Luận văn Vận dụng lý luận hàng hoỏ sức lao động của C.Mác vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp ở tỉnh Quảng Bình

Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, nền kinh tế nước ta đã có nhiều khởi sắc đáng phấn khởi. Kinh tế phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng khá cao; cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH); đời sống của người lao động từng bước được cải thiện. nhân dân ngày càng tin tưởng hơn vào công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.

Các doanh nghiệp (DN) nước ta đã có những đóng góp quan trọng vào những thành quả đó. Tuy nhiên trong quá trình đổi mới và phát triển, các DN cũng đang vấp phải nhiều vấn đề khó khăn, lúng túng đòi hỏi phải có sự lý giải, hướng dẫn của lý luận để tháo gỡ những khó khăn đó trong thực tiễn. Một trong những vấn đề đó là việc vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động (HHSLĐ) của C.Mác như thế nào để đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN kinh doanh có lợi nhuận và đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao.

Kế thừa có sáng tạo những quan điểm của các nhà kinh tế tư sản cổ điển về lý luận lao động, C.Mác đã nghiên cứu, xây dựng lý luận HHSLĐ. Qua phân tích lý luận HHSLĐ, C.Mác đã vạch rõ bản chất, mục đích của nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa (TBCN). Đồng thời khám phá ra quy luật chi phối sự vận động, phát triển của CNTB.

Như vậy, ở đây sẽ nảy sinh vấn đề là, lý luận HHSLĐ được C.Mác xây dựng trong nền kinh tế thị trường TBCN, trong lúc đó chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), mà nền kinh tế này có sự khác biệt về chất so với nền kinh tế thị trường TBCN. Tuy nhiên, chúng ta có thể vận dụng lý luận HHSLĐ vào quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện nay, bởi vì nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH không qua chế độ TBCN. Và cũng vì thế, việc vận dụng lý luận HHSLĐ để đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN nâng cao sức cạnh tranh có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất sâu sắc đối với nước ta trong bối cảnh hiện nay.

Đối với tỉnh Quảng Bình, trong những năm gần đây, mặc dù các DN đã có đóng góp không nhỏ vào tốc độ tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, nhưng năng lực cạnh tranh của các DN ở Quảng Bình hiện còn rất thấp kém. Nhiều DN, nhất là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) kinh doanh thua lỗ triền miên, đời sống của người lao động còn nhiều khó khăn, vất vả. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, nhưng nguyên nhân quan trọng hàng đầu vẫn thuộc về nguồn nhân lực của các DN. Bởi do: "Cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, nhiều ngành kinh tế quan trọng còn thiếu công nhân kỹ thuật, thiếu lao động có tay nghề cao, lực lượng cán bộ khoa học, kỹ thuật được đào tạo giữa các ngành chưa cân đối, tình trạng sử dụng lao động chưa đúng ngành nghề đào tạo còn phổ biến " [43].

Vì vậy, việc vận dụng lý luận HHSLĐ của C.Mác nhằm đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN kinh doanh có lợi nhuận và đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao, góp phần đưa Quảng Bình "đến năm 2010 thoát nghèo, cùng cả nước ra khỏi tình trạng kém phát triển " [43] đang trở thành vấn đề cấp bách. Đó là lý do tác giả lựa chọn đề tài: " Vận dụng lý luận hàng hoỏ sức lao động của C.Mác vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp ở tỉnh Quảng Bỡnh " làm luận văn thạc sĩ Kinh tế, chuyên ngành Kinh tế chính trị.

