Luận văn Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đối với nông hộ ở tỉnh Quảng Nam

Từ khi nước ta chuyển nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế đã chuyển biến khởi sắc, trong đó hộ sản xuất được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ và là tế bào của nền kinh tế nông nghiệp nông thôn. Từ khi xác định vai trò kinh tế của hộ nông dân, phong trào nông dân sản xuất giỏi đang được mở rộng, nhiều hộ bỏ vốn đầu tư tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật để phát triển sản xuất, góp phần không nhỏ vào việc tăng trưởng và phát triển nền kinh tế nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng, từng bước nâng cao đời sống nông dân và bộ mặt nông thôn.

Để có một nền nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nền nông nghiệp nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng đang rất cần những nguồn vốn lớn, do đó tác động của ngân hàng nông nghiệp đối với nông nghiệp nói chung, hộ sản xuất nói riêng đang là một nhu cầu mang tính cấp bách. Với chức năng của mình, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) Quảng Nam đã xác định lấy nông nghiệp, nông thôn làm thị trường hoạt động chủ yếu. Hộ sản xuất là khách hàng cơ bản và chủ yếu của NHNo&PTNT Quảng Nam hiện tại và trong tương lai, trong đó phần nhiều là nông hộ (hộ sản xuất nông nghiệp). NHNo&PTNT Quảng Nam xác định rằng được phục vụ hộ sản xuất nông nghiệp, lực lượng sản xuất kinh doanh đông đảo, tạo ra một lượng sản phẩm hàng hoá lớn cho xã hội là nhiệm vụ có ý nghĩa cả về mặt kinh tế, chính trị và xã hội.

Trong cơ chế thị trường, phương châm của ngân hàng là “đi vay để cho vay”, lấy nhu cầu của nền kinh tế làm cơ sở đặt kế hoạch huy động vốn, quy mô cấp tín dụng và các dịch vụ khác theo hướng đa dạng hoá hình thức, cũng như phạm vi áp dụng đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế. Thực tiễn hoạt động của ngân hàng nói chung thường gặp những khó khăn và những mâu thuẫn: có lúc thiếu vốn không huy động được, ngược lại có lúc thừa vốn không cho vay được, trong khi hộ sản xuất vẫn có nhu cầu vay vốn nhất là hộ sản xuất nông nghiệp. Từ đó đòi hỏi phải nghiên cứu đầy đủ về lý luận ngân hàng đồng thời đánh giá đúng đắn về thực tiễn để xây dựng và tìm ra các giải pháp nhằm mở rộng các dịch vụ hoạt động ngân hàng cho phù hợp với cơ chế thị trường hiện nay

Từ lý do đó, tôi chọn đề tài: “Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đối với nông hộ ở tỉnh Quảng Nam” làm luận văn tốt nghiệp Cao học chuyên ngành Kinh tế-Chính trị.

 

doc102 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 963 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đối với nông hộ ở tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ khi nước ta chuyển nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế đã chuyển biến khởi sắc, trong đó hộ sản xuất được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ và là tế bào của nền kinh tế nông nghiệp nông thôn. Từ khi xác định vai trò kinh tế của hộ nông dân, phong trào nông dân sản xuất giỏi đang được mở rộng, nhiều hộ bỏ vốn đầu tư tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật để phát triển sản xuất, góp phần không nhỏ vào việc tăng trưởng và phát triển nền kinh tế nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng, từng bước nâng cao đời sống nông dân và bộ mặt nông thôn. Để có một nền nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nền nông nghiệp nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng đang rất cần những nguồn vốn