Mối quan hệ biện chứng giữa phát huy nội lực với hội nhập kinh tế quốc tế

Trong điều kiện hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại trên thế giới phát triển mạnh mẽ làm cho lực lượng sản xuất manh tính quốc tế hóa cao, phân công lao động xã hội vượt ra ngoài phạm vi quốc gia, xuất hiện phân công lao động quốc tế. Điều đó làm cho mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia ngày càng cao, sự phụ thuộc vào nhau giữa các quốc gia trong quá trình phát triển ngày càng lớn không kể quốc gia giàu hay nghèo. Do đó việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là một tất yếu khách quan.

Đối với nước ta việc mở rộng quan hệ kinh tế phải nhằm từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh theo định hướng xã nhội chủ nghĩa. Mục tiêu đó phải dược quán triệt đối với mọi ngành, mọi cấp trong hoạt động kinh tế đối ngoại cũng như phải đựoc quán triệt trong mọi lĩnh vực.

Với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Vì thế nước ta đã và đang chủ động tham gia vào các tổ chức hiệp hội trên thế giới và quá trìng tham gia hội nhập kinh tế đó vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với nước ta - một nước có nền kinh tế trên đà phát triển. Hội nhập kinh tế là cơ hội vừa thông qua sự giao lưu kinh tế với các nước phát triển, chúng ta có thể tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, đặc biệt là nguồn vốn, tiến bộ khoa học kỹ thuật, trình độ tổ chức quản lý để phát huy tối đa hóa nguồn lực trong nước. Hội nhập kinh tế quốc tế là thách thức vì việc mowr rộng quan hệ với các nước có nền kinh tế phát triển sẽ dẫn đến tình trạng các nước kém phát triển khó tránh khỏi bị lệ thuộc về kinh tế và từ chỗ bị lệ thuộc về kinh tế có thể dẫn đến bị lệ thuộc về chính trị, không giữ vững được chủ quyền vì thế Đảng và nhà nước ta đã xác định tham gia hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là nền tảng đảm bảo vững chắc vừa phát huy hết tiềm năng và nội lực vừa đạt hiệu quả kinh tế cao. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chính vì việc hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang là một vấn đề nóng bỏng, cấp bách và cần thiết đối với tất cả các quốc gia trên thế giới nờn em đã quyết định chọn đề tài: "Mối quan hệ biện chứng giữa phát huy nội lực với hội nhập kinh tế quốc tế". Bài tiểu luận này của em chỉ nêu ra được một số vấn đề nên không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế do nhận thức và trình độ của bản thân có hạn dù bản thân đã rất cố gắng. Em rất mong được sự góp ý, chỉ bảo, bổ xung từ phía các thầy cô để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn và cũng là dịp em bổ sung nâng cao kiến thức và trình độ nhằm phục vụ cho quá trình học tập sau này.

 

