Luận văn Thực hiện pháp luật về người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay

Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc một hay nhiều chức năng nào đó của bộ phận cơ thể bị suy giảm. Do khuyết tật nên họ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt, học tập, lao động và tham gia hoạt động xã hội. Do đó việc đảm bảo sự bình đẳng trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội đối với người khuyết tật là nghĩa vụ của gia đình, xã hội và nhà nước.

Là mắt xích quan trọng trong chính sách an sinh xã hội, với truyền thống nhân đạo của dân tộc, người khuyết tật luôn nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (6-1991) khẳng định: "Chính sách xã hội bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh Chăm lo đời sống những người già cả neo đơn, tàn tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi" [17]. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI chỉ rõ “Từng bước xây dựng chính sách bảo trợ xã hội đối với toàn dân, theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, mở rộng và phát triển sự nghiệp bảo trợ xã hội, tạo lập nhiều hệ thống và hình thức bảo trợ xã hội cho những người có công với cách mạng và những người gặp khó khăn. Nghiên cứu bổ sung chính sách, chế độ bảo trợ xã hội phù hợp với quá trình đổi mới và cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội” [15].

Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980, 1992 đều khẳng định người tàn tật là công dân - thành viên của xã hội, được hưởng đầy đủ các quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, được chung hưởng thành quả xã hội. Vì tàn tật, người tàn tật có quyền được xã hội trợ giúp để thực hiện được quyền bình đẳng và tham gia tích cực vào các hoạt động của xã hội, đồng thời vì tàn tật, họ được miễn trừ một số nghĩa vụ công dân. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) khẳng định: “Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật được học văn hoá và học nghề phù hợp”(Điều 59), “Người già, người tàn tật, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ” (Điều 67) [29].

Thể chế hoá các quan điểm của Đảng, quy định của Hiến pháp, nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành tạo hành lang và cơ sở pháp lý để người khuyết tật thực hiện những quyền cơ bản của con người, tham gia vào đời sống và sự phát triển của xã hội. Ngày 30 tháng 7 năm 1998, Uỷ ban thường vụ quốc hội thông qua Pháp lệnh về người tàn tật. Pháp lệnh quy định trách nhiệm của gia đình, nhà nước và xã hội đối với người tàn tật, quyền và nghĩa vụ của người tàn tật trên các lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ và hỗ trợ nuôi dưỡng, học văn hoá, học nghề và việc làm, hoạt động văn hoá, thể dục thể thao và sử dụng công trình công cộng đối với người tàn tật.” Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho người tàn tật thực hiện bình đẳng các quyền về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và phát huy khả năng của mình để ổn định đời sống, hoà nhập cộng đồng, tham gia các hoạt động xã hội. Người khuyết tật được nhà nước và xã hội trợ giúp chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng, tạo việc làm phù hợp và được hưởng các quyền khác theo quy định của pháp luật”. Cùng với Pháp lệnh về người tàn tật, Quốc hội đã ban hành hệ thống các luật chuyên ngành chứa đựng nhiều quy phạm liên quan đến người khuyết tật như: Bộ luật lao động, Luật Giáo dục, Luật Dạy nghề, Luật bảo vệ và chăm sóc, giáo dục trẻ em, Luật giao thông đường bộ, Luật thanh niên, Luật trợ giúp pháp lý, Luật xây dựng, Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng Chính phủ, các Bộ, ngành và các địa phương đã ban hành hàng trăm văn bản nhằm hướng dẫn thi hành Pháp lệnh về người Tàn tật và các quy định liên quan đến người khuyết tật của các luật chuyên ngành.

Sau nhiều năm thực hiện pháp luật về người khuyết tật, nhà nước đã tạo được hành lang pháp lý và môi trường xã hội tương đối thuận lợi cho người khuyết tật hoà nhập cộng đồng, góp phần cải thiện đời sống của người khuyết tật, đồng thời tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia trợ giúp người khuyết tật có hiệu quả thiết thực.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện pháp luật về người khuyết tật nảy sinh nhiều vấn đề bất cập. Hệ thống văn bản pháp luật vừa thừa, vừa thiếu, không đồng bộ, thiếu tính thống nhất và sự chồng chéo giữa các văn bản luật đã gây khó khăn cho quá trình tổ chức thực hiện. Có những quy phạm sau hơn mười năm vẫn không thể thực hiện như quy định lập Quỹ việc làm dành cho người khuyết tật; Quy định bắt buộc một số loại hình doanh nghiệp phải nhận từ 2% đến 3% lao động là người khuyết tật vào làm việc. Việc bảo đảm cho người khuyết tật tiếp cận các dịch vụ y tế, học văn hoá, học nghề, tìm kiếm việc làm, tham gia giao thông công cộng thực tế còn gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại.