 

doc116 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1073 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Vận dụng lý luận hàng hoỏ sức lao động của C.Mác vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp ở tỉnh Quảng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, nền kinh tế nước ta đã có nhiều khởi sắc đáng phấn khởi. Kinh tế phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng khá cao; cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH); đời sống của người lao động từng bước được cải thiện... nhân dân ngày càng tin tưởng hơn vào công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Các doanh nghiệp (DN) nước ta đã có những đóng góp quan trọng vào những thành quả đó. Tuy nhiên trong quá trình đổi mới và phát triển, các DN cũng đang vấp phải nhiều vấn đề khó khăn, lúng túng đòi hỏi phải có sự lý giải, hướng dẫn của lý luận để tháo gỡ những khó khăn đó trong thực tiễn. Một trong những vấn đề đó là việc vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động (HHSLĐ) của C.Mác như thế nào để đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN kinh doanh có lợi nhuận và đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Kế thừa có sáng tạo những quan điểm của các nhà kinh tế tư sản cổ điển về lý luận lao động, C.Mác đã nghiên cứu, xây dựng lý luận HHSLĐ. Qua phân tích lý luận HHSLĐ, C.Mác đã vạch rõ bản chất, mục đích của nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa (TBCN). Đồng thời khám phá ra quy luật chi phối sự vận động, phát triển của CNTB. Như vậy, ở đây sẽ nảy sinh vấn đề là, lý luận HHSLĐ được C.Mác xây dựng trong nền kinh tế thị trường TBCN, trong lúc đó chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), mà nền kinh tế này có sự khác biệt về chất so với nền kinh tế thị trường TBCN. Tuy nhiên, chúng ta có thể vận dụng lý luận HHSLĐ vào quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện nay, bởi vì nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH không qua chế độ TBCN... Và cũng vì thế, việc vận dụng lý luận HHSLĐ để đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN nâng cao sức cạnh tranh có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất sâu sắc đối với nước ta trong bối cảnh hiện nay. Đối với tỉnh Quảng Bình, trong những năm gần đây, mặc dù các DN đã có đóng góp không nhỏ vào tốc độ tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, nhưng năng lực cạnh tranh của các DN ở Quảng Bình hiện còn rất thấp kém. Nhiều DN, nhất là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) kinh doanh thua lỗ triền miên, đời sống của người lao động còn nhiều khó khăn, vất vả. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, nhưng nguyên nhân quan trọng hàng đầu vẫn thuộc về nguồn nhân lực của các DN. Bởi do: "Cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, nhiều ngành kinh tế quan trọng còn thiếu công nhân kỹ thuật, thiếu lao động có tay nghề cao, lực lượng cán bộ khoa học, kỹ thuật được đào tạo giữa các ngành chưa cân đối, tình trạng sử dụng lao động chưa đúng ngành nghề đào tạo còn phổ biến " [43]. Vì vậy, việc vận dụng lý luận HHSLĐ của C.Mác nhằm đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN kinh doanh có lợi nhuận và đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao, góp phần đưa Quảng Bình "đến năm 2010 thoát nghèo, cùng cả nước ra khỏi tình trạng kém phát triển " [43] đang trở thành vấn đề cấp bách. Đó là lý do tác giả lựa chọn đề tài: " Vận dụng lý luận hàng hoỏ sức lao động của C.Mỏc vào việc đảm bảo nguồn nhõn lực cho cỏc doanh nghiệp ở tỉnh Quảng Bỡnh " làm luận văn thạc sĩ Kinh tế, chuyên ngành Kinh tế chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Từ khi Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN đến nay, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế thị trường đã được nhận thức đầy đủ và đúng đắn hơn. Kinh tế thị trường, trong đó HH SLĐ là sản phẩm của lịch sử, tồn tại một cách khách quan trong quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội, mà ngày nay chúng ta thường gọi là nền kinh tế thị trường TBCN và kinh tế thị trường XHCN. Liên quan đến nội dung này đã có nhiều bài viết, như: - Nguyễn Quang Hiển (1995), Thị trường sức lao động - Thực trạng và giải pháp, Nxb Thống kê, Hà Nội. - Lê Minh Vụ (1993), "Suy nghĩ về hàng hoá sức lao động trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam", Tạp chí Quốc phòng toàn dân, (số 9), tr.29-32. - Đỗ Hoàng (1990), "Trong thành phần kinh tế XHCN sức lao động có là hàng hoá không?", Tạp chí Giáo dục lý luận, (số 7), tr.33-37. - GS,TS Đỗ Thế Tùng, Một số điểm cơ bản trong lý luận của C.Mác về tiền công và việc vận dụng vào cải cách tiền lương ở nước ta hiện nay, (Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh). - Tống Văn Đường (1993), "Tiền công trong thị trường sức lao động hiện nay", Tạp chí Lao động và xã hội, (số 2), tr.13-14. - Phạm Văn Chiến (1990), "Bàn về điều kiện xuất hiện hàng hoá sức lao động", Tạp chí Giáo dục lý luận, (số 7), tr.33-34. GS,TS Đỗ Thế Tùng, Bàn về cái gọi là "Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam làm kinh tế tư nhân", (Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) Bên cạnh đó, đã có nhiều công trình nghiên cứu một cách toàn diện về yếu tố con người và vai trò của nguồn nhân lực ở tầm vĩ mô đối với sự phát triển kinh tế, xã hội. Nhưng các bài viết vận dụng lý luận hàng hoá SLĐ vào việc đảm bảo nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực cho các DN nói riêng thì rất hạn hữu. ở tỉnh Quảng Bình, một số ngành, đơn vị đã có các đề án liên quan đến phát triển nguồn nhân lực phục vụ công tác chuyên ngành, như: Đề án đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giáo viên; Đề án thành lập trường Cao đẳng kinh tế - kỹ thuật; Đề án giáo dục miền núi; Đề án phổ cập THCS của Sở Giáo dục- Đào tạo; Quy hoạch mạng lưới đào tạo và thành lập trường dạy nghề của Sở Lao động- Thương binh và Xã hội; Đề án khảo sát thực trạng và các giải pháp xây dựng đội ngũ công chức tỉnh Quảng Bình của Sở Nội vụ... Tuy nhiên, chưa có đề tài nào đề cập đến nội dung Vận dụng lý luận HH SLĐ của C.Mác vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp ở tỉnh Quảng Bình. Do vậy, tác giả muốn nghiên cứu vấn đề này như một đề tài có tính chất khám phá, chuyên sâu và có hệ thống. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận cơ bản về hàng hoá SLĐ có liên quan của C.Mác và thực trạng nguồn nhân lực của các DN ở tỉnh Quảng Bình, luận văn đề xuất các giải pháp cơ bản vận dụng lý luận này vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và xu thế toàn cầu hoá, phát triển nền kinh tế tri thức. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục tiêu trên, nhiệm vụ của luận văn là: - Phân tích những nội dung cơ bản có liên quan và ý nghĩa của lý luận HHSLĐ của C.Mác đối với việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. - Phân tích thực trạng nguồn nhân lực của các DN ở tỉnh Quảng Bình trong thời gian qua (từ 2001- 2005 năm) cũng như vai trò của nó và những vấn đề cấp bách đặt ra. - Đề xuất các giải pháp cơ bản vận dụng ý luận HHSLĐ của C.Mác vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN ở tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới. 4. Đối tượng và và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu lý luận HHSLĐ của C.Mác có liên quan đến việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nói chung và vận dụng lý luận này vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN của tỉnh Quảng Bình nói riêng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về lý luận: Luận văn tập trung tìm hiểu những nội dung có liên quan cần vận dụng trong lý luận HHSLĐ của C.Mác phù hợp với việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN ở Quảng Bình kinh doanh có lợi nhuận và đạt hiệu quả kinh tế- xã hội cao. Về thực tiễn: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực ở 10 DNNN (trong tổng số 27 DNNN), 20 công ty cổ phần(trong tổng số 87 công ty cổ phần) và 20 DN tư nhân (trong tổng số 786 DN tư nhân) ở thành phố Đồng Hới và các huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong thời gian từ 2001-2005. Từ đó, làm rõ những vấn đề còn hạn chế của nguồn nhân lực ở các DN này, qua đó xác định những quan điểm, giải pháp cơ bản để tháo gỡ dựa trên cơ sở vận dụng lý luận HHSLĐ của C.Mác. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn được trình bày trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện trong các văn kiện Đại hội, nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương và nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ XIV... Ngoài ra luận văn còn sử dụng các tài liệu tham khảo có liên quan đến đề tài đã được công bố trên các sách, báo, tạp chí. - Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, nhưng chủ yếu là phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp logic kết hợp lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp phân tích đối chiếu...để từ đó làm rõ thực trạng nguồn nhân lực của các DN ở tỉnh Quảng Bình, qua đó xác định sự cần thiết cũng như giải pháp vận dụng lý luận HHSLĐ của C.Mác vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. 6. Đóng góp của luận văn Về lý luận: Luận văn góp phần làm rõ thêm những nội dung cần vận dụng trong lý luận HHLĐ của C.Mác đối với việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN. Cũng qua đó góp phần lý giải một số vấn đề quan hệ giữa lý luận và thực tiễn đang đặt ra trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Về thực tiễn: Luận văn đáp ứng yêu cầu đòi hỏi cấp bách về việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN ở tỉnh Quảng Bình hiện nay nhằm góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN ở địa phương trong tình hình mới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết: Chương 1 Những nội dung cơ bản cần vận dụng trong lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác và những vấn đề đặt ra 1.1. Những nội dung cơ bản cần vận dụng trong lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác nhằm đảm bảo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp Trước C.Mác chưa có một nhà kinh tế học nào có sự phân rõ ranh giới giữa hai phạm trù " lao động và sức lao động". Nhờ có quan điểm đúng đắn về lao động và SLĐ, C.Mác đã trở thành người đầu tiên trình bày một cách khoa học lý luận về HHSLĐ. Ông đã từng bước hoàn thiện lý luận này qua nhiều tác phẩm khác nhau và lý luận này đạt đến đỉnh cao trong bộ Tư bản. Trong tác phẩm này, C.Mác đã thể hiện quan điểm của mình: "người công nhân bán sức lao động" Ông viết: "Tư bản chỉ phát sinh ở nơi nào mà người chủ những tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt tìm thấy được người lao động tự do với tư cách là người bán sức lao động của mình ở trên thị trường. Bây