doc19 trang | Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1109 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Mối quan hệ biện chứng giữa phát huy nội lực với hội nhập kinh tế quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Trong điều kiện hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại trên thế giới phát triển mạnh mẽ làm cho lực lượng sản xuất manh tính quốc tế hóa cao, phân công lao động xã hội vượt ra ngoài phạm vi quốc gia, xuất hiện phân công lao động quốc tế. Điều đó làm cho mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia ngày càng cao, sự phụ thuộc vào nhau giữa các quốc gia trong quá trình phát triển ngày càng lớn không kể quốc gia giàu hay nghèo. Do đó việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là một tất yếu khách quan. Đối với nước ta việc mở rộng quan hệ kinh tế phải nhằm từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh theo định hướng xã nhội chủ nghĩa. Mục tiêu đó phải dược quán triệt đối với mọi ngành, mọi cấp trong hoạt động kinh tế đối ngoại cũng như phải đựoc quán triệt trong mọi lĩnh vực. Với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Vì thế nước ta đã và đang chủ động tham gia vào các tổ chức hiệp hội trên thế giới và quá trìng tham gia hội nhập kinh tế đó vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với nước ta - một nước có nền kinh tế trên đà phát triển. Hội nhập kinh tế là cơ hội vừa thông qua sự giao lưu kinh tế với các nước phát triển, chúng ta có thể tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, đặc biệt là nguồn vốn, tiến bộ khoa học kỹ thuật, trình độ tổ chức quản lý… để phát huy tối đa hóa nguồn lực trong nước. Hội nhập kinh tế quốc tế là thách thức vì việc mowr rộng quan hệ với các nước có nền kinh tế phát triển sẽ dẫn đến tình trạng các nước kém phát triển khó tránh khỏi bị lệ thuộc về kinh tế và từ chỗ bị lệ thuộc về kinh tế có thể dẫn đến bị lệ thuộc về chính trị, không giữ vững được chủ quyền vì thế Đảng và nhà nước ta đã xác định tham gia hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là nền tảng đảm bảo vững chắc vừa phát huy hết tiềm năng và nội lực vừa đạt hiệu quả kinh tế cao. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chính vì việc hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang là một vấn đề nóng bỏng, cấp bách và cần thiết đối với tất cả các quốc gia trên thế giới nờn em đã quyết định chọn đề tài: "Mối quan hệ biện chứng giữa phát huy nội lực với hội nhập kinh tế quốc tế". Bài tiểu luận này của em chỉ nêu ra được một số vấn đề nên không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế do nhận thức và trình độ của bản thân có hạn dù bản thân đã rất cố gắng. Em rất mong được sự góp ý, chỉ bảo, bổ xung từ phía các thầy cô để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn và cũng là dịp em bổ sung nâng cao kiến thức và trình độ nhằm phục vụ cho quá trình học tập sau này. Em xin chân thành cảm ơn! A. ĐẶTVẤNĐỀ Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng, đất nước ta đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theođịnh hướng xã hội chủ nghĩa. Đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước được khẳng định trong văn kiện đại hội IX là: "Đẩy mạnh CNH-HĐH, xây dựng nền kinh tếđộc lập tự chủ…. chủđộng hội nhập kinh tế quốc tếđể phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững". Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 xác định "gắn chặt xây dựng nền kinh tếđộc lập tự chủ với chủđộng hội nhập kinh tế quốc tế" là một trong năm quan điểm phát triển. Chủ trương này rất phù hợp với điều kiện đất nước ta, một đất nước phát triển theođịnh hướng xã hội chủ nghĩa trong hoàn cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, đầy biến động với những bất trắc khó lường. Đất nước ta đi lên từ một nền kinh tế bao cấp tự cung - tự cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường đầy cạnh tranh thì việc xây dựng nền kinh tế phát triển ổn định theo định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ giúp chúng ta có một nền kinh tế thực sựđủ mạnh đểđảm bảo cho việc mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài ra chủ trương này còn phù hợp với thực tế khách quan trong xu hướng toàn cầu hoá thế giới, đặc biệt là xu hướng toàn cầu hoá kinh tế.Điều này Mac - Angghen đã dự báo từ thế kỷ XIX khi phân tích sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất sẽ dẫn đến quốc tế hoá sản xuất và thương mại cho nên nó là xu thế khách quan do lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng. Hiện nay, dù gặp khó khăn đến đâu, kinh tế thế giới vẫn tiếp tục vận động theo xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá. Các khu vực kinh tế khổng lồ tiếp tục ra đời và phát triển như EU, Bắc Mỹ, khu vực Đông - Bắc á, khu vực Đông Nam Á… Đặc biệt là tổ chức thương mại thế giới WTO phát triển mạnh với khoảng gần 150 thành viên. Tuy nhiên, theo "tổng kết của UNDP (tổ chức hỗ trợ phát triển của liên hợp quốc) cho rằng từ khi diễn ra quá trình toàn cầu hoáđến nay trên thế giới có 10 nước giàu lên nhưng có hơn 130 nước nghèo đi trong đó có 60 nước có GDP. Bình quân đầu người thấp hơn trước khi tham gia toàn cầu hoá. Tổng kết những nước vay nợđể phát triển cho thấy chưa đến 10% số nước có khả năng trảđược nợ, số còn lại trở thành con nợ lưu cữ" [Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại hội IX của Đảng, Nxb chính trị quốc gia Hà Nội, 2001, tr 25]. Chính vì thế hội nhập kinh tế sẽđem lại cho nền kinh tế Việt Nam những lợi ích to lớn nhưng cũng đem lại những hậu