lớn, do đó tác động của ngân hàng nông nghiệp đối với nông nghiệp nói chung, hộ sản xuất nói riêng đang là một nhu cầu mang tính cấp bách. Với chức năng của mình, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) Quảng Nam đã xác định lấy nông nghiệp, nông thôn làm thị trường hoạt động chủ yếu. Hộ sản xuất là khách hàng cơ bản và chủ yếu của NHNo&PTNT Quảng Nam hiện tại và trong tương lai, trong đó phần nhiều là nông hộ (hộ sản xuất nông nghiệp). NHNo&PTNT Quảng Nam xác định rằng được phục vụ hộ sản xuất nông nghiệp, lực lượng sản xuất kinh doanh đông đảo, tạo ra một lượng sản phẩm hàng hoá lớn cho xã hội là nhiệm vụ có ý nghĩa cả về mặt kinh tế, chính trị và xã hội. Trong cơ chế thị trường, phương châm của ngân hàng là “đi vay để cho vay”, lấy nhu cầu của nền kinh tế làm cơ sở đặt kế hoạch huy động vốn, quy mô cấp tín dụng và các dịch vụ khác theo hướng đa dạng hoá hình thức, cũng như phạm vi áp dụng đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế. Thực tiễn hoạt động của ngân hàng nói chung thường gặp những khó khăn và những mâu thuẫn: có lúc thiếu vốn không huy động được, ngược lại có lúc thừa vốn không cho vay được, trong khi hộ sản xuất vẫn có nhu cầu vay vốn nhất là hộ sản xuất nông nghiệp. Từ đó đòi hỏi phải nghiên cứu đầy đủ về lý luận ngân hàng đồng thời đánh giá đúng đắn về thực tiễn để xây dựng và tìm ra các giải pháp nhằm mở rộng các dịch vụ hoạt động ngân hàng cho phù hợp với cơ chế thị trường hiện nay Từ lý do đó, tôi chọn đề tài: “Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đối với nông hộ ở tỉnh Quảng Nam” làm luận văn tốt nghiệp Cao học chuyên ngành Kinh tế-Chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài - Lª §øc Thä (2005), Ho¹t ®éng tÝn dông cña hÖ thèng Ng©n hµng Th­¬ng m¹i nhµ n­íc ë N­íc ta hiÖn nay, LuËn ¸n tiÕn sÜ Kinh tÕ, Häc viÖn ChÝnh trÞ quèc gia Hå ChÝ Minh, Hµ Néi. - PGS.TS §ç TÊt Ngäc (2006), TÝn dông Ng©n hµng §èi kinh tÕ hé ë ViÖt Nam, Hµ Néi, Nxb Lao ®éng. - Vâ V¨n L©m (1999), §æi míi ho¹t ®éng tÝn dông Ng©n hµng N«ng nghiÖp, n«ng th«n trªn ®Þa bµn tØnh Qu¶ng Nam, LuËn ¸n th¹c sü Khoa häc kinh tÕ, Häc viÖn ChÝnh trÞ quèc gia Hå ChÝ Minh, Hµ Néi... Vấn đề này, trong một khía cạnh nào đó về hộ sản xuất đã có một số đề tài nghiên cứu, nhưng chưa sâu sắc về tín dụng của ngân hàng đối với nông hộ ở tỉnh Quảng Nam. Luận văn này đặt ra vấn đề tín dụng của NHNo&PTNT để phục vụ tốt nhất cho phát triển kinh tế hộ nông nghiệp ở nông thôn tỉnh Quảng Nam để kinh tế nông hộ có điều kiện vươn lên trở thành một yếu tố quan trọng tham gia vào nền kinh tế hàng hoá. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích: Đánh giá lại thực trạng tín dụng của NHNo&PTNT đến nông hộ trên địa bàn Quảng Nam thời gian qua. Từ đó đề xuất các giải pháp để nâng cao vai trò hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT Quảng Nam đến nông hộ trong thời gian đến. - Nhiệm vụ: Luận văn góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về tín dụng ngân hàng và vận dụng nó vào hoạt động kinh doanh ngân hàng, đồng thời góp phần thúc đẩy và hoàn thiện hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT Quảng Nam đối với nông hộ để phát triển sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất nông nghiệp, đáp ứng sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội theo tinh thần Nghị quyết của Đại hội Đảng các cấp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Tín dụng của NHNo&PTNT đối với nông hộ ở tỉnh Quảng Nam. - Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu về hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT Quảng Nam đối với nông hộ từ khi tái lập tỉnh Quảng Nam đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - VËn dông lý luËn cña chñ nghÜa M¸c-Lªnin, ®­êng lèi, quan ®iÓm cña §¶ng, chÝnh s¸ch, ph¸p luËt cña Nhµ n­íc ta vÒ ho¹t ®éng Ng©n hµng trong nÒn kinh tÕ thÞ tr­êng ®Þnh h­íng x· héi chñ nghÜa; ®ång thêi kÕ thõa c¸c vÊn ®Ò lý luËn chuyªn m«n chuyªn ngµnh Ng©n hµng ®Ó trªn c¬ së ®ã x¸c ®Þnh quan ®iÓm vµ gi¶i ph¸p më réng vµ n©ng cao chÊt l­îng dÞch vô Ng©n hµng n«ng nghiÖp & Ph¸t triÓn n«ng th«n ®èi víi n«ng hé ë tØnh Qu¶ng Nam. - Luận văn được nghiên cứu theo phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử; các phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp và phương pháp toán học. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn làm rõ hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT Quảng Nam đối với nông hộ. Đưa ra những đánh giá về thực trạng tín dụng của NHNo&PTNT Quảng Nam đối với nông hộ. Luận văn đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của tín dụng NHNo&PTNT đối với nông hộ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu gồm 3 chương, 10 tiết. Chương 1 Vai trß cña tÝn dông Ng©n hµng N«ng nghiÖp vµ Ph¸t triÓn N«ng th«n trong viÖc ph¸t triÓn n«ng hé 1.1. NÔNG HỘ VÀ NHU CẦU VỐN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN 1.1.1 Nông hộ và đặc trưng của nó 1.1.1.1. Khái niệm về nông hộ Ở nước ta, một đất nước từ xa xưa đến nay sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, kinh tế nông hộ ở nông thôn là bộ phận cấu thành không thể thiếu được của nền sản xuất nông nghiệp nước ta. Do vậy, trong các công trình nghiên cứu khoa học, các nhà khoa học đã tốn bao nhiêu công sức và thời gian để nghiên cứu về kinh tế nông hộ. Thường khi tiếp cận khái niệm kinh tế nông hộ, các nhà khoa học người ta bắt đầu từ khái niệm hộ, kinh tế hộ, kinh tế hộ nông nghiệp, kinh tế hộ nông dân hay kinh tế nông hộ . Khi nghiên cứu về khái niệm hộ, các tổ chức quốc tế và các nhà khoa học dưới góc độ khác nhau, đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về hộ. Tại cuộc hội thảo quốc tế lần thứ IV về quản lý nông trại ở Hà Lan năm 1980, các đại biểu nhất trí cho rằng: “hộ là đơn vị cơ bản của xã hội có liên quan đến sản xuất, tái sản xuất, đến tiêu dùng và các hoạt động xã hội khác” [14, tr.32]. Giáo sư T.G.MC.GEC, giám đốc viện nghiên cứu châu Á trường Đại học British Colombia nhận xét rằng: “Ở các nước châu Á hầu hết người ta quan niệm hộ là một nhóm người cùng chung huyết tộc, hay không cùng chung huyết tộc ở chung trong một mái nhà, ăn chung một mâm cơm và có chung một ngân quỹ”. Một ý kiến khác, ông Harice trường đại học tổng hợp Susex Luân Đôn cho rằng: “Hộ là đơn vị tự nhiên tự tạo nguồn lao động” [14, tr.32]. Qua những định nghĩa trên đây về hộ, có thể thấy rằng khái niệm hộ bao hàm những nội dung chủ yếu sau đây: - Là nhóm người cùng chung huyết tộc hoặc không cùng chung huyết tộc. - Có chung một ngân quỹ - Cùng tiến hành sản xuất chung - Cùng sống chung hoặc không cùng sống chung trong một mái nhà. Dưới góc độ kinh tế thì khái niệm hộ được xem là kinh tế hộ Nói đến nông hộ thì chúng ta có thể xem nó như là hộ sản xuất nông nghiệp hay là hộ nông dân. Nông hộ là những người có quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một khoản đất đai và trực tiếp quản lý, tổ chức sản xuất nông nghiệp, họ sống bằng nghề nông là chủ yếu. Khi nghiên cứu về kinh tế nông hộ (hộ nông dân) Frank Ellis định nghĩa: “nông dân là các hộ gia