cụ bảo vệ, nguy cơ này thực sự gia tăng nếu một trong hai người mắc một bệnh lây nhiễm qua đường tình dục (STI). Vì vậy, mỗi người dân và toàn xã hội phải có biện pháp phòng tránh cho mình để có thể giảm mạnh sự lây nhiễm. - Các biện pháp phòng tránh Thứ nhất, phòng tránh lây truyền theo đường tình dục: - Sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục: Nguy cơ nhiễm HIV sẽ giảm rất nhiều nếu sử dụng bao cao su một cách thường xuyên và đúng cách (mỗi lần từ khi bắt đầu đến khi kết thúc) khi quan hệ tình dục, dù là qua âm đạo, hậu môn hay đường khác. Bao cao su sẽ phòng ngừa lây nhiễm HIV. Bao cao su được bảo quản đúng cách ở nơi mát, tránh ánh nắng trực tiếp, có thể để được trong hai năm (kể từ ngày sản xuất) hoặc lâu hơn tuỳ loại và hạn dùng được ghi trên vỏ bao. - Chỉ duy trì mối quan hệ tình dục bền vững với một bạn tình duy nhất: Mối quan hệ tình dục bền vững với một bạn tình sẽ giảm thiểu mối nguy cơ chừng nào cả hai người đều không nhiễm HIV hoặc đều không có một bạn tình nào khác nữa, hoặc đều không có nguy cơ cao như dùng chung bơm kim tiêm. Thứ hai, phòng tránh lây truyền theo đường máu Tránh tiếp xúc giữa máu với máu và tiếp xúc với các loại dịch cơ thể thông qua “các biện pháp phòng ngừa chung”. Các biện pháp phòng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLV.doc
Tài liệu liên quan