quả không lường không những cho nền kinh tế mà cho cả chếđộ XHCN nếu chúng ta không biết khai thác tiềm năng và thế mạnh của đất nước, thực hiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn. Để có bước đi thích hợp cần phải đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiê và là trọng điểm của kinh tếđối ngoại, đặc biệt là tăng khối lượng xuất khẩu mặt hàng chế biến nông - lâm - ngư nghiệp để tăng thêm việc làm và thu nhập cho người lao động, phân công lại lao động hợp lí. Bên cạnh đó phải phát triển các ngành dịch vụ: hàng không, hàng hải, bưu chính, ngân hàng, thương mại… Vì sự phát triển của các ngành du lịch một mặt cho phép khai thác tiềm năng du lịch tăng thu nhập cao, tạo việc làm cho người dân… Mặt khác, góp phần mở rộng giao lưu, phát triển kinh tếđối ngoại mở cửa nền kinh tế. Như vậy, phát huy nội lực với hội nhập kinh tế có mối quan hệ biện chứng với nhau.Vàđể hiểu mối quan hệ biện chứng ấy phải dựa vào nguyên lí mối quan hệ phổ biến để phân tích mối liên hệ giữa phát huy nội lực với hội nhập kinh tế quốc tế.Định hướng phân tích mối quan hệ bên trong, bên ngoài của việc phát huy nội lực với hội nhập kinh tế quốc tế. B. NỘIDUNG 1. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến trong phép biện chứng duy vật 1.1. Các định nghĩa Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến nói chẳng qua là bộ môn khoa học nghiên cứu những qui luật vận động phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Như vậy phép biện chứng đã thừa nhận sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan tồn tại theo mối quan hệ bổ phiến, nó chẳng qua là bộ môn khoa học nghiên cứu những qui luật vận động phát triển, của tự nhiên xã hội và tư duy. Như vậy phép biện chứng đã thừa nhận sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan tồn tại theo mối quan hệ phổ biến, chúng vận động phát triển theo qui luật nhất định. Phép biện chứng có nhiệm vụ phải chỉ ra những qui luật đóđểđịnh hướng cho con người trong nhiệm vụ thực tiễn. Phép biện chứng có 3 hình thức cơ bản trong quá trình phát triển của triết học đó là: phép biện chứng chất phác, phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật. Thời cổđại, do trình độ tư duy phát triển chưa cao khoa học chưa phát triển nên các nhà triết học chỉ dựa vào cảm giác vào cái nhìn trực tiếp để xem xét mọi vật. Phép biện chứng này còn thiếu nhiều căn cứ khoa học do vậy mà nóđã bị phép siêu hình xuất phát từ nửa cuối thế kỷ XV thay thế. Phép biện chứng duy tâm xuất hiện trong triết học Cantơ và hoàn thiện triết học của Heghen. Tính chất duy tâm trong phép biện chứng của Heghen được thể hiện ở chỗ: Ông coi ý niệm tuyệt đối có trước và trong quá trình vận động phát triển cuối cùng nó lại trở về với chính mình trong tinh thần. Kế thừa có chọn lọc những thành tựu của các nhà triết học trước đó Mác và Anghen đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng. Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lí, những cặp phạm trù cơ sở những qui luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện thực.Trong hệ thống đó nguyên lí về mối liên hệ phổ biến là một trong những nguyên lí khái quát nhất. Mối liên hệ phổ biến là khái niệm đúng để chỉ sự ràng buộc nương tựa, tác động qui định lẫn nhau của các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Trong thực tế người ta luôn đặt ra các câu hỏi các sự vật hiện tượng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau hay không? Những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại trong trạng thái độc lập tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia. Nếu giữa chúng có mối quan hệ thì cũng chỉ là mối quan hệ bên ngoài. Còn những người theo quan điểm biện chứng lại cho rằng các sự vật hiện tượng là các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập vừa qui định tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau. Phép duy vật biện chứng khẳng định mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong mối quan hệ phổ biến.Sự vật là tiền đề, làđiều kiện tồn tại và phát triển của nhau. Chúng thường xuyên thâm nhập chuyển hoálẫn nhau làm cho ranh giới giữa các lớp sự vật không phải là tuyệt đối mà bao giờ cũng có lớp trung gian, chuyển tiếp. Mối liên hệ phổ biến không chỉ diễn ra ở các sự vật khác nhau mà còn diễn ra trong bản thân từng sự vật vàđều là khách quan. Mặc dù sự vật tồn tại trong những mối liên hệ phổ biến với nhiều mối liên hệ khác nhau nhưng vị trí, vai trò của từng mối liên hệ giữa vai trò quyết định đến sự tồn tại, vận động biến đổi của sự vật như mối liên hệ bên trong, bản chất… còn những mối liên hệ khác. Tuy vậy mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là khách quan, là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng. Ngay cả những vật vôtri vô giác cũng đang hàng ngày chịu sự tác động của các sự vật hiện tượng khác nhau như: áng sáng, nhiệt độ, độẩm… vàđôi khi cũng chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên và ngay cả các yếu tố trong chính bản thân nó. Ngoài sự tác động của tự nhiên còn tiếp nhận sự tác động của xã hội và của những người khác. Chính con người và chỉ con người mới có thể tiếp nhận vô vàn mối quan hệđó. Vấn đề là con người phải hiểu các mối liên hệ vận dụng chúng vào hoạt động của mình giải quyết các mối liên hệ phù hợp nhằm phục vụ nhu cầu lợi ích của xã hội và của bản thân.Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan mà còn mang tính phổ biến.Tính phổ biến của mối liên hệđược thể hiện ở chỗ. Thứ nhất, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