Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và vận dụng trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam xác định là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam" [11, tr.83], trong đó có vấn đề cán bộ. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác cán bộ; Người coi "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc"[43, tr.269], và "Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém"[43, tr.240].

Kế thừa tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng công tác cán bộ, luôn quan tâm xây dựng, phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan, tổ chức của mình; coi đó là lực lượng then chốt bảo đảm cho sự thành công của sự nghiệp cách mạng. Vấn đề xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được thể hiện rõ trong nhiều văn kiện của Đảng và văn bản pháp luật của Nhà nước.

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) chỉ ra: "Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước vừa có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao vừa giác ngộ về chính trị, có tinh thần trách nhiệm, tận tụy, công tâm, vừa có đạo đức liêm khiết khi thi hành công vụ"[10, tr.132]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII (1997) coi: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng"[16, tr.66]. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) khẳng định:

Hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế cán bộ, công chức, coi trọng cả năng lực và đạo đức; bảo đảm tính nghiêm túc, trung thực trong thi tuyển cán bộ, công chức. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, về đường lối, chính sách, về kiến thức và kỹ năng quản lý hành chính nhà nước. Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức theo đúng chức năng, tiêu chuẩn. Định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức, kịp thời thay thế những cán bộ, công chức yếu kém và thoái hóa. Tăng cường cán bộ cho cơ sở. Có chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn [11, tr.135].

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) chỉ rõ: "Xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức thực sự là công bộc của nhân dân" [22, tr.125], và đưa ra giải pháp: "Đổi mới chính sách cán bộ và công tác quản lý cán bộ, xây dựng chế độ công vụ rõ ràng, minh bạch, đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực gắn với chế độ hưởng thụ thỏa đáng và công bằng" [22, tr.254]. Đặc biệt Bộ Chính trị khóa IX đã có Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-5-2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến 2020; trong đó có chỉ ra "xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức, cán bộ và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của cải cách hành chính nhà nước" và "ban hành luật về công chức, công vụ; xác định rõ cơ quan, công chức nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Xây dựng tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp cho từng loại cán bộ, công chức và hệ thống tiêu chuẩn đánh giá, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức".

Những văn kiện đó của Đảng là cơ sở chính trị để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật cụ thể, đáp ứng được yêu cầu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cán bộ, công chức. Để thực hiện các nghị quyết đó của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật như Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 (sửa đổi năm 2000 và năm 2003) cùng hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành, Quyết định 136/2001/QĐ-TTg ngày 17-9-2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 đến 2010. Những văn bản này tạo tiền đề pháp lý cho việc hình thành đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch vững mạnh, vừa hồng, vừa chuyên theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Từ những cơ sở chính trị và pháp lý kể trên, đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta ngày càng phát triển vững mạnh, có năng lực, trình độ và phẩm chất ngày càng được nâng cao, là công bộc của nhân dân, đáp ứng yêu cầu cơ bản của sự nghiệp đổi mới đất nước.