đình làm nông nghiệp có quyền kiếm kế sinh nhai trên những mảnh đất hiện có sử dụng sức lao động của gia đình để sản xuất” [14, tr.42]. Như vậy, có thể hiểu là nếu một chủ đất không trực tiếp quản lý và lao động sản xuất trên phần đất của mình thì không phải là nông hộ, hộ nông dân hay hộ sản xuất nông nghiệp, và nếu một người lao động sống bằng thu nhập từ lao động sản xuất nông nghiệp nhưng không làm chủ một mảnh đất nào mà chỉ làm thuê cũng không gọi là nông dân mà đó là “công nhân nông nghiệp”. Là người nông dân hay nông hộ, nhất thiết họ phải làm chủ tư liệu sản xuất, chủ yếu đó là ruộng đất và họ phải là người trực tiếp lao động và quản lý sản xuất trên phần đất ấy với tư cách là chủ sở hữu hay chủ sử dụng lâu dài. Người nông dân trong nông hộ của họ tạo thành một đơn vị kinh tế - xã hội cơ bản là hộ sản xuất nông nghiệp, xét về góc độ kinh tế thì đó là những đơn vị kinh tế tự chủ gọi là kinh tế hộ nông nghiệp. Kinh tế nông hộ hoạt động sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, hiểu nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm cả ngành trồng trọt, chăn nuôi, nghề rừng, nghề cá và có thêm một số hoạt động phi nông nghiệp khác nhưng sản xuất kinh doanh nông nghiệp là chủ yếu. Qua đó có thể tóm tắt: kinh tế nông hộ hay còn gọi kinh tế hộ nông nghiệp là hình thức kinh tế tự chủ trong kinh doanh nông nghiệp, dựa trên cơ sở sức lao động của gia đình là chính và quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng lâu dài phần ruộng đất mà họ canh tác cùng với các tư liệu sản xuất khác. Kinh tế nông hộ hay còn gọi là hộ sản xuất nông nghiệp là khái niệm bao quát chung bao gồm các loại hộ có trình độ sản xuất khác nhau như kinh tế nông hộ tự túc, tự cấp (tiểu nông), kinh tế nông hộ sản xuất hàng hoá (nông trại gia đình). Cũng cần phân biệt kinh tế nông hộ với tư cách là một đơn vị kinh tế tự chủ với kinh tế phụ gia đình, bởi lẽ có một thời kỳ ở nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa cũ thực hiện chủ trương tập thể hoá sản xuất nông nghiệp, tách người nông dân khỏi quyền làm chủ tư liệu sản xuất, xoá bỏ hình thức kinh tế hộ tự chủ. Hình bóng kinh tế nông hộ chỉ còn được người nông dân cố tình lưu giữ dưới dạng kinh tế phụ gia đình, xã viên hợp tác xã, nó không còn là đơn vị kinh tế tự chủ. Ở nước ta, tư khi đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp vai trò đơn vị kinh tế tự chủ của nông hộ dần được khẳng định, họ được trao quyền quản lý và sử dụng đất lâu dài. Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sự phát triển một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nông hộ đã từng bước chuyển biến từ kinh tế nông hộ sản xuất tự cấp tự túc (tiểu nông) lên kinh tế nông hộ sản xuất hàng hoá (hộ nông trại) hay nông trại gia đình. Người ta phân biệt kinh tế nông hộ tiểu nông với kinh tế nông hộ trang trại ở chỗ kinh tế nông hộ tiểu nông qui mô nhỏ, sản xuất tự cấp tự túc là chủ yếu, kinh tế nông hộ trang trại có quy mô lớn hơn và sản xuất chủ yếu để bán ra thị trường. Quá trình phát triển từ tiểu nông lên sản xuất hàng hoá của kinh tế nông hộ không phải là đột biến mà nó diễn ra dần dần từng bước.Việc phân loại nông hộ trang trại với nông hộ tiểu nông cũng mang tính ước lệ tương đối. Ở nước ta, có ý kiến cho rằng phải phân biệt ở quy mô diện tích canh tác, cũng có ý kiến khác nói rằng lấy giá trị nông sản hàng hoá, số đông các nhà khoa học cho rằng nông hộ trang trại phải có quy mô đất canh tác cao hơn quy mô trung bình mật độ trong vùng và số lượng nông sản hàng hoá phải đạt