giờ, chúng ta phải nghiên cứu một cách tường tận hơn thứ hàng hoá đặc biệt, tức là sức lao động" [23, tr.255]. Lý luận HHSLĐ là cơ sở giúp C.Mác xây dựng và phát triển học thuyết giá trị thặng dư, một học thuyết vạch rõ nguồn gốc và bản chất bóc lột của CNTB và chứng minh sứ mạng lịch sử của giai cấp công nhân đối với tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vẫn tuân theo những quy luật chung của nền kinh tế thị trường, do đó một bộ phận SLĐ trở thành hàng hoá, SLĐ trở thành HHSLĐ. Từ góc độ thực tiễn nguồn nhân lực của các DN ở Quảng Bình, với khả năng nhất định của mình, tác giả luận văn sẽ tập trung tìm hiểu một số nội dung có liên quan của lý luận HHSLĐ nhằm đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN ở địa phương trong tình hình mới. 1.1.1. Điều kiện xuất hiện hàng hoá sức lao động Theo C.Mác: Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể của một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó. Như vậy, SLĐ bao gồm cả lao động cơ bắp và lao động trí óc, cả thể lực và trí lực chứ không chỉ có lao động thể lực. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen thì: "Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống... và có thể phân biệt con người với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sản xuất của mình... như thế là con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình" [26, tr.29]. Như vậy SLĐ tồn tại trong cơ thể sống của người lao động, là nhân tố cơ bản và đầu tiên trong mọi hoạt động xã hội. Tuy nhiên, do bản chất kinh tế, chính trị, xã hội ở mỗi chế độ xã hội khác nhau nên việc đánh giá, quan tâm đến nhân tố con người cũng rất khác nhau. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, từ khi có giai cấp, việc quan tâm đến nhân tố con người từ đời sống vật chất, tinh thần, đến giáo dục, đào tạo, luôn gắn chặt với quá trình "sử dụng sức lao động của người khác theo một quan hệ người bóc lột người để tiến hành sản xuất". Nhưng xuất phát từ tiền đề lịch sử nào để chủ sở hữu TLSX có thể sử dụng SLĐ của người khác? Theo C.Mác "Nếu công nhân dùng toàn bộ thời gian của mình để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho bản thân và cho nòi giống của mình, thì anh ta không còn thời gian nào để lao động không công cho người khác. Nếu không có một năng suất nào đó của lao động thì sẽ không có một thời gian rỗi như thế cho người lao động; nếu không có một thời gian dôi ra như thế, thì cũng không có nhà tư bản, vả lại không có nhà chủ nô, nam tước phong kiến, nói tóm lại không có giai cấp đại sở hữu" [22, tr.722]. Trong quá trình sản xuất vật chất, năng suất lao động tăng lên do sự phát triển của phân công lao động và lực lượng sản xuất (LLSX). Và phân công lao động càng phát triển thì năng suất lao động càng tăng. Mối quan hệ biện chứng này đã tạo cơ sở cho yêu cầu khách quan và tạo điều kiện vật chất cho phép sử dụng thêm nhiều SLĐ của người khác. Tuy nhiên, quan hệ người bóc lột người xuất hiện trong quá trình sử dụng SLĐ cần phải có sự xuất hiện của chế độ tư hữu về TLSX. Bởi vì theo C.Mác "Người nào không có sở hữu nào khác ngoài sức lao động của mình ra trong mọi trạng thái xã hội và văn hoá, đều sẽ nhất định làm nô lệ cho những kẻ khác nắm trong tay những điều kiện vật chất của lao động" [27, tr.27]. Với con người "trần như nhộng", chỉ có SLĐ và không có TLSX ở trong tay thì chỉ có thể lao động và do đó chỉ sinh sống khi được những kẻ đại chủ sở hữu TLSX bóc lột lao động thặng dư. Quyền sở hữu SLĐ và quyền sử dụng SLĐ có sự khác nhau cả về hai mặt định tính và định lượng. Quyền sở hữu SLĐ cho phép người lao động tự