Việt Nam là một nước nghèo, chịu ảnh hưởng nặng nề sau chiến tranh, cùng với sự tác động của ô nhiễm môi trường, của tai nạn giao thông, tai nạn lao động, thiên tai, dịch bệnh, chắc chắn con số 6,34% dân số là người khuyết tật hiện nay- khoảng 6 triệu người sẽ ngày càng tăng lên.

Đất nước ta đang trong tiến trình tạo lập nền kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, với mục tiêu tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tạo điều kiện khơi dậy mọi nguồn lực, nhân lực để tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu Dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hơn lúc nào hết cần phải tổ chức tốt hoạt động thực hiện pháp luật về người khuyết tật với hệ thống pháp luật đồng bộ, không rào cản đối với người khuyết tật nói riêng và hoạt động thực hiện hệ thống pháp luật nói chung.

 

doc103 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1462 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Thực hiện pháp luật về người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở đầu Tính cấp thiết của đề tài Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc một hay nhiều chức năng nào đó của bộ phận cơ thể bị suy giảm. Do khuyết tật nên họ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt, học tập, lao động và tham gia hoạt động xã hội. Do đó việc đảm bảo sự bình đẳng trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội đối với người khuyết tật là nghĩa vụ của gia đình, xã hội và nhà nước. Là mắt xích quan trọng trong chính sách an sinh xã hội, với truyền thống nhân đạo của dân tộc, người khuyết tật luôn nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (6-1991) khẳng định: "Chính sách xã hội bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh … Chăm lo đời sống những người già cả neo đơn, tàn tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi" [17]. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI chỉ rõ “Từng bước xây dựng chính sách bảo trợ xã hội đối với toàn dân, theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, mở rộng và phát triển sự nghiệp bảo trợ xã hội, tạo lập nhiều hệ thống và hình thức bảo trợ xã hội cho những người có công với cách mạng và những người gặp khó khăn. Nghiên cứu bổ sung chính sách, chế độ bảo trợ xã hội phù hợp với quá trình đổi mới và cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội” [15]. Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980, 1992 đều khẳng định người tàn tật là công dân - thành viên của xã hội, được hưởng đầy đủ các quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, được chung hưởng thành quả xã hội. Vì tàn tật, người tàn tật có quyền được xã hội trợ giúp để thực hiện được quyền bình đẳng và tham gia tích cực vào các hoạt động của xã hội, đồng thời vì tàn tật, họ được miễn trừ một số nghĩa vụ công dân. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) khẳng định: “Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật được học văn hoá và học nghề phù hợp”(Điều 59), “Người già, người tàn tật, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ” (Điều 67) [29]. Thể chế hoá các quan điểm của Đảng, quy định của Hiến pháp, nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành tạo hành lang và cơ sở pháp lý để người khuyết tật thực hiện những quyền cơ bản của con người, tham gia vào đời sống và sự phát triển của xã hội. Ngày 30 tháng 7 năm 1998, Uỷ ban thường vụ quốc hội thông qua Pháp lệnh về người tàn tật. Pháp lệnh quy định trách nhiệm của gia đình, nhà nước và xã hội đối với người tàn tật, quyền và nghĩa vụ của người tàn tật trên các lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ và hỗ trợ nuôi dưỡng, học văn hoá, học nghề và việc làm, hoạt động văn hoá, thể dục thể thao và sử dụng công trình công cộng đối với người tàn tật.” Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho người tàn tật thực hiện bình đẳng các quyền về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và phát huy khả năng của mình để ổn định đời sống, hoà nhập cộng đồng, tham gia các hoạt động xã hội. Người khuyết tật được nhà nước và xã hội trợ giúp chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng, tạo việc làm phù hợp và được hưởng các quyền khác theo quy định của pháp luật”. Cùng với Pháp lệnh về người tàn tật, Quốc hội đã ban hành hệ thống các luật chuyên ngành chứa đựng nhiều quy phạm liên quan đến người khuyết tật như: Bộ luật lao động, Luật Giáo dục, Luật Dạy nghề, Luật bảo vệ và chăm sóc, giáo dục trẻ em, Luật giao thông đường bộ, Luật thanh niên, Luật trợ giúp pháp lý, Luật xây dựng, Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng… Chính phủ, các Bộ, ngành và các địa phương đã ban hành hàng trăm văn bản nhằm hướng dẫn thi hành Pháp lệnh về người Tàn tật và các quy định liên quan đến người khuyết tật của các luật chuyên ngành. Sau nhiều năm thực hiện pháp luật về người khuyết tật, nhà nước đã tạo được hành lang pháp lý và môi trường xã hội tương đối thuận lợi cho người khuyết tật hoà nhập cộng đồng, góp phần cải thiện đời sống của người khuyết tật, đồng thời tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia trợ giúp người khuyết tật có hiệu quả thiết thực. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện pháp luật về người khuyết tật nảy sinh nhiều vấn đề bất cập. Hệ thống văn bản pháp luật vừa thừa, vừa thiếu, không đồng bộ, thiếu tính thống nhất và sự chồng chéo giữa các văn bản luật đã gây khó khăn cho quá trình tổ chức thực hiện. Có những quy phạm sau hơn mười năm vẫn không thể thực hiện như quy định lập Quỹ việc làm dành cho người khuyết tật; Quy định bắt buộc một số loại hình doanh nghiệp phải nhận từ 2% đến 3% lao động là người khuyết tật vào làm việc. Việc bảo đảm cho người khuyết tật tiếp cận các dịch vụ y tế, học văn hoá, học nghề, tìm kiếm việc làm, tham gia giao thông công cộng thực tế còn gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại. Việt Nam là một nước nghèo, chịu ảnh hưởng nặng nề sau chiến tranh, cùng với sự tác động của ô nhiễm môi trường, của tai nạn giao thông, tai nạn lao động, thiên tai, dịch bệnh, chắc chắn con số 6,34% dân số là người khuyết tật hiện nay- khoảng 6 triệu người sẽ ngày càng tăng lên. Đất nước ta đang trong tiến trình tạo lập nền kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, với mục tiêu tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tạo điều kiện khơi dậy mọi nguồn lực, nhân lực để tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu Dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hơn lúc nào hết cần phải tổ chức tốt hoạt động thực hiện pháp luật về người khuyết tật với hệ thống pháp luật đồng bộ, không rào cản đối với người khuyết tật nói riêng và hoạt động thực hiện hệ thống pháp luật nói chung. Xuất phát từ những cơ sở nêu trên, việc nghiên cứu: Thực hiện phỏp luật về người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay đang là vấn đề cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ tôi hy vọng sẽ góp phần nhỏ bé vào việc phát triển, hoà nhập đời sống cộng đồng xã hội và bảo đảm thực hiện các quyền của người khuyết tật. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề thực hiện pháp luật về người khuyết tật liên quan đến nhiều Bộ, ngành, nhiều cấp chính quyền, nhiều lĩnh vực do vậy trong quá trình tổ chức và thực hiện pháp luật cũng như thực hiện chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của các cơ quan trong bộ máy nhà nước đã có một số công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. Cụ thể - Dự án: Dự án phân tích, đánh giá chính sách pháp luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, năm 1999 của Bộ Lao động, thương binh và xã hội. - Đánh giá việc thực hiện Bộ luật lao động đối với lao động là người tàn tật và pháp lệnh người tàn tật- Nguyễn Diệu Hồng- Bộ Lao động, thương binh và xã hội . - Nội dung và phương pháp giáo dục trẻ em có tật ở Việt nam- Viện Khoa học giáo dục thuộc Bộ Giáo dục. - Đề tài: Các biện pháp tổ chức giáo dục hoà nhập giúp trẻ em khuyết tật thính giác vào lớp 1, Luận án Tiến sĩ giáo dục học của Nguyễn Thị Hoàng Yến. - Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật ở Việt nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Thị Báo - Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia. - Báo cáo kết quả thực hiện Pháp lệnh về người tàn tật và đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2006 – 2010 của Bộ Lao động, thương binh và xã hội năm 2008. - Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện các chính sách trợ giúp phụ nữ khuyết tật năm 2008 của TW Hội Liên hiệp phụ nữ Việt nam. - Báo