từ 70% trở lên. 1.1.1.2. Một số đặc trưng của kinh tế nông hộ Kinh tế nông hộ là đơn vị kinh tế cơ bản của nền nông nghiệp và hơn thế nữa chúng còn là hình thức tổ chức sản xuất phù hợp với đặt điểm tổ chức nông nghiệp bởi nó có những đặc trưng sau đây: - Kinh tế nông hộ có sự gắn bó chặt chẽ giữa quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. - Các thành viên của nông hộ đều là người trong một gia đình, có chung lợi ích, làm chung, ăn chung, cùng chia sẻ thuận lợi, khó khăn, thành công hay rủi ro trong cuộc sống và trong lao động sản xuất. Chính vì vậy, ý thức trách nhiệm của mỗi thành viên trong quá trình lao động sản xuất rất cao vì tự giác, họ có ý thức của người chủ đối với ruộng đất, với cây trồng, vật nuôi, với kết quả của quá trình sản xuất. Xét về sự phù hợp với đặc thù sinh học của sản xuất nông nghiệp thì nông hộ là đơn vị kinh tế cơ bản phù hợp nhất, khó có hình thức kinh tế nào có thể thay thế tốt hơn được. - Kinh tế nông hộ có khả năng tự điều chỉnh rất cao, do có sự thống nhất về lợi ích trong gia đình nên việc điều chỉnh giữa tích luỹ và tiêu dùng được thực hiện một cách cơ động, có khi dành cả một phần sản phẩm tất yếu để đầu tư và mở rộng sản xuất. Tính cơ động này làm cho kinh tế nông hộ có khả năng thích ứng với sự thay đổi đầu vào, đầu ra của quá trình sản xuất. Trong cơ chế thị trường, gặp điều kiện thuận lợi, hộ có khả năng mở rộng sản xuất để có nhiều nông sản hàng hoá và khi các điều kiện không thuận lợi, sản xuất gặp khó khăn, hộ có thể điều chỉnh cho phù hợp hoặc chuyển một phần sản phẩm tất yếu thành sản phẩm thặng dư, có thể lấy công làm lãi để bảo toàn vốn sản xuất, mặc dù có thể giảm tối đa nhu cầu tiêu dùng . Mặt khác, kinh tế nông hộ có quy mô sản xuất tương đối nhỏ, phù hợp với khả năng lao động và quản lý của gia đình, vì vậy nó là một đơn vị sản xuất gọn nhẹ, linh hoạt thích ứng với sản xuất nông nghiệp trong cơ chế thị trường. Đối với kinh tế nông hộ, có thể dễ dàng điều chỉnh cơ cấu sản xuất, cải tiến kỹ thuật, sản xuất theo nhu cầu của thị trường hơn là những đơn vị kinh tế có quy mô lớn như các nông trường, các xí nghiệp nông nghiệp, lâm trường… nông hộ có khả năng tận dụng thời gian nông nhàn để tham gia vào các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp để tăng thêm thu nhập.Vì vậy, nhìn chung tính hiệu quả của kinh tế nông hộ là tương đối cao, nó quy định sự tồn tại khách quan, lâu dài của hình thức kinh tế nông hộ trong sản xuất nông nghiệp. Là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ nhưng nó không hoạt động một cách riêng biệt, không phải chỉ là kinh tế cá thể, mà nó có khả năng tồn tại với nhiều hình thức sở hữu khác, có thể là thành viên của các tổ chức hợp tác hay liên kết với các tổ chức kinh tế Nhà nước để làm tăng năng lực của mình. Sản xuất của nông hộ luôn gắn liền với quy mô và đặc điểm môi trường sinh thái đặc biệt là khí hậu, thổ nhưỡng, địa hình, thuỷ văn. Nông hộ chưa thể khắc phục được những bất lợi của thiên nhiên đem đến cho mình. Do vậy, kết quả sản xuất kinh doanh của nông hộ thường hay gặp rủi ro. Sản phẩm tạo ra có thời hạn sử dụng ngắn, chủ yếu mang tính chất tươi sống, cho nên trong sản xuất nông nghiệp phải gắn liền với chế độ bảo quản, vận chuyển, chế biến thích hợp và phải có thị trường tiêu thụ. Ngoài ra, còn có một số đặc trưng khác như kinh tế nông hộ vừa là đơn vị sản xuất, vừa là một đơn vị tiêu dùng, kinh tế nông hộ là đơn vị tự nhiên tự tạo nguồn lao động… Do những đặc trưng như vậy mà nông hộ từ xa xưa cho đến nay, ở tất cả các nước luôn là đơn vị kinh tế cơ bản của nền sản xuất nông nghiệp. Từ một số đặc trưng nêu trên, chúng ta thấy nông hộ là một đơn vị kinh tế tự chủ, là một bộ phận hợp thành nền kinh tế nhiều thành phần, trong thời kỳ quá độ dưới sự lãnh đạo và quản lý của Nhà nước. Nông hộ được giao quyền sử dụng đất lâu dài, cơ cấu sản xuất đa dạng, quy mô sản xuất canh tác phù hợp nhiều ngành nghề dựa trên cơ sở lao động của gia đình. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các nông hộ thường có nhu cầu quan hệ hợp tác với nhau và với các thành phần kinh tế khác nhằm làm tăng thêm năng lực cho mình. Với Quảng Nam, nông hộ ở Quảng Nam chiếm 79,1% tổng số hộ trong toàn tỉnh, quy mô sản xuất, diện tích đất nông nghiệp bình quân hộ 2,2 ha, bình quân khẩu là 0,4 ha đất nông nghiệp. Phát triển sản xuất của nông hộ gắn liền với đặc điểm từng vùng và từng khu vực phù hợp với điều kiện tự nhiên từng vùng: ven biển, đồng bằng, trung du, miền núi… Quảng Nam đã xác định được vị trí và tầm quan trọng của nông hộ trong sản xuất nông nghiệp và các hoạt động văn hoá – xã hội khác ở nông thôn. Nhờ đó, phong trào hộ sản xuất giỏi ngày càng tăng, đã tích cực tiếp thu, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thay đổi phong tục, tập quán canh tác lạc hậu, từ đó đã góp phần to lớn vào dự phát triển nền kinh tế của tỉnh nói chung và kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng, làm cho đời sống nhân dân của tỉnh không ngừng được cải thiện. 1.1.2. Nhu cầu vốn với sự phát triển kinh tế nông hộ 1.1.2.1. Xu hướng phát triển kinh tế nông hộ ở Việt Nam nói chung và Quảng Nam nói riêng Từ khi xác định nông hộ là đơn vị kinh tế tự chủ, theo Luật đất đai (1993) và Luật đất đai sửa đổi (2003) nông hộ được giao các quyền sử dụng lâu dài về ruộng đất, đó là quyền được chuyển đổi, cho thuê, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, kinh tế nông hộ đã có bước chuyển biến mạnh mẽ theo hướng đi lên sản xuất hàng hoá. Giá trị hàng hoá trên một đơn vị diện tích ngày càng được nâng cao bằng cách tăng đầu tư, thâm canh, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để tăng năng suất cây trồng con vật nuôi, chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng lựa chọn những cây con có giá trị cao, làm cho sản xuất nông nghiệp từ thuần nông, độc canh cây lúa sang đa canh và kết hợp trồng trọt và phát triển chăn nuôi với các loại giống cây, con gia súc, gia cầm, thuỷ cầm, thuỷ sản có giá trị lớn hơn. Những vùng chuyên canh lúa cao sản, lúa có giá trị hàng hoá cũng phát triển mạnh. Cơ cấu kinh tế dần dần chuyển dịch theo hướng tỷ trọng ngành nghề phi nông nghiệp và dịch vụ tăng lên. Một số nông hộ từ thuần nông đã dần chuyển sang vừa làm nông nghiệp vừa làm dịch vụ để có thêm thu nhập, một số hộ có điều kiện chuyển hẳn sang làm ngành nghề phi nông nghiệp. Một số nông hộ có khả năng, có điều kiện vươn lên lập các trang trại để sản xuất hàng hoá lớn. Quan điểm đổi mới của Đại hội lần thứ VI, Đại hội lần thứ VII của Đảng đã thực sự đi vào cuộc sống. Hợp tác hoá vẫn là con đường tất yếu, khách quan để đưa nông nghiệp nước ta lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, kinh tế hợp tác vẫn là hình thức kinh tế phù hợp để chuyển nền nông nghiệp tiểu nông lên nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá. Hợp tác hoá hiện nay theo quan niệm mới hoàn toàn khác trước về tính chất, hình thức, quy mô và trình độ. Quan niệm mới đó được vạch ra từ Nghị quyết Trung ương VI (khoá VI) và được Luật hợp tác xã sửa đổi cụ thể hoá. Hợp tác có nhiều