mình quyết định cuộc đời mình qua việc xác định phương hướng, cách thức sử dụng SLĐ của mình như thế nào. Còn quyền sử dụng SLĐ cho phép người lao động tìm ra cách thức kết hợp SLĐ với TLSX để vận dụng SLĐ bản thân trong quá trình sản xuất tạo ra giá trị sử dụng. Theo C.Mác, SLĐ tồn tại trong cơ thể sống của người lao động và chỉ trở thành hàng hoá khi chính bản thân người có SLĐ đem bán trên thị trường. Thì người đó phải có khả năng chi phối được SLĐ đó, do đó "người ấy phải là kẻ tự do sở hữu năng lực lao động của mình [21, tr.251]. Và như vậy, về mặt hình thức pháp lý người sở hữu SLĐ mới được bình đẳng với người sở hữu tư bản" thuận mua vừa bán". "Như vậy, người ta có thể nói đến một cơ sở tự nhiên của giá trị thặng dư nhưng với một ý nghĩa hết sức chung là: Trong tự nhiên không hề có một trở ngại tuyệt đối nào người này đem số lao động cần thiết cho sự sinh tồn của bản thân mình trút bỏ khỏi vai mình và đặt lên vai người khác. Cũng giống như trong tự nhiên không có một trở ngại tuyệt đối nào ngăn cản thịt của người này trở thành thức ăn của người khác..." [28, tr.1]. Trong mọi xã hội, lao động đều là yếu tố cơ bản của sản xuất, nhưng SLĐ chỉ trở thành hàng hoá khi có hai điều kiện sau: Một là: Người chủ SLĐ "phải có khả năng chi phối được sức lao động ấy, do đó người ấy phải là kẻ tự do sở hữu năng lực lao động của mình, thân thể của mình. Anh ta và người chủ tiền gặp nhau trên thị trường và quan hệ với nhau với tư cách là những người chủ hàng hoá bình đẳng với nhau..."; "Muốn duy trì quan hệ ấy, người sở hữu sức lao động bao giờ cũng chỉ bán sức lao động đó trong một thời gian nhất định thôi, bởi vì anh ta bán đứt hẳn toàn bộ sức lao động ấy trong một lần thì... anh ta trở thành người nô lệ, từ chỗ là người chủ hàng hoá anh ta sẽ trở thành một hàng hoá" [29, tr.252]. Như vậy, người công nhân làm thuê chỉ bán quyền sử dụng SLĐ trong một thời hạn nhất định, chứ không bán quyền sở hữu SLĐ của mình, SLĐ của người công nhân là hàng hoá chứ không phải bản thân người công nhân là hàng hoá. Trước sau, người công nhân vẫn là chủ sở hữu hàng hoá - SLĐ của mình, do đó "khi bán sức lao động, anh ta vẫn không từ bỏ quyền sở hữu về sức lao động ấy" [30, tr.254]. Hai là: "Người chủ sức lao động phải không còn có khả năng bán những hàng hoá trong đó lao động của anh ta được vật hoá, mà trái lại, anh ta buộc phải đem bán, với tư cách hàng hoá, chính ngay cái sức lao động chỉ tồn tại ở trong cơ thể sống của anh thôi" [29, tr.252]. Người công nhân muốn bán những hàng hoá khác với SLĐ của mình thì người chủ SLĐ phải có TLSX, tư liệu sinh hoạt để tự kết hợp với SLĐ của mình nhằm làm ra những hàng hoá khác ấy. Nếu họ hoàn toàn không có những vật cần thiết ấy để thực hiện SLĐ của mình, nói cách khác là trần như nhộng, thì phải bán chính SLĐ ấy. Tuy nhiên, nếu chỉ có TLSX và tư liệu sinh hoạt nhưng chỉ đủ để thực hiện SLĐ của mình trong một ngày hay trong một năm chẳng hạn, thì trong những ngày còn lại nếu muốn có thu nhập, tất yếu phải đi làm thuê, tức là phải đi bán SLĐ, mặc dù "không trần như nhộng"... Trong thời đại ngày nay, cùng với xu thế phát triển của nền kinh tế tri thức, hai điều kiện cho sự ra đời của HHSLĐ vẫn còn nguyên giá trị của nó. Tuy nhiên ở điều kiện thứ hai là người có SLĐ nhưng không có TLSX, tư liệu tiêu dùng buộc phải bán SLĐ kiếm sống đã có sự biểu hiện mới. Đó là khi đời sống của công nhân lên cao, họ có tích luỹ và mua được cổ phiếu của Công ty cổ phần (CP) và như vậy họ trở thành người chủ một phần vốn của công ty, chủ một phần TLSX và lao động thặng dư của họ được bồi hoàn lại, những người lao động này không phải không có những TLSX, do vậy SLĐ của họ có tính chất hàng hoá, chứ không phải HHSLĐ theo đúng nguyên nghĩa mà C.Mác đã định nghĩa. Trường hợp này hiện hữu trong thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Trong các thành phần này, người lao động đều là người làm chủ tập thể TLSX, vì vậy SLĐ của họ không phải là HHSLĐ. Nhưng trong nền kinh tế thị trường, việc đánh giá sự cống hiến của người lao động vẫn phải dựa vào hình thức tiền lương. Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị HHSLĐ. Do vậy, SLĐ của người lao động trong kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể phải được coi là HHSLĐ để tính toán tiền lương theo mặt bằng tiền lương chung của toàn xã hội. Bởi vì, đã là tiền lương trong nền kinh tế thị trường thì phải phản ánh giá trị HHSLĐ. Nhưng có điểm khác biệt đó là trong khu vực kinh tế nhà nước phần bồi hoàn cho lao động thặng dư được coi trọng và có xu hướng tăng lên còn trong khu vực kinh tế tư nhân, do quan hệ người bóc lột người lao động vẫn còn tồn tại nên phần lao động thặng dư của người lao động vẫn bị người sử dụng lao động bóc lột trong khuôn khổ pháp luật. 1.1.2. Các thuộc tính của hàng hoá sức lao động Là một hàng hoá, SLĐ cũng có hai thuộc tính: Giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị sử dụng của của HHSLĐ là công dụng của nó, cần thiết cho nhu cầu của người mua và sử dụng nó mà trước hết là khả năng tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đó là nguồn gốc của giá trị thặng dư và là chìa khoá để giải đáp mâu thuẫn của công thức chung của tư bản. Quá trình sử dụng SLĐ làm thuê cũng là quá trình làm tăng giá trị. Giá trị sử dụng của SLĐ của người công nhân là tính có ích cho chủ sở hữu tư bản. Nhà tư bản cần có SLĐ của người công nhân kết hợp với TLSX của mình để tạo ra các giá trị sử dụng, tạo ra hàng hoá. Người lao động bán SLĐ bằng cách lao động theo yêu cầu của người mua. Nhà tư bản tiêu dùng SLĐ là nhằm sử dụng tính có ích của SLĐ. Tính có ích của SLĐ không chỉ là năng lực tạo ra các giá trị sử dụng mà còn: "Cái có ý nghĩa quyết định là giá trị sử dụng đặc biệt của thứ hàng hoá đó, là cái đặc tính của nó làm một nguồn sinh ra giá trị, hơn nữa lại sinh ra một giá trị lớn hơn giá trị của chính bản thân nó" [29]. Người công nhân bán SLĐ thực hiện giá trị trao đổi của SLĐ và nhượng lại giá trị sử dụng của SLĐ đó. Họ sẽ không thể nhận được giá trị trao đổi mà không chuyển nhượng giá trị sử dụng. Người mua đã trả giá trị hàng ngày của SLĐ, vì vậy việc tiêu dùng SLĐ ấy trong một ngày là thuộc quyền của người chủ tiền và nhượng lại giá trị trao đổi của SLĐ. Theo C.Mác: Chi phí hàng ngày để duy trì SLĐ và sự tiêu phí SLĐ ấy trong một ngày đó là hai đại lượng hoàn toàn khác nhau; Đại lượng thứ nhất quyết định giá trị trao đổi của nó, đại lượng thứ hai tạo thành giá trị sử dụng của nó. Điều này cũng có nghĩa là giá trị của SLĐ là giá trị được tạo ra trong quá trình sử dụng lao động là hai đại lượng khác nhau. Và chính nhà tư bản đã nhằm vào sự chênh lệch về giá trị đó khi mua SLĐ, đây cũng là tính có ích thật sự của SLĐ đối với các nhà tư bản. Tăng năng suất lao động là nguyên nhân của sự chênh lệch giữa hai đại lượng này. Khi năng suất lao động xã hội đạt đến một mức nhất định nào đó thì chỉ cần một phần ngày lao động, người công nhân có thể sản xuất ra những giá trị mới tương đương với giá trị kết tinh trong hàng hoá tư liệu tiêu dùng nuôi sống bản thân anh ta và gia đình anh ta. Người chủ sở hữu TLSX trả giá trị hàng ngày của SLĐ, vì vậy việc tiêu dùng SLĐ trong ngày lao động là thuộc quyền của nhà tư bản và