cáo thực hiện các chính sách trợ giúp người khuyết tật trong dạy nghề, học nghề (Báo cáo năm 2008 của Cục việc làm – Bộ Lao động –Thương binh và Xã hội). - Báo cáo thực hiện các chính sách về việc làm cho người khuyết tật- nhìn từ góc độ luật pháp. Tham luận khoa học của Cục việc làm- Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội năm 2008 tại Hội thảo về chính sách việc làm đối với người khuyết tật. - Tổng kết tình hình thực hiện Quyết định của Thủ tướng năm 2005 về thực hiện hỗ trợ người khuyết tật giai đoạn 2005 – 2010 do Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội xây dựng năm 2009. Tất cả các công trình trên, dù tiếp cận dưới góc độ chính sách pháp luật, giáo dục, đào tạo người khuyết tật, chăm sóc sức khoẻ người khuyết tật hoặc đánh giá quá trình thực hiện pháp luật lao động liên quan đến đối tượng là người khuyết tật trong quá trình tìm việc làm và tiếp cận xã hội trong các lĩnh vực khác nhau thì cũng đã có những nội dung liên quan tới quy trình, các giai đoạn thực hiện pháp luật về người khuyết tật. Tuy vậy hiện nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách trực tiếp và có hệ thống về hoạt động thực hiện pháp luật về người khuyết tật ở Việt nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Mục đích của luận văn là trên cơ sở những vấn đề lý luận chung về nhà nước và pháp luật, nghiên cứu và đánh giá chính xác thực trạng công tác thực hiện pháp luật về người khuyết tật ở nước ta hiện nay, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp khả thi nhằm nâng cao hoạt động thực hiện pháp luật về người khuyết tật, góp phần bảo đảm việc thực hiện các quyền của người khuyết tật, tạo cơ hội cho người khuyết tật bình đẳng và hoà nhập cộng đồng xã hội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây: Một là: Hệ thống hoá, khái lược hoá một số nội dung cả về lý luận và thực tiễn liên quan đến người khuyết tật, tàn tật. Trên cơ sở đó hình thành cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về người khuyết tật ở nước ta hiện nay, phân tích các hình thức và vai trò thực hiện pháp luật về người khuyết tật đồng thời luận văn giới thiệu khái quát kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực xây dựng văn bản pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về người khuyết tật. Hai là: Phân tích đánh giá thực trạng người khuyết tật và hoạt động thực hiện pháp luật về người khuyết tật, trong đó phân tích, đánh giá những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của thực trạng thực hiện pháp luật về người khuyết tật hiện nay. Ba là: Khẳng định các quan điểm và đề xuất giải pháp bảo đảm hoạt động thực hiện pháp luật về người khuyết tật ở nước ta hiện nay. Những giải pháp cần được xây dựng mang tính chất tổng thể và phù hợp với hoạt động quản lý nhà nước cũng như hoạt động thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay. 4. Phạm vi nghiên cứu Thực hiện pháp luật về người khuyết tật có phạm vi rất rộng có liên quan đến nhiều văn bản luật khác nhau cũng như nhiều hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Luận văn xác định phạm vi nghiên cứu là qúa quantrình thực hiện pháp luật mà chủ yếu là từ khi có Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998. Để có căn cứ khoa học khi đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về người khuyết tật, luận văn đánh giá thực trạng hoạt động thực hiện pháp luật dựa trên những báo cáo tổng kết của cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện hoạt động quản lý nhà nước về người khuyết tật là Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện bởi các phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp để xử lý tài liệu thu thập, so sánh và minh hoạ bằng biểu đồ, sơ đồ, tham khảo tài liệu trong và ngoài nước. 6. Những đóng góp về khoa học của luận văn Luận văn là công trình đầu tiên ở trong nước nghiên cứu có hệ thống hoạt động thực hiện pháp luật về người khuyết tật và có những đóng góp mới sau đây: - Làm sáng tỏ cơ sở lý luận và những đặc điểm của hoạt động thực hiện pháp luật về người khuyết tật. - Đánh giá có hệ thống và khái quát thực trạng hoạt động thực hiện pháp luật trong phạm vi cả nước. Trong đó có những đáng giá mang tính chất chuyên sâu hoạt động thực hiện pháp luật. - Đề xuất những quan điểm và giải pháp cơ bản góp phần hoàn thiện công tác thực hiện pháp luật và từ đó nâng cao nhận thức cả xã hội đối với người khuyết tật 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung nhận thức lý luận về thực hiện pháp luật và đề xuất những giải pháp cần thiết trong quá trình hoạch định chính sách, làm tài liệu tham khảo trong thực hiện pháp luật và góp vào trong quá trình hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật ở Việt nam hiện nay. Nhà nước ta đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện những quy định liên quan đền người khuyết tật mà cụ thể là xây dựng Dự án luật về người khuyết tật, những nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa trong việc hoàn thiện chính sách và là những đóng góp cả về lý luận và thực tiễn trong hoạch định chính sách liên quan đến người khuyết tật. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1 cơ sở lý luận của việc thực hiện pháp luật về người khuyết tật ở việt nam hiện nay 1.1. Khái niệm, đặc điểm, các hình thức và vai trò thực hiện pháp luật về người khuyết tật 1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về người khuyết tật Để tìm hiểu khái niệm thực hiện pháp luật về người khuyết tật, trước hết cần làm rõ khái niệm thực hiện pháp luật. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hệ thống các quy phạm này tạo khuôn khổ cho hoạt động xã hội, chứa đựng các quy tắc cấm đoán hoặc bắt buộc chung và tác động, điều chỉnh tới các quan hệ xã hội Vì vậy hoạt động thực hiện pháp luật không chỉ là sự quan tâm của Nhà nước mà còn là của mỗi cá nhân bởi kết quả của quá trình đó tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống xã hội. Việc tự giác thực hiện các quy phạm pháp luật gắn chặt với yêu cầu của các cơ quan trong bộ nhà nước, là mục tiêu và là đòi hỏi các tổ chức, cá nhân trong xã hội tôn trọng, thực hiện chính xác, đầy đủ pháp luật. Như vậy, thực hiện pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) của con người phù hợp với quy định của luật pháp. Thực hiện pháp luật là bước tiếp theo sau khi văn bản pháp luật được ban hành để đưa các quy phạm pháp luật trở thành các quy tắc xử sự của các chủ thể pháp luật làm cho các yêu cầu, quy định của văn bản pháp luật trở thành hiện thực. Về pháp lý thì thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp, hành vi đó không trái, không vượt ra ngoài các quy định của pháp luật. Thực hiện pháp luật có thể là hành vi của mỗi cá nhân nhưng cũng có thể là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội. Nghiên cứu các tài liệu hiện hành cho thấy hiện nay có một số quan niệm về thực hiện pháp luật sau: Theo tài liệu học tập và nghiên cứu môn học Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Viện Nhà nước và Pháp luật - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thì: "Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật" [23, tr.270]. Giáo trình của Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng: "Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật" [21, tr.494]. Theo Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật của Trường Đại học Luật Hà Nội thì: "Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật" [31, tr.461]. Từ những quan niệm thực hiện pháp luật nêu trên cho thấy: - Các định nghĩa đều thống nhất về thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm thực hiện những yêu cầu của pháp luật. - Thực hiện pháp luật là các hoạt động thực tế, hợp pháp, làm cho những quy định của pháp luật trở thành hoạt động thực tế trong cuộc sống con người. - Thực hiện pháp luật là một quá trình của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật. Như vậy, theo chúng tôi khái niệm thực hiện pháp luật được hiểu như sau: Thực hiện pháp luật là một quá trình của chủ thể pháp luật nhằm mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Thực hiện pháp luật về người khuyết tật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật về người khuyết tật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp trong mối quan hệ giữa quyền của người khuyết tật với quyền của các chủ thể khác nhau khi tham gia quan hệ pháp luật. Với tư cách chủ thể quản lý, nhà nước đã sử dụng pháp luật làm phương tiện quan trọng nhất để tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhà nước mong muốn các văn bản đó phải được tôn trọng và thực thi có hiệu quả trong thực tế. Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích, định hướng nhằm hiện thực hoá nội dung các quy định của pháp luật bằng các hành vi thực tế của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật. Dưới góc độ pháp lý, chỉ những hành vi xử sự phù hợp với các quy định của pháp luật về người khuyết tật của các chủ thể có đầy đủ khả năng nhận thức được yêu cầu của quy phạm pháp luật, có khả năng tự chịu trách nhiệm và gánh chịu những hậu quả bất lợi do hành vi của họ gây ra thì được coi là quá trình thực hiện pháp luật về người khuyết tật. Như vậy, thực hiện pháp luật về người khuyết tật là hoạt động có mục đích của các chủ thể mà các chủ thể đó có thể là cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, các cá nhân được nhà nước trao quyền nhằm làm cho các quy định của pháp luật về người khuyết tật trở thành những hành vi trong thực tế bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp đối với người khuyết tật. 1.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về người khuyết tật Thực hiện pháp luật về người khuyết tật mang đầy đủ đặc điểm của quá trình thực hiện pháp luật nói chung. Với bản chất là hoạt động xã hội của con người, thực hiện pháp luật về người khuyết tật hàm chứa những đặc điểm chung của các hoạt động xã hội khác đồng thời với bản chất pháp lý của mình, thực hiện pháp luật về người khuyết tật đã tạo nên những đặc điểm nổi trội và đặc thù sau đây: Thứ nhất: Thực hiện pháp luật về người khuyết tật bao giờ cũng thông qua những hành vi cụ thể của con người. Đời sống xã hội của con người bao giờ cũng được bộc lộ thông qua các hành vi cụ thể trong các mối quan hệ xã hội. Hành vi cũng chính là các phương thức tồn tại của con người, chính vì lẽ đó, việc thực hiện pháp luật về người khuyết tật thường tồn tại là những dạng hành động tích cực là chủ yếu và phổ biến của các cá nhân hoặc cơ quan trong bộ máy nhà nước. Kết quả của việc thực hiện các hành vi đó trên thực tế không phải lúc nào cũng hợp pháp, cũng bảo vệ và mang lại lợi ích đối với người khuyết tật mà có thể do nhiều nguyên nhân dẫn tới hoặc trái pháp luật hoặc mục đích bảo vệ và bảo đảm quyền lợi cho người khuyết tật không thể đạt được. Thứ hai: Thực hiện pháp luật về người khuyết tật là hành vi phù hợp với pháp luật về người khuyết tật. Đó là những hành vi cụ thể của con người song thực hiện pháp luật về người khuyết tật có đặc điểm là phải phù hợp với các quy định hiện hành liên quan tới người khuyết tật. Việc phù hợp ở đây được hiểu là pháp luật cấm điều gì làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của người khuyết tật thì chủ thể không làm, pháp luật có những quy định bắt buộc gì nhằm tạo điều kiện và bảo vệ quyền lợi của người khuyết tật, quyền tiếp cận đời sống xã hội của người khuyết tật thì chủ thể tích cực tham gia và pháp luật cho phép làm gì thì các chủ thể đưa ra quyết định để thực hiện hành vi hoặc không thực hiện hành vi phù hợp. Nói đến việc thực hiện pháp luật về người khuyết tật bao giờ các chủ thể cũng quan tâm tới việc thực hiện cái gì? Nói cách khác là thực hiện nội dung gì liên quan tới người khuyết tật và cách thức, hình thức thực hiện bằng hình thức nào? Như vậy, tính hợp pháp trong quá trình thực hiện pháp luật về người khuyết tật bao gồm thực hiện cả những quy phạm về nội dung và những quy phạm về hình thức, quy trình và thủ tục. Chỉ có sự đảm bảo và phù hợp cả về nội dung và hình thức thì quá trình thực hiện pháp luật về người khuyết tật mới làm cho các hành vi và quan hệ pháp luật phát sinh trong thực tế hợp pháp và tích cực bảo vệ việc thực hiện pháp luật về người khuyết tật. Thứ ba: Thực hiện pháp luật về người khuyết tật là một quá trình có mục đích, nó bao gồm nhiều hoạt động kế tiếp nhau. Để biến những quyền và nghĩa vụ pháp lý bảo vệ người khuyết tật thành những hành vi xử sự trong thực tế thì cần thiết phải thông qua hàng loạt các hoạt động cụ thể của con người mà các hoạt động đó phải có mục đích, mục tiêu cụ thể. Các hoạt động cụ thể đó bao gồm: Chủ thể tìm hiểu các quy định của pháp luật có nội dung cụ thể như thế nào? Xem xét vị trí, chức năng vai trò của bản thân, ra các quyết định về cách thức, thời gian hoạt động cụ thể. Tất cả các hoạt động đó phải cần thiết xác định mục