Luận văn Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong trường Trung học phổ thông trên địa bàn Hà Nội hiện nay - Thực trạng và giải pháp

Sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay đòi hỏi phải phát huy được quyền làm chủ của nhân dân lao động, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, kiểm soát nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 6 năm 1997) khẳng định, khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Bác Hồ nói rất giản dị rằng dân chủ là dân là chủ, dân làm chủ, là dân tin, dân muốn nói, muốn bàn việc nước và làm việc nước. Thực hành dân chủ là nhằm phát huy sức sáng tạo, lực lượng vật chất và tinh thần của nhân dân trong công cuộc kiến tạo xã hội mới ấm no, hạnh phúc. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Với tinh thần ấy, Đại hội IX của Đảng xác định lại một lần nữa vị trí, tầm quan trọng lâu dài và bức thiết của vấn đề dân chủ. Đại hội đã xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng nước ta trong thời kỳ mới là thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực, tệ quan liêu, tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng và chưa bị đẩy lùi. Tình trạng khiếu kiện, điểm nóng chính trị - xã hội còn xảy ra ở nhiều nơi làm giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, ảnh hưởng không tốt đến sản xuất và đời sống.

Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18 tháng 2 năm 1998 của Bộ Chính trị về việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 và Nghị định 71/1998/NĐ-CP ngày 08 tháng 09 năm 1998 của Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở và trong hoạt động của cơ quan không chỉ nói lên tính cấp thiết của việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân mà còn đặt ra yêu cầu đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, làm việc có năng suất, chất lượng, hiệu quả, không tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phiền hà, sách nhiễu nhân dân. Thực hiện chế độ dân chủ ở cơ sở để nhân dân bàn bạc và trực tiếp quyết định những công việc quan trọng, thiết thực, gắn bó với quyền lợi và nghĩa vụ của họ, đồng thời phát huy dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của chính quyền địa phương cơ sở.

Trong nhiều trường trung học phổ thông (THPT) ở Hà Nội, việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở theo Chỉ thị 30-CT/TW và Nghị định 71/1998 của Chính phủ, Quyết định 04 của Bộ GD&ĐT đã bước đầu tạo ra không khí dân chủ trong các trường học, góp phần vào việc dạy tốt, học tốt. Tuy nhiên cũng giống như nhiều cơ quan, đơn vị thuộc nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác, vẫn còn có trường học triển khai chậm hoặc triển khai hình thức. Có trường do thiếu dân chủ dẫn đến gây mất đoàn kết, khiếu kiện. Điều đó ảnh hưởng không tốt tới chất lượng dạy và học, đến uy tín của ngành giáo dục đối với xã hội, đối với nhân dân.

 

doc127 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1578 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong trường Trung học phổ thông trên địa bàn Hà Nội hiện nay - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay đòi hỏi phải phát huy được quyền làm chủ của nhân dân lao động, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, kiểm soát nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 6 năm 1997) khẳng định, khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Bác Hồ nói rất giản dị rằng dân chủ là dân là chủ, dân làm chủ, là dân tin, dân muốn nói, muốn bàn việc nước và làm việc nước. Thực hành dân chủ là nhằm phát huy sức sáng tạo, lực lượng vật chất và tinh thần của nhân dân trong công cuộc kiến tạo xã hội mới ấm no, hạnh phúc. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Với tinh thần ấy, Đại hội IX của Đảng xác định lại một lần nữa vị trí, tầm quan trọng lâu dài và bức thiết của vấn đề dân chủ. Đại hội đã xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng nước ta trong thời kỳ mới là thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực, tệ quan liêu, tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng và chưa bị đẩy lùi. Tình trạng khiếu kiện, điểm nóng chính trị - xã hội còn xảy ra ở nhiều nơi làm giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, ảnh hưởng không tốt đến sản xuất và đời sống. Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18 tháng 2 năm 1998 của Bộ Chính trị về việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 và Nghị định 71/1998/NĐ-CP ngày 08 tháng 09 năm 1998 của Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở và trong hoạt động của cơ quan không chỉ nói lên tính cấp thiết của việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân mà còn đặt ra yêu cầu đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, làm việc có năng suất, chất lượng, hiệu quả, không tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phiền hà, sách nhiễu nhân dân. Thực hiện chế độ dân chủ ở cơ sở để nhân dân bàn bạc và trực tiếp quyết định những công việc quan trọng, thiết thực, gắn bó với quyền lợi và nghĩa vụ của họ, đồng thời phát huy dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của chính quyền địa phương cơ sở. Trong nhiều trường trung học phổ thông (THPT) ở Hà Nội, việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở theo Chỉ thị 30-CT/TW và Nghị định 71/1998 của Chính phủ, Quyết định 04 của Bộ GD&ĐT đã bước đầu tạo ra không khí dân chủ trong các trường học, góp phần vào việc dạy tốt, học tốt. Tuy nhiên cũng giống như nhiều cơ quan, đơn vị thuộc nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác, vẫn còn có trường học triển khai chậm hoặc triển khai hình thức. Có trường do thiếu dân chủ dẫn đến gây mất đoàn kết, khiếu kiện. Điều đó ảnh hưởng không tốt tới chất lượng dạy và học, đến uy tín của ngành giáo dục đối với xã hội, đối với nhân dân. Thực hiện có hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy được quyền làm chủ của cán bộ giáo viên - công nhân viên (CBGV-CNV) trong các trường THPT ở Hà Nội, do đó, vẫn là một đòi hỏi, một yêu cầu cấp bách của sự nghiệp đổi mới trong ngành GD&ĐT ở Hà Nội. Vì vậy đề tài " Thực hiện Quy chế dõn chủ ở cơ sở trong trường trung học phổ thụng trờn địa bàn Hà Nội hiện nay - Thực trạng và giải phỏp " là nhằm góp sức vào việc nghiên cứu vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết đó và theo hướng nghiên cứu của chuyên ngành Chính trị học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Dân chủ, dân chủ ở cơ sở, Quy chế dân chủ ở cơ sở là vấn đề được nhiều nhà khoa học, những người làm công tác lý luận quan tâm ở những góc độ, khía cạnh khác nhau. Đề tài "Thực hiện Quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay" do TS. Nguyễn Văn Sáu - GS. Hồ Văn Thông đồng chủ trì. Có thể tìm hiểu khái quát về công trình nghiên cứu này qua cuốn sách cùng tên do Nxb Chính trị quốc gia ấn hành năm 2003. Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước về "Củng cố và tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới và phát triển của nước ta hiện nay" do PGS.TS Hoàng Chí Bảo - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm, nghiệm thu 2002. Đề tài "Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta" - TS. Nguyễn Quốc Phẩm chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. Đề tài "Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm, xu hướng và giải pháp" của TS. Vũ Hoàng Công - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002. "Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của PGS. TS Dương Xuân Ngọc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. Các công trình nghiên cứu kể trên đã đi sâu nghiên cứu về việc thực hiện Quy chế dân chủ gắn với tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở nói chung, ở cấp xã nói riêng. ở đấy, các tác giả cũng chỉ ra phương hướng và giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường. Tuy nhiên, ít có công trình nào nghiên cứu về thực hiện Quy chế dân chủ trong các cơ quan và nhất là chưa có công trình, bài viết nào đi sâu nghiên cứu Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trường THPT. Đề tài nghiên cứu này hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm cả về lý luận và thực tiễn vấn đề thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, cơ quan, mà ở đây là ở trường THPT trên địa bàn Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trường THPT ở Hà Nội hiện nay, luận văn xác định một số giải pháp và kiến nghị nhằm thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ trong trường học đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đổi mới của ngành GD&ĐT Hà Nội hiện nay. Nhiệm vụ: Phân tích một số lý luận về dân chủ, dân chủ ở cơ sở và dân chủ trong trường học làm sáng tỏ sự cần thiết phải thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trường THPT ở Hà Nội hiện nay. Phân tích thực trạng, nguyên nhân và những kinh nghiệm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trường THPT ở Hà Nội hiện nay, dự báo những vấn đề đặt ra trong xu hướng vận động của việc thực hiện Quy chế dân chủ trong trường học ở Hà Nội trong những năm tới. Nêu một số giải pháp và kiến nghị chủ yếu để thực hiện có hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trường THPT ở Hà Nội đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trường THPT ở Hà Nội qua khảo sát thực tế tại một số trường trong số 22 trường nội thành và 19 trường ngoại thành từ khi có Quy chế dân chủ ở cơ sở đến nay. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu Luận văn thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được tổng kết trong các văn kiện của Đảng; Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; Nghị định số 29/CP và Nghị định số 71/1998/NĐ-CP của Chính phủ về quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường và trong hoạt động của cơ quan; Quyết định của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) về việc thực hiện Quy chế dân chủ trong các nhà trường và các công trình nghiên cứu có liên quan. Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực trạng của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trường THPT ở Hà Nội những năm qua và hiện nay. Phương pháp nghiên cứu của luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận mácxít; kết hợp lý luận với thực tiễn, sử dụng các phương pháp thống kê, điều tra xã hội học, so sánh chính trị học v.v... 6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn Góp phần luận chứng căn cứ khoa học của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trường THPT. Nêu lên những yêu cầu mới về việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trường THPT ở Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. Nêu một số giải pháp, kiến nghị có tính khả thi nhằm thực hiện có hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trường THPT và trong ngành GD&ĐT Hà Nội. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể cung cấp thêm những cơ sở khoa học nhằm thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trường THPT ở Hà Nội nói riêng, ở các trường THPT và ngành giáo dục nói chung trong giai đoạn hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương, 6 tiết. Chương 1 Dân chủ trong trường học - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn hiện nay 1.1. Dân chủ, dân chủ cơ sở, dân chủ ở trường học - một số vấn đề lý luận 1.1.1. Khái niệm về dân chủ Thuật ngữ dân chủ xuất hiện từ thời cổ đại. Người đầu tiên đưa ra khái niệm dân chủ là nhà sử học, nhà chính trị học người Hy Lạp là Hêrôđốt (484 - 425 trước Công nguyên) khi ông xem xét các thể chế chính trị trong lịch sử. Theo ông, lịch sử đã xuất hiện ba kiểu thể chế chính trị: quân chủ, quý tộc và dân chủ, trong đó dân chủ là thể chế chính trị do nhân dân nắm quyền lực thông qua con đường bầu cử. Để chỉ một hiện thực dân chủ đã được thiết lập trên thực tế, trong ngôn ngữ đã xuất hiện thuật ngữ democratia, nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân (democratia là từ ghép của hai từ demos là nhân dân, cratos là quyền lực). Như vậy, với nguyên nghĩa của từ, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể của quyền lực, sử dụng quyền lực để tổ chức, quản lý xã hội, phát triển xã hội, phát triển con người. Với ý nghĩa đó, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội - nhất là xã hội có giai cấp. Ngay từ xã hội cộng sản nguyên thủy con người đã biết sống gắn bó với nhau thành cộng đồng để tồn tại và phát triển. Họ biết sử dụng sức mạnh của cộng đồng để thực hiện quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Một hình thức đặc biệt của dân chủ đã xuất hiện mà Ăngghen gọi là dân chủ quân sự hay dân chủ nguyên thủy. Thông qua Đại hội nhân dân, nhân dân đã bầu ra Hội đồng thị tộc và Thủ lĩnh quân sự, đồng thời quyết định những vấn đề quan trọng của thị tộc. Trong "nền dân chủ quân sự", quyền lực của nhân dân "thiêng liêng và bất khả xâm phạm, đều là một quyền lực tối cao do tự nhiên ban cho, quyền lực mà mỗi người phải phục tùng một cách vô điều kiện, trong tình cảm, tư tưởng, và hành động của mình" [33, tr. 149-150]. Sự phát triển của sản xuất và phân công lao động xã hội, phân hóa giai cấp và đấu tranh giai cấp đã làm cho xã hội cộng sản nguyên thủy tan rã, hình thành nên Nhà nước chiếm hữu nô lệ. Giai cấp chủ nô đã biến Nhà nước thành công cụ thực hiện quyền lực chính trị, phục vụ lợi ích của mình. Nhà nước chủ nô dân chủ là hình thức đầu tiên của chế độ dân chủ trong xã hội có giai cấp - dân chủ của giai cấp chủ nô. Theo Các Mác, trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gôta (1875), dân chủ tức là chính quyền của nhân dân. Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng Lênin cũng cho rằng chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái của Nhà nước. Nhà nước chủ nô là hình thái dân chủ đầu tiên trong lịch sử nhưng không phải giành cho nhân dân với tư cách là số đông mà là cho giai cấp chủ nô. Tuyệt đại bộ phận con người đã bị đẩy xuống hàng nô lệ trở thành "con vật biết nói". Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến cho cuộc đấu tranh giành quyền dân chủ trở thành một trong những nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp. Nền dân chủ sơ khai của xã hội loài người không được tiếp tục phát triển ở thời kỳ lịch sử tiếp theo mà lại bị thủ tiêu bởi chế độ chuyên chế phong kiến. Nhà nước phong kiến, độc đoán chuyên quyền câu kết với các thế lực của thần quyền đã gạt nhân dân lao động ra khỏi cơ chế quyền lực. Cuộc đấu tranh giành quyền lực - giành quyền làm chủ lại tiếp tục diễn ra gay gắt. Kết quả là chế độ chuyên chế phong kiến lại bị một trật tự dân chủ mới mạnh mẽ hơn phủ định - đó là chế độ dân chủ tư sản. Nền dân chủ tư sản mạnh mẽ vì nó dựa trên một nền kinh tế - xã hội phát triển hơn so với các chế độ trước đó. So với chế độ dân chủ sơ khai thời kỳ cổ đại, nền dân chủ tư sản đạt tới trình độ phát triển cao hơn. Theo đó, các quan niệm về dân chủ được bắt đầu từ khái niệm nhân dân là người chủ của quyền lực, có quyền và nghĩa vụ công dân được pháp luật quy định và bảo vệ. Dưới chế độ dân chủ tư sản địa vị xã hội của công dân được pháp luật thành văn và không thành văn quy định. Nhưng nền dân chủ tư sản trong thực chất còn rất nhiều hạn chế và không thoát khỏi sự mị dân nhằm bảo vệ quyền lợi cho giai cấp tư sản cầm quyền. "Trong Nhà nước tư sản dân chủ nhất, quần chúng bị áp bức đều luôn vấp phải các mâu thuẫn hiển nhiên giữa quyền bình đẳng hình thức do "chế độ dân chủ" của bọn tư bản ban bố với hàng nghìn hạn chế và mánh khóe dối trá thực sự, đang biến những người vô sản thành nô lệ làm thuê [26, tr. 36]. Sự hạn chế và tính chất mị dân của dân chủ tư sản thể hiện như thế nào? Dưới chế độ dân chủ tư sản cùng với sự tha hóa của con người là sự tha hóa về quyền lực, đặc biệt là quyền lực chính trị. Đúng như nhận xét của C.Mác về chế độ dân chủ tư sản rằng bầu cử trong chủ nghĩa tư bản là sự "tự do" của nhân dân lựa chọn những người thống trị mình. Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, Lênin có nhận xét tinh tế về bản chất chế độ dân chủ tư sản: "Chế độ đại nghị tư sản là chế độ kết hợp chế độ dân chủ (không phải cho nhân dân) với chế độ quan liêu (chống nhân dân)" [24, tr. 135]. Cơ sở bảo vệ lợi ích của nền dân chủ tư sản là bảo vệ, bênh vực và tạo mọi cơ hội cho giai cấp tư sản ngày càng giàu có. Điều đó được thể hiện tập trung trong các quy định pháp luật của Nhà nước tư sản. Chẳng hạn, các quy định về kiểm soát tài sản, nơi cư trú, quy định về vận động tài chính cho các cuộc bầu cử v.v... Nhà nước tư sản luôn luôn đề cao chức năng chính trị (thống trị giai cấp) khi hình thành bất kỳ một quy định pháp luật nào để thực thi trong xã hội. Trong xã hội tư bản mâu thuẫn giữa tính chất giai cấp của giai cấp tư sản cầm quyền với tính nhân dân (tính vô sản) của dân chủ càng trở nên gay gắt. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến cách mạng vô sản để giải quyết mâu thuẫn trên bằng việc thiết lập chế độ dân chủ XHCN. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: "Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải tự giành lấy chính quyền, phải tự mình vươn lên thành giai cấp dân tộc" [32, tr. 623-624], phải giành lấy dân chủ với ý nghĩa trực tiếp là giành lấy quyền lực Nhà nước (quyền làm chủ về chính trị), thiết lập Nhà nước dân chủ vô sản, chế độ dân chủ vô sản. Đó là "chế độ sẽ thi hành ngay lập tức những biện pháp để chặt tận gốc chế độ quan liêu và sẽ có thể thi hành những biện pháp ấy tới cùng, tới chỗ hoàn toàn phá hủy chế độ quan liêu, tới chỗ hoàn toàn xây dựng một chế độ dân chủ cho nhân dân" [24, tr. 135]. Với ý nghĩa đó, chế độ dân chủ vô sản, chế độ dân chủ XHCN đóng vai trò to lớn trong các cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và con người, trở thành mục tiêu và động lực của cuộc cách mạng vô sản. Chế độ dân chủ XHCN là chế độ chính trị mà ở đó những giá trị dân chủ, quyền lực của nhân dân được thể chế hóa thành pháp luật, thành những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, thành nguyên tắc mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội, các giá trị và chuẩn mực dân chủ chi phối hoạt động của mọi lĩnh vực xã hội. Nền dân chủ XHCN với tư cách là chế độ chính trị, đồng thời với tư cách là quyền lực của nhân dân sẽ từng bước hoàn thiện và phát huy vai trò to lớn trong tiến trình cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng mácxít - lêninnít. Sự thống nhất giữa dân chủ về chính trị - pháp lý và dân chủ trong kinh tế, làm chủ trong kinh tế và xã hội sẽ tạo điều kiện để dân chủ XHCN ra đời, tồn tại và phát triển vì lợi ích của nhân dân lao động. Theo Lênin: Không có chế độ dân chủ thì chủ nghĩa xã hội không thể thực hiện được theo hai ý nghĩa sau đây: (1) giai cấp vô sản không thể hoàn thành được cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nếu họ không được chuẩn bị cho cuộc cách mạng đó thông qua cuộc đấu tranh cho chế độ dân chủ; (2) chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi của mình và sẽ không dẫn được nhân loại đi đến chỗ thủ tiêu Nhà nước, nếu không thực hiện được đầy đủ chế độ dân chủ [26, tr. 167]. Sau thắng lợi của cách mạng Tháng mười Nga, Nhà nước Xô viết - chế độ dân chủ XHCN đầu tiên trên thế giới ra đời. Theo Lênin: "Chế độ Xô viết là chế độ dân chủ ở mức cao nhất cho công nhân và nông dân; đồng thời, nó có nghĩa là sự đoạn tuyệt với chế độ dân chủ tư sản và sự xuất hiện trong lịch sử thế giới một chế độ dân chủ kiểu mới, tức là chế độ dân chủ vô sản hay là chuyên chính vô sản" [28, tr. 184]. Chế độ dân chủ ở nước Nga Xô viết đã từng bước hiện thực hóa quyền dân chủ của nhân dân trên thực tế, hiện thực hóa sự bình đẳng của quần chúng trong việc tham gia vào tổ chức và hoạt động chính quyền Nhà nước - xác định hình thức, nội dung và nhiệm vụ của Nhà nước. ở Việt Nam, sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước công - nông đầu tiên ở Đông Nam á được thiết lập. Nhân dân ta từ địa vị nô lệ làm thuê đã trở thành người chủ của đất nước. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), nhân dân miền Bắc đã trở thành chủ thể của mọi quyền lực. Năm 1975 đất nước hoàn toàn thống nhất, nhân dân cả nước ta trở thành người chủ của mọi quyền lực trong đó có quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, hệ thống chính trị XHCN được thiết lập trên phạm vi cả nước. Từ đó đến nay nền dân chủ XHCN đã và đang được xây dựng phát huy vai trò ngày càng to lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Dân chủ với tư cách là khát vọng, là quyền tự nhiên của con người, trong đó có quyền sử dụng tất cả sức mạnh để thực hiện vai trò của người chủ và quyền làm chủ đã lần lượt được nhiều giai cấp thống trị trong lịch sử nhận thức và thể chế hóa thành nguyên tắc tổ chức và vận hành của Nhà nước cùng các thiết chế chính trị khác nhau. Tuy nhiên, trong các chế độ dân chủ đã từng tồn tại cho đến nay thì chỉ có chế độ dân chủ vô sản - dân chủ XHCN mới thực sự là chế độ dân chủ của đa số nhân dân trong xã hội, là chế độ dân chủ của dân, do dân và vì dân. 1.1.2. Khái niệm về dân chủ ở cơ sở Chủ nghĩa xã hội xác định mục tiêu xây dựng một nền dân chủ XHCN "cao gấp triệu lần dân chủ tư sản" (V.I. Lênin). Đó là một nền dân chủ toàn diện và triệt để trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội; tạo điều kiện cho mọi thành viên trong xã hội làm chủ bản thân, làm chủ xã hội và làm chủ tự nhiên. Đó là nhiệm vụ mà CNXH phải phấn đấu lâu dài mới thực hiện được. Trong chế độ dân chủ XHCN, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình vừa bằng hình thức gián tiếp thông qua bầu cử các cơ quan, tổ chức đại diện thực hiện quyền tổ chức và quản lý xã hội; vừa bằng hình thức trực tiếp, bảo đảm cho nhân dân có quyền tham gia quản lý xã hội một cách thiết thực và hiệu quả, trước hết là ở cơ sở theo phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Sức sống của nền dân chủ XHCN do Đảng cộng sản lãnh đạo dựa trên cơ sở thực hiện tốt và kết hợp chặt chẽ hai hình thức dân chủ nói trên, từ đó động viên sức mạnh của toàn dân tham gia vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ tổ quốc. Theo Lênin: Không phải chỉ tuyên truyền về dân chủ, tuyên bố sắc lệnh về dân chủ là đủ, không phải chỉ giao trách nhiệm thực hiện chế độ dân chủ cho "những người đại diện" nhân dân trong những cơ quan đại diện là đủ. Cần xây dựng ngay chế độ dân chủ bắt đầu từ cơ sở (tác giả luận văn nhấn mạnh) dựa vào sáng kiến của bản thân quần chúng, với sự tham gia thật sự của quần chúng vào tất cả đời sống của nhà nước, không có "sự giám sát" từ trên, không có quan lại [27, tr. 336-337]. Hiện nay, đề cao dân chủ trực tiếp là làm phong phú thêm hình thức thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động, là xuất phát từ bản chất của chế độ XHCN, một chế độ từng bước thực hiện trong thực tế mọi quyền lực thật sự thuộc về nhân dân. Trong nhiều trường hợp, dân chủ trực tiếp có những ưu điểm mà dân chủ gián tiếp không có được. Đó là khả năng thể hiện một cách khách quan ý chí, nguyện vọng của nhân dân không cần thông qua một hình thức trung gian nào. Theo Lênin "Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thử nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn v.v... đó là một trong những nhiệm vụ cấu thành của cuộc đấu tranh cách mạng xã hội" [24, tr.97] và thể hiện một cách ưu việt nhất quyền lực của nhân dân trong việc quản lý xã hội. Nền dân chủ XHCN ở nước ta được khẳng định trong đường lối của Đảng, Hiến pháp, Pháp luật của Nhà nước. Hệ thống chính quyền ở nước ta gồm 4 cấp: Trung ương, tỉnh (thành