như thế, đương nhiên giá trị mới do việc tiêu dùng SLĐ ấy tạo ra cũng thuộc về nhà tư bản. Nhà tư bản chỉ dùng một phần giá trị mới trả cho giá trị SLĐ và phần giá trị mới dư ra ngoài giá trị SLĐ ấy bị nhà tư bản chiếm không được gọi là giá trị thặng dư. Tuy nhiên, tính có ích của SLĐ được thực hiện tức sẽ tạo ra được giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó khi SLĐ phải hoạt động trong những "điều kiện bình thường". Đó là: Bảo đảm tính chất bình thường của những yếu tố vật chất của lao động như tư liệu lao động, nguyên, nhiên, vật liệu đạt trình độ phổ biến bình thường. Bản thân SLĐ cũng phải là một SLĐ bình thường, nghĩa là trong ngành chuyên môn mà SLĐ ấy được sử dụng, nó phải có một trình độ trung bình về mặt kỹ năng, sự nhanh nhẹn. Hay nói cách khác, muốn nâng cao giá trị sử dụng của SLĐ thì phải đầu tư cho người công nhân, họ phải được đào tạo, huấn luyện những kiến thức nhất định về chuyên môn, nghiệp vụ. Mặt khác, để đảm bảo tính có ích của SLĐ, nguyên liệu và tư liệu lao động phải được tiêu dùng một cách hợp lý, nếu bị tiêu phí một cách bất hợp lý thì chúng sẽ không được tính đến và không tham gia vào việc hình thành giá trị sản phẩm. HHSLĐ là một loại hàng hoá đặc biệt vì giá trị sử dụng của nó là một giá trị sử dụng độc đáo, trong quá trình sử dụng nó sinh ra một giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó. Là một loại hàng hoá đặc biệt trong nền sản xuất hàng hoá TBCN nên nó được mua bán theo một giá cả nhất định, đó là tiền công. 1.1.3. Sự chuyển hoá giá trị sức lao động thành tiền công Trong nền sản xuất TBCN, giá trị SLĐ được thể hiện ra thành tiền công và điều này đã đưa đến sự ngộ nhận lượng tiền đó được trả cho một lượng lao động nhất định. Nhưng thật ra người công nhân không bán lao động mà bán SLĐ. Lao động là " quá trình tiêu dùng sức lao động... là quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên [29, tr.265-266]. SLĐ là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó. Như vậy SLĐ và lao động có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, SLĐ là khả năng lao động, lao động là sự thực hiện SLĐ trong hiện thực; nó là sự kết hợp SLĐ với TLSX để tạo ra sản phẩm. Lao động không phải là hàng hoá và công nhân không bán lao động mà bán SLĐ. Sức lao động của công nhân là hàng hoá và giá trị của HHSLĐ được thể hiện ra trên bề mặt xã hội dưới hình thức tiền công. Tuy nhiên, chính sự chuyển hoá của giá trị thành hình thức tiền công đã đưa đến sự ngộ nhận về quan hệ tự do bình đẳng trong quan hệ mua bán SLĐ giữa chủ sở hữu tiền và người công nhân. Thực tế, đó là một quan hệ bất bình đẳng giữa nhà tư bản và công nhân làm thuê; vì người công nhân tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân SLĐ của mình khi được nhà tư bản sử dụng trong quá trình sản xuất; ngoài ra người công nhân làm thuê luôn phải ứng trước SLĐ cho nhà tư bản khi nhận được tiền công. Tiền công có hai hình thức cơ bản: đó là tiền công tính theo thời gian và tiền công tính theo sản phẩm. Tiền công tính theo thời gian là sự biểu hiện bằng tiền giá trị hàng ngày, hàng tuần... của SLĐ. Theo C.Mác: "nếu số lượng lao động hàng ngày hay hàng tuần... đã cho sẵn thì tiền công ngày hay tiền công tuần phụ thuộc vào giá cả sức lao động, bản thân giá cả này lại biến đổi cùng với giá trị sức lao động hay cùng với sự chênh lệch của giá cả sức lao động so với giá trị của nó. Ngược lại, nếu giá cả sức lao động đã cho sẵn thì tiền công ngày hay tiền công tuần phụ thuộc vào số lượ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan Van .doc
  • docBia Luan van.doc
Tài liệu liên quan