tiêu cụ thể là bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người khuyết tật thông qua việc thực hiện các quy phạm cụ thể. Tích mục đích có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quá trình thực hiện pháp luật nói chung. Đối với quá trình thực hiện pháp luật về người khuyết tật có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi người khuyết tật là đối tượng yếu thế trong xã hội. Như vậy, đòi hỏi tích mục tiêu, mục đích không chỉ có ý nghĩa trong việc thiết lập, xây dựng các quy phạm pháp luật cụ thể mà còn là đòi hỏi đối với các chủ thể trong quá trình thực hiện pháp luật về người khuyết tật. Thứ tư: Quá trình thực hiện pháp luật về người khuyết tật được bảo đảm bằng các biện pháp của nhà nước. Để pháp luật thật sự đi vào đời sống xã hội thì quá trình thực hiện pháp luật cần thiết phải được bảo đảm từ phía nhà nước chính đặc điểm này tạo ra sự khác biệt cơ bản giữa pháp luật với đạo đức. Đối với nước ta pháp luật về người khuyết tật thể hiện ý chí của nhà nước nhằm bảo vệ và bảo đảm cho người khuyết tật tiếp cận với đời sống xã hội do vậy thực hiện pháp luật về người khuyết tật không chỉ là mong muốn của quản lý hành chính nhà nước mà còn là nguyện vọng chung của đa số nhân dân lao động. Chính sự bảo đảm của nhà nước mới làm cho pháp luật về người khuyết tật được thực thi trong môi trường thực hiện bình đẳng bảo đảm cho việc việc thụ hưởng các lợi ích hợp pháp của người khuyết tật. Trong trường hợp các chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật liên quan tới người khuyết tật không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các yêu cầu thì nhà nước bằng quyền lực của mình sử dụng các biện pháp bắt buộc hoặc các biện pháp cưỡng chế nhằm yêu cầu các chủ thể thực hiện hành vi hợp pháp với người khuyết tật. Nhà nước sử dụng các hình thức bảo đảm pháp lý, sử dụng các tổ chức xã hội hoặc các thiết chế khác nhau phù hợp với từng nhóm đối tượng khuyết tật. Thứ năm, thực hiện pháp luật về người khuyết tật vừa mang tính thực hiện quyền lực nhà nước, vừa mang tính xã hội rộng rãi. Thực hiện pháp luật về người khuyết tật thông qua các hình thức riêng có của mình làm cho những quy phạm pháp luật về người khuyết tật đi vào cuộc sống. Những quy phạm này chính là hệ thống quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực người khuyết tật. Đó chính là hệ thống các quy phạm quy định về các giải pháp bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người khuyết tật trong việc tiếp cận các hoạt động về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.tổ chức, về các đảm bảo khác trong lĩnh vực quản lý nhà nước về người khuyết tật. Những quy phạm này có tính bắt buộc chung đối với mọi công dân, mọi chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về người khuyết tật. Việc thực hiện nghiêm chỉnh hệ thống quy phạm này cũng chính là thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực người khuyết tật. Mặt khác, người khuyết tật là bộ phận dân cư quan trọng, là bộ phận không thể tách rời của đời sống xã hội. Việc tiếp cận với đời sống xã hội của bộ phận dân cư yếu thế này như thế nào có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống cộng đồng. Vì lẽ đó, để thực hiện pháp luật về người khuyết tật có hiệu quả cần phải phát huy sức mạnh tối đa của các chủ thể, các cá nhân, tổ chức và toàn xã hội trong chấp hành, tuân thủ, sử dụng và áp dụng pháp luật về người khuyết tật. Do đó, thực hiện pháp luật có tính xã hội rộng lớn. 1.1.3. Hình thức thực hiện pháp luật về người khuyết tật Các quy phạm pháp luật liên quan đến người khuyết tật được quy định trong rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Việc thực hiện đầy đủ các văn bản pháp luật này đòi hỏi có sự thống nhất và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước. Căn cứ vào tính chất và đặc điểm hoạt động thực hiện pháp luật về người khuyết tật có thể chia hình thức thực hiện pháp luật về người khuyết tật bao gồm: - Tuân thủ pháp luật về người khuyết tật . Tuân thủ pháp luật về người khuyết tật là một hình thức thực hiện pháp luật về người khuyết tật, trong đó các chủ thể thực hiện pháp luật tự kiềm chế để không tiến hành những hoạt

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLV.doc
  • docbia.doc
  • docPhu luc.doc
Tài liệu liên quan