Mặc dù vậy, cũng như tình trạng chung của hệ thống pháp luật mà Nghị quyết 48 của Bộ Chính trị đã chỉ ra là: "Nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống"; các văn bản quy phạm pháp luật về cán bộ, công chức và hoạt động công vụ trong những năm qua cũng còn nhiều hạn chế, bất cập. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng "Không ít cán bộ, công chức vừa kém về đạo đức, phẩm chất, vừa yếu về năng lực, trình độ chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ" [11, tr.78], rơi vào căn bệnh mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra là "tự tư tự lợi". Do đó cần thiết phải nghiên cứu, luận chứng để xây dựng, ban hành, tiến tới hoàn thiện hơn pháp luật cán bộ, công chức, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc hình thành đội ngũ cán bộ, công chức vừa có phẩm chất đạo đức, vừa có trình độ năng lực, bảo đảm vừa hồng vừa chuyên, thực sự là công bộc của nhân dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

 

doc108 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1338 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và vận dụng trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam xác định là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam" [11, tr.83], trong đó có vấn đề cán bộ. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác cán bộ; Người coi "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc"[43, tr.269], và "Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém"[43, tr.240]. Kế thừa tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng công tác cán bộ, luôn quan tâm xây dựng, phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan, tổ chức của mình; coi đó là lực lượng then chốt bảo đảm cho sự thành công của sự nghiệp cách mạng. Vấn đề xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được thể hiện rõ trong nhiều văn kiện của đảng và văn bản pháp luật của Nhà nước. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) chỉ ra: "Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước vừa có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao vừa giác ngộ về chính trị, có tinh thần trách nhiệm, tận tụy, công tâm, vừa có đạo đức liêm khiết khi thi hành công vụ"[10, tr.132]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII (1997) coi: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng"[16, tr.66]. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) khẳng định: Hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế cán bộ, công chức, coi trọng cả năng lực và đạo đức; bảo đảm tính nghiêm túc, trung thực trong thi tuyển cán bộ, công chức. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, về đường lối, chính sách, về kiến thức và kỹ năng quản lý hành chính nhà nước. Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức theo đúng chức năng, tiêu chuẩn. Định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức, kịp thời thay thế những cán bộ, công chức yếu kém và thoái hóa. Tăng cường cán bộ cho cơ sở. Có chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn [11, tr.135]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) chỉ rõ: "Xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức thực sự là công bộc của nhân dân" [22, tr.125], và đưa ra giải pháp: "Đổi mới chính sách cán bộ và công tác quản lý cán bộ, xây dựng chế độ công vụ rõ ràng, minh bạch, đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực gắn với chế độ hưởng thụ thỏa đáng và công bằng" [22, tr.254]. Đặc biệt Bộ Chính trị khóa IX đã có Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-5-2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến 2020; trong đó có chỉ ra "xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức, cán bộ và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của cải cách hành chính nhà nước" và "ban hành luật về công chức, công vụ; xác định rõ cơ quan, công chức nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Xây dựng tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp cho từng loại cán bộ, công chức và hệ thống tiêu chuẩn đánh giá, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức". Những văn kiện đó của Đảng là cơ sở chính trị để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật cụ thể, đáp ứng được yêu cầu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cán bộ, công chức. Để thực hiện các nghị quyết đó của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật như pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 (sửa đổi năm 2000 và năm 2003) cùng hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành, quyết định 136/2001/QĐ-TTg ngày 17-9-2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 đến 2010... Những văn bản này tạo tiền đề pháp lý cho việc hình thành đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch vững mạnh, vừa hồng, vừa chuyên theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ những cơ sở chính trị và pháp lý kể trên, đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta ngày càng phát triển vững mạnh, có năng lực, trình độ và phẩm chất ngày càng được nâng cao, là công bộc của nhân dân, đáp ứng yêu cầu cơ bản của sự nghiệp đổi mới đất nước. Mặc dù vậy, cũng như tình trạng chung của hệ thống pháp luật mà Nghị quyết 48 của Bộ Chính trị đã chỉ ra là: "Nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống"; các văn bản quy phạm pháp luật về cán bộ, công chức và hoạt động công vụ trong những năm qua cũng còn nhiều hạn chế, bất cập. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng "Không ít cán bộ, công chức vừa kém về đạo đức, phẩm chất, vừa yếu về năng lực, trình độ chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ" [11, tr.78], rơi vào căn bệnh mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra là "tự tư tự lợi". Do đó cần thiết phải nghiên cứu, luận chứng để xây dựng, ban hành, tiến tới hoàn thiện hơn pháp luật cán bộ, công chức, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc hình thành đội ngũ cán bộ, công chức vừa có phẩm chất đạo đức, vừa có trình độ năng lực, bảo đảm vừa hồng vừa chuyên, thực sự là công bộc của nhân dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì những lý do trên, tác giả chọn nội dung "Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và vận dụng trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật, chuyên ngành Lịch sử và Lý luận Nhà nước và Pháp luật tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nâng cao phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn nghiệp vụ đội ngũ cán bộ, công chức là đòi hỏi khách quan cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Để bảo đảm điều đó trước hết phải tạo ra được cơ sở pháp lý bằng cách hoàn thiện chế định pháp luật cán bộ, công chức; Đảng và Nhà nước ta đã xác định cơ sở chính trị của tiến trình đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì thế trong những năm gần đây đã có nhiều đề tài nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và nghiên cứu vấn đề hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức. Liên quan tới nội dung nghiên cứu của luận văn này có một số công trình sau: - Tác phẩm "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" do các tác giả Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên), Nhà xuất bản (Nxb) Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. - Tác phẩm "Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ" của tác giả Bùi Đình Phong, Nxb Lao động, Hà Nội, 2002. - Tác phẩm "Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức" các tác giả Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. - Luận án tiến sĩ Luật "Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về công chức nhà nước ở nước ta", tác giả Nguyễn Văn Tâm, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1997. - Luận văn Thạc sĩ Luật "Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và vận dụng trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam", tác giả Trần Nghị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002. - Luận văn Thạc sĩ Luật "Hoàn thiện pháp luật về công chức hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay", tác giả Phạm Minh Triết, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003. Ngoài ra còn nhiều bài viết đăng trên các tạp chí khoa học hoặc nhiều công trình, luận văn, luận án khác có đề cập ít nhiều tới vấn đề này. * Đánh giá chung: Các công trình, bài viết khoa học trên đề cập tới vấn đề hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức hoặc trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, công chức và đưa ra những giải pháp cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên chưa có công trình nào đi sâu gắn kết tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ với việc vận dụng để hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ; trong đó làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của cán bộ, tiêu chuẩn cán bộ, việc lựa chọn, huấn luyện và sử dụng cán bộ, chính sách đối với cán bộ; từ đó làm cơ sở luận giải cho việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay. Bên cạnh đó luận văn cũng nghiên cứu lý luận chung về cán bộ và tư tưởng cán bộ để làm cơ sở cho việc tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ. 4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích của luận văn là phân tích, làm sáng tỏ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ, về tầm quan trọng của cán bộ, về tiêu chuẩn cán bộ, việc lựa chọn, huấn luyện và sử dụng cán bộ, chính sách đối với cán bộ, đề xuất quan điểm, giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay. * Luận văn có những nhiệm vụ sau đây: - Luận giải vấn đề lý luận chung về cán bộ và tư tưởng cán bộ. - Phân tích, làm rõ nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ. - Làm rõ nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ. - Lý giải yêu cầu khách quan của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam. - Đề xuất quan điểm và giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, về nhà nước và pháp luật cũng như những quan điểm về vấn đề này trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam. * Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít và các phương pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê. 