hình thức từ thấp đến cao, mọi tổ chức sản xuất do người lao động tự nguyện góp vốn, góp sức được quản lý dân chủ, đăng ký hoạt động theo pháp luật, không phân biệt quy mô, tính chất đếu có hợp tác xã. Quá trình vận động và phát triển nông nghiệp phải trên cơ sở lấy hoạt động nông hộ làm đơn vị kinh tế tự chủ, sản xuất kinh doanh theo hướng hợp tác hoá, đa dạng hoá các hình thức, đan xen với nhiều hình thức tổ chức sản xuất, nhiều hình thức hoạt động, nhiều trình độ liên kết, hợp tác với nhau. Từ đó, dần dần phát triển và ra đời những quy mô hợp tác xã mới đúng tính chất kinh tế hợp tác và đảm bảo nguyên tắc hợp tác mà Lênin đã nêu ra (tự nguyện, quản lý dân chủ, cùng có lợi và giúp đỡ lẫn nhau). Từ sự đổi mới về quan niệm đã dẫn đến đổi mới về hình thức tổ chức và nội dung hoạt động của hợp tác xã ở nông thôn và do đó cũng sẽ là cơ sở thuận lợi cho sự phát triển các hình thức kinh tế nông hộ đạt hiệu quả trong sản xuất cao hơn, góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn của đất nước. Việc phát triển các hình thức kinh tế hợp tác của nông thôn sẽ tạo động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội đi lên theo hướng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phù hợp với các quy luật khách quan ở nông thôn nước ta nói chung và Quảng Nam nói riêng trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Quan điểm đổi mới của Đảng ta là cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần, xu thế của kinh tế nông hộ trong tiến trình đổi mới là dần chuyển sang sản xuất hàng hoá. Cùng đồng hành với sự vận động của kinh tế thị trường, nền kinh tế nông hộ sẽ bị chi phối tác động bởi các quy luật của kinh tế thị trường là rất lớn. Bên cạnh đó khả năng về vốn đầu tư, về trình độ khoa học kỹ thuật, về thị trường… của kinh tế nông hộ là có hạn nên việc tham gia vào tổ chức hợp tác, kinh doanh, liên kết, các mô hình kinh tế trang trại… là cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế nông hộ. Có thể chúng ta nhận thấy tình hình chung của kinh tế nông hộ trong những năm đổi mới vận động theo một số xu hướng chủ yếu sau đây: Thứ nhất: đi lên sản xuất hàng hoá bằng con đường tham gia vào các tổ chức hợp tác, mặc dù hộ sản xuất nông nghiệp đã được công nhận về mặt pháp lý là một thực thể kinh tế độc lập, được giao quyền sử dụng đất lâu dài (tư liệu sản xuất) nhưng do thực tế phần lớn nông hộ có tiềm lực kinh tế, quy mô sản xuất còn nhỏ, mặt khác khả năng quản lý, trình độ kỹ thuật công nghệ, khả năng tiếp cận thị trường… còn nhiều hạn chế và một số vấn đề khác như thuỷ lợi, điện, giống cây con… cũng như các dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp khác tự mỗi nông hộ không thể giải quyết được mà cần phải có sự hợp lực, hợp tác lại mới có thể giải quyết được. Từ những đòi hỏi đó mà nhu cầu hợp tác, liên kết giữa các hộ nông dân ngày càng trở nên bức xúc. Quy mô hình thức các tổ chức hợp tác rất đa dạng từ tổ liên doanh, liên kết đến tổ chức kinh tế hợp tác xã ở nông thôn… Sự hình thành các hình thức hợp tác hoạt động đan xen cùng kinh tế nông hộ là một tất yếu trong quá trình phát triển vì các thành viên của kinh tế hợp tác là những nông hộ. Do vậy, cần khuyến khích các hình thức kinh tế hợp tác phát triển để giúp đỡ kinh tế nông hộ quá trình tổ chức sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, để kinh tế nông hộ thực sự là bộ phận không thể thiếu được trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiên đại hoá nông nghiệp nông thôn. Như vậy, xu hướng hợp tác có thể diễn ra với nhiều hình thức là do nhu cầu lợi ích thiết thực của kinh tế nông hộ, xu hướng phát triển này là thể hiện sự biến đổi về chất của kinh tế nông hộ, vì quá trình hợp tác đó tạo khả năng để nâng cao trình độ quản lý, mở rộng khả năng thâm nhập thị trường, tạo điều kiện để kinh tế nông hộ tổ chức sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn. Thứ hai: Xu hướng phát triển sản xuất hàng hóa bằng con đường mở rộng quy mô sản xuất theo hình thức phát triển trang trại. Trang trại là dạng đặc trưng của kinh tế nông hộ hàng hoá. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh có những hộ phát triển cơ sở sản xuất của mình lên thành những trang trại do có khả năng tích tụ, tập trung được các nguồn lực cần thiết, nên tự nó có thể phá bỏ hình thức hộ “tiểu nông” để trở thành hộ sản xuất hàng hoá. Xu hướng này phát triển mạnh ở những nơi có điều kiện về đất đai, rừng, biển, mặt nước để nuôi trồng thủy sản cũng như việc mở rộng chăn nuôi gia súc, trồng cây ăn quả…với quy mô ngày càng lớn. Đi lên sản xuất hàng hoá, kinh tế trang trại là bước tiến của quá trình phát triển của kinh tế nông hộ, là xu hướng tất yếu của nền sản xuất nông nghiệp ở nước ta hiện nay và là đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Xu hướng phát triển các hộ trang trại ở nông thôn là xu hướng tích cực, biểu hiện sự vận động phát triển về chất của kinh tế nông hộ, nó có tác động tích cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa. Sự ra đời nhiều nông hộ trang trại ở tất cả các vùng, miền, những nơi có điều kiện, sẽ tạo ra sức sản xuất mới ở nông thôn, là nhân tố kích thích tác động tích cực những nông hộ còn lại sẽ vươn lên cùng đồng hành. Ở Quảng Nam hiện nay có gần 1000 trang trại, trên hơn 3000 ha đất cải tạo theo hướng phát triển kinh tế vườn đồi, kinh tế trang trại, góp phần tích cực vào việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa. Mô hình kinh tế hợp tác cũng phát triển mạnh theo tinh thần Luật Hợp tác xã sửa đổi, nhất là trong sản xuất nông nghiệp. Đến nay toàn tỉnh có 48 tổ chức kinh tế hợp tác, trong số này nổi lên điển hình các HTX Duy Trinh, Duy Sơn, Duy Xuyên, HTX nông nghiệp Điện Phước I - Điện Bàn, HTX Đại Hiệp-Đại Lộc…cùng với việc phát triển các mô hình kinh tế hợp tác, kinh tế trang trại thì Quảng Nam còn có trên 297.660 nông hộ là những thành viên tích cực góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng trong những năm qua không ngừng phát triển và ổn định. 1.1.2.2. Nhu cầu vốn và sự phát triển kinh tế nông hộ Thị trường vốn ra đời xuất phát từ những đòi hỏi khách quan của nền sản xuất xã hội, đó là nhu cầu giao lưu vốn giữa các chủ thể kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu giao lưu vốn là một tất yếu khách quan bởi vì vào bất cứ thời điểm nào cũng đều xuất hiện trạng thái có những người có vốn nhưng chưa có nhu cầu sử dụng, đồng thời cũng có những nhu cầu về vốn nhưng bản thân lại không có vốn để trang trải các nhu cầu ấy. Trường hợp này thường xảy ra đối với kinh tế nông hộ. Đặc biệt, ở nước ta đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ một nền sản xuất nhỏ bé lạc hậu, việc cần một nhu cầu vốn nhất định để mua sắm tư liệu sản xuất và các chi phí cho sản xuất là điều rất cần thiết. Đối tượng để đầu tư vốn của nông hộ là rất đa dạng, phong phú bởi các hộ phần lớn ở nông thôn là sản xuất kinh doanh tổng hợp. Nhưng nhìn chung, chi phí cho các đối tượng cụ thể cho các ngành nghề đó là: - Ngà

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuanvan.DOC
  • docbia.doc
Tài liệu liên quan