phố trực thuộc), huyện (thị, quận) và xã (phường) đều vận hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ - nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ XHCN. Hiệu quả của dân chủ thể hiện trực tiếp đến nhân dân là ở cấp cơ sở. Đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước có đi vào cuộc sống hay không tùy thuộc chủ yếu vào sự quán triệt và thực hiện như thế nào ở cấp cơ sở. Cơ sở xã, phường, cơ quan, doanh nghiệp v.v.. là nơi trực tiếp thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; là địa bàn nhân dân sinh sống, lao động, sản xuất, học tập và công tác; là nơi diễn ra các mối quan hệ nhiều mặt giữa các tầng lớp nhân dân với các cấp ủy Đảng và chính quyền, cán bộ, đảng viên, công chức điều hành và xử lý công việc hàng ngày. Nhân dân đòi hỏi được biết, được bàn và được tham gia giải quyết những vấn đề đặt ra ở cơ sở, đồng thời có yêu cầu kiểm tra, giám sát hoạt động hàng ngày của cấp ủy, chính quyền và cán bộ lãnh đạo. Điều đó có nghĩa là nhân dân có quyền làm chủ từ cơ sở và ở cơ sở. Nhận rõ bản chất của dân chủ XHCN, ngay từ khi chính quyền nhân dân mới được thành lập, Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền lực Nhà nước là của nhân dân. Theo đó, "Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia công việc quản lý của Nhà nước" [38, tr. 590]. Hồ Chí Minh thấy rất rõ rằng: "Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra" [35, tr. 295]. Người nhấn mạnh việc thực thi dân chủ ở từng địa phương, từng cơ sở, từng cán bộ, từng người dân, từng công việc cụ thể. Vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân phải làm cho dân hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong vị thế của người làm chủ. Theo Hồ Chí Minh, "chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người" [37, tr. 216]. Vì vậy, Người yêu cầu: "Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương" [35, tr. 698-699]. Khi dân được biết, được hiểu, được bàn bạc xây dựng kế hoạch của địa phương, cơ sở mình, họ sẽ dùng chính sức lao động của họ và những việc làm cụ thể một cách tự giác. Khi thi hành một công việc xong, theo Hồ Chí Minh, việc kiểm tra rút kinh nghiệm là vô cùng quan trọng và cần thiết giúp chúng ta thực hiện tốt những công việc khác. Dân kiểm tra cán bộ, cán bộ kiểm tra dân, dân và cán bộ cùng kiểm tra mọi hoạt động. "Lề lối làm việc phải dân chủ. Cấp trên phải thường xuyên kiểm tra cấp dưới. Cấp dưới phải phê bình cấp trên" [36, tr. 9]; "nhất là phê bình từ dưới lên" [37, tr. 157]. Dân kiểm tra là một nội dung quyền dân chủ của nhân dân về xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và các đoàn thể nhân dân thật sự vững mạnh, trong sạch; bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Việc đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu, cậy thế trái phép v.v... chỉ có thể thực hiện có hiệu quả nếu thật sự dựa vào sự kiểm tra, giám sát của quần chúng nhân dân. Ngày nay phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra là thể hiện tư tưởng đó của Hồ Chí Minh. Từ Đại hội VI, Đảng ta đã chủ trương thực hiện có nề nếp phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và chủ trương đó ngày càng được thực tế kiểm nghiệm tính cần thiết khách quan của nó. Để quá trình dân chủ hóa thực sự đi vào cuộc sống cần cụ thể hóa phương châm này, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 6/1997) khẳng định khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Theo tinh thần Nghị quyết đó, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị 30CT-TW tháng 2/1998 và Chính phủ đã ban hành Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cơ quan và doanh nghiệp nhà nước. Đó là những văn bản có tính chính trị và pháp lý làm cơ sở để mọi người, mọi tổ chức ở cơ sở xây dựng và thực hành dân chủ - làm chủ. Vấn đề dâ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van - chinh thuc.doc
  • docMuc luc.doc
Tài liệu liên quan