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn - Luận văn trình bày một cách tương đối có hệ thống nguồn gốc ra đời và quá trình phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ; những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ, về tiêu chuẩn cán bộ, về lựa chọn, huấn luyện và sử dụng cán bộ, về chính sách đối với cán bộ. Thông qua những phân tích đó, luận văn góp phần khẳng định cùng với lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ đóng vai trò nền tảng trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay. - Luận văn chỉ ra yêu cầu khách quan của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay. - Luận văn đề xuất quan điểm và giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Từ kết quả mà luận văn đạt được, có thể thấy một số ý nghĩa sau đây: - Góp phần làm sáng tỏ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ. - Góp phần vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ để hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. - Có thể sử dụng luận văn làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng dạy về tư tưởng Hồ Chí Minh, về vấn đề hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay. 8. Kết cấu của luận văn Luận văn này, ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, được chia thành 2 chương, 6 tiết. Chương 1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ 1.1. Khái niệm và đặc điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ 1.1.1. Tư tưởng và tư tưởng về cán bộ * Khái niệm tư tưởng: Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, thì đời sống xã hội có hai loại nhu cầu cơ bản là nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần, trong đó lĩnh vực vật chất quyết định lĩnh vực tinh thần, nhưng lĩnh vực tinh thần có tính độc lập tương đối và tác động trở lại lĩnh vực vật chất. Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội được gọi là ý thức xã hội; còn ý thức xã hội bao gồm những quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống… của cộng đồng xã hội, nó nảy sinh từ chính tồn tại xã hội và phản ánh sự tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định. Như thế, tư tưởng chính là bộ phận của ý thức xã hội. Vậy tư tưởng là gì? Đã có nhiều định nghĩa về tư tưởng: + Theo cuốn Từ điển triết học do Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội ấn hành năm 1957 thì coi tư tưởng là sự phản ánh của hiện thực trong ý thức, là biểu hiện mối quan hệ của con người đối với thế giới xung quanh; + Theo cuốn Từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội ấn hành năm 1994 thì coi tư tưởng là những quan điểm, ý nghĩ phản ánh thế giới vật chất trong nhận thức của con người và thể hiện mặt này hay mặt khác của thế giới khách quan; + Theo cuốn Từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học ấn hành năm 2002, thì theo nghĩa hẹp, tư tưởng là suy nghĩ hoặc ý nghĩ; theo nghĩa rộng thì tư tưởng là những quan điểm và ý nghĩ chung của con người đối với hiện thực khách quan và đối với xã hội; + Theo cuốn Từ điển triết học do Nhà xuất bản Văn hóa- Thông tin, Hà Nội ấn hành năm 2002, thì coi tư tưởng là một hình thái phản ánh thế giới xung quanh con người, tổng hợp các quan niệm, khái niệm thành một thể duy nhất. Thuật ngữ tư tưởng được bắt nguồn từ tiếng Hy-lạp, idea, có nghĩa là hình thức. Về nguồn gốc: Do là bộ phận của ý thức xã hội, nên tư tưởng cũng được xuất phát từ việc con người tiến hành hoạt động sản xuất vật chất để bảo đảm nhu cầu sinh tồn của mình, từ đó và sau đó, xã hội mới thường xuyên diễn ra các quá trình sản xuất tinh thần, đúng như Mác viết: "Con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã, rồi mới có thể làm ra chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo,… được" [32, tr.500]. ý thức xã hội từ tự phát như tình cảm, mong ước,… dưới tác động trực tiếp của các điều kiện ấy, được lưu truyền, cùng với nhận thức tăng lên, con người dần tìm đến quy luật bên trong của tồn tại xã hội, nghiên cứu chiều sâu bản chất của các mối quan hệ xã hội, để đúc kết thành quan điểm, tư tưởng. Qua đó, cho thấy tư tưởng là tầm cao của ý thức xã hội, được hình thành một cách tự giác thông qua những hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy, tư tưởng là sự phản ánh điều kiện vật chất xã hội đương thời, nhưng cũng có sự kế thừa; nó xâu chuỗi, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa những yếu tố của tâm lý xã hội cùng với kế thừa từ những quan điểm, tư tưởng có trước. Về bản chất: Tư tưởng chính là biểu hiện khái quát mang tính lý luận của đời sống xã hội hiện thực, trong đó điều kiện sinh hoạt vật chất của con người là yếu tố quyết định. Nó chính là sản phẩm của sự phản ánh hiện thực thông qua lăng kính của nhà tư tưởng, mà theo Mác, tư tưởng luôn gắn với lợi ích và trong xã hội có giai cấp thì tư tưởng bao giờ cũng mang tính giai cấp: "Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của giai cấp thống trị" [31, tr.625]. Về cấu trúc: Do tư tưởng là sự phản ánh khái quát ở trình độ lý luận đối với hiện thực xã hội, mà hiện thực rất phong phú, đa dạng, nên tư tưởng cũng có cấu trúc phản ánh nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Về thực tế: Tư tưởng có vai trò rất to lớn. Do được hình thành một cách tự giác thông qua các hoạt động thực tiễn, được khái quát hóa mang tầm lý luận nên tư tưởng có thể trở thành vũ khí sắc bén trong đấu tranh chính trị xã hội giữa các giai cấp. Theo ăngghen, thực chất của đấu tranh tư tưởng chính là biểu hiện của cuộc đấu tranh giai cấp: "Tất cả mọi cuộc đấu tranh trong lịch sử, không kể nó diễn ra trên địa hạt chính trị, tôn giáo, triết học hay trên bất kỳ một địa hạt tư tưởng nào khác- thực ra chỉ là biểu hiện ít nhiều, rõ rệt của cuộc đấu tranh của các giai cấp trong xã hội" [33, tr.373]. Như vậy, tư tưởng chính là sự phản ánh khái quát, trừu tượng tồn tại xã hội của ý thức, trong đó có biểu hiện các lợi ích nhất định, mà khi được hệ thống hóa thành hệ tư tưởng, nó được biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau như chính trị, tôn giáo, pháp luật, văn hóa,… Từ những phân tích trên có thể khái quát: Tư tưởng là sự phản ánh hiện thực khách quan trong ý thức của con người trên cơ sở nghiên cứu, phân tích khái quát thành lý luận; nó là sự biểu hiện và phản ánh những lợi ích nhất định. * Tư tưởng về cán bộ: Về nguyên tắc, như một lẽ tự nhiên, bất kỳ Nhà nước nào muốn tồn tại và phát triển được phải tạo dựng cho mình một đội ngũ những con người nhất định trở thành chủ thể tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước nhằm duy trì sự tồn tại của Nhà nước mình. Vì thế tất nhiên sẽ hình thành tư tưởng lý luận về những con người đó. Với Nhà nước XHCN cũng không nằm ngoài quy luật trên. Để bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của mình, Nhà nước cũng cần một đội ngũ những con người nhất định là lực lượng tổ chức và thực hiện quyền lực của Nhà nước mình. Đến lượt mình, đội ngũ những con người ấy phải được hình thành, phát triển trên một nền tảng cơ sở lý luận nhất định; ấy là tư tưởng về cán bộ. Như trên đã trình bày, tư tưởng là sự phản ánh một cách khái quát và trừu tượng tồn tại xã hội của ý thức con người, thông qua những nghiên cứu, phân tích, tổng hợp của những nhà tư tưởng nhất định. Nếu ta gắn khái niệm tư tưởng với điều kiện xã hội có phân chia giai cấp, ở đó có Nhà nước, mọi giai cấp và các tầng lớp đều hướng tới quyền lực nhà nước, thì thấy điều tất yếu là các giai cấp tìm cách hình thành tư tưởng của mình về vấn đề Nhà nước, trong đó có tư tưởng về những con người là chủ thể nắm giữ, tổ chức và thực hiện trực tiếp quyền lực nhà nước. Với Nhà nước XHCN, thì đó là tư tưởng về cán bộ. Thực tế, tài liệu bàn về cán bộ và công tác cán bộ có khá nhiều. Tuy nhiên lại chưa có cuốn từ điển hay công trình khoa học pháp lý nào bàn cụ thể khái niệm tư tưởng về cán bộ. Vậy thực chất của tư tưởng về cán bộ là gì? ở nước ta, khái niệm cán bộ được hiểu theo nghĩa khá rộng. Trên thực tế thì cán bộ được coi là những công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Từ đó có thể thấy: "Cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức" [61, tr.18]. Từ thực tiễn đó, trên cơ sở quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin và khoa học pháp lý có thể khái quát: Tư tưởng về cán bộ là nhận thức lý luận về cán bộ và công tác cán bộ được hình thành bởi các nhà tư tưởng; được thể hiện thành các quan điểm, khái niệm về cán bộ và công tác cán bộ như vị trí,vai trò của cán bộ, tiêu chuẩn cán bộ, việc huấn luyện, đào tạo cán bộ, sử dụng, quản lý cán bộ,… Tư tưởng về cán bộ là bộ phận của ý thức hệ, nên luôn mang tính giai cấp, nó có vai trò rất quan trọng, là cơ sở chính trị để hình thành trên thực tế những tiêu chuẩn, những quy định mang tính luật hóa về cán bộ. Tư tưởng về cán bộ sẽ bị lịch sử bỏ qua nếu không được bổ sung, phát triển một cách kịp thời để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; nhưng sự phát triển đó cũng phải luôn mang tính kế thừa. Các khái niệm tư tưởng và tư tưởng về cán bộ đã đề cập, nghiên cứu kể trên là cơ sở lý luận để xác định khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ. 1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ * Tư tưởng Hồ Chí Minh: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một chủ đề rộng, một hệ thống lý luận phong phú và bao quát nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, được hình thành từ khá sớm; và có thể nói từ năm 1930, bằng việc tổ chức Hội nghị thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã là một nhà tư tưởng kiên định lập trường chủ nghĩa Mác-Lênin. Trên thực tế hơn 70 năm qua Đảng Cộng sản và Nhà nước ta rất coi trọng vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng đề cập từ rất sớm và từng bước bổ sung, hoàn thiện. Trong diễn văn khai mạc Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (1951), đồng chí Tôn Đức Thắng đã khẳng định: "Đường lối chính trị, nề nếp làm việc và đạo đức cách mạng của Đảng ta hiện nay là đường lối, tác phong, đạo đức của Hồ Chủ tịch" [13, tr.9]. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh được đề cập chính thức tại lễ kỷ niệm 70 năm ngày sinh của Người (19/5/1960), khi ấy đồng chí Trường Chinh viết: "Nhân dịp này, chúng ta hãy ôn lại tiểu sử và sự nghiệp của Hồ Chí Minh, tìm hiểu và học tập tư tưởng, đạo đức và tác phong của Người để phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân được tốt hơn" [4, tr.20]. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (1982) xác định: "Đảng phải đặc biệt coi trọng việc tổ chức học tập một cách có hệ thống tư tưởng, đạo đức, tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong toàn Đảng" [8, tr.61]. Còn Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH (1991) xác định: "Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động" [7, tr.21]. Nhưng phải tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh mới được chính thức làm rõ: Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân... Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta [11, tr.83]. Quan điểm trên của Đảng cho thấy tư tưởng Hồ Chí Minh không đơn giản chỉ là một tập hợp những ý tưởng hay suy nghĩ cụ thể của Hồ Chí Minh về những sự việc cụ thể trong những hoàn cảnh cụ thể, mà là một hệ thống, quan niệm về con đường cách mạng Việt Nam được hình thành trên cơ sở nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin; đó là "sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa, nhân nghĩa vào thực tiễn cách mạng Việt Nam với tinh hoa văn hóa nhân loại, được nâng lên tầm cao mới dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin" [23, tr.19]. Tư tưởng Hồ Chí Minh có vị trí hết sức quan trọng đối với tiến trình cách mạng Việt Nam, trở thành ngọn cờ chỉ lối thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua và tiếp tục soi sáng sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Nó mãi mãi soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Như vậy tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống những quan điểm sâu sắc, toàn diện về các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó có vấn đề cán bộ. * Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ: Trước hết cần khẳng định rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là bộ phận cấu thành hữu cơ của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, nằm trong mối quan hệ sâu sắc và mật thiết với các vấn đề quan trọng khác thuộc tư tưởng Hồ Chí Minh, là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về cán bộ vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, cùng với việc kế thừa tinh hoa truyền thống dân tộc, tạo thành hệ tư tưởng về cán bộ một cách toàn diện, đặc sắc Hồ Chí Minh. Để hiểu rõ thế nào là tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, cần thấy rằng Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của con người, đặc biệt là người cán bộ. Người từng nói: "Con người là vốn quý nhất, là lực lượng to lớn nhất" [48, tr.310], và Người luôn coi "Cán bộ là gốc của mọi công việc" [43, tr.269], "Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém" [43, tr.240]. Vì vậy nếu có được đội ngũ cán bộ tốt, ngang tầm là điều kiện tiên quyết để đưa sự nghiệp cách mạng đi tới thắng lợi; từ đó trong hoạt động cách mạng của mình, tư tưởng về cán bộ của Người được hình thành qua các công việc cụ thể của thực tiễn, từ việc phát hiện, lựa chọn, đánh giá cán bộ đến việc dùng cán bộ, từ việc huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đến việc khen thưởng, phê bình, kỷ luật cán bộ... Tất cả những yếu tố đó nằm trong mối liên hệ mật thiết, đúc kết nên sự hoàn chỉnh, phong phú của tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ. Ngay từ việc hiểu người cán bộ một cách cụ thể "Là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ, giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng" [43, tr.269], Hồ Chí Minh đã tạo ra một sự dễ hiểu, gần gũi về người cán bộ, nhưng cũng đồng thời đòi hỏi những nét cơ bản nhất về nhân cách, phẩm chất, năng lực của người c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van.doc
  • docMục lục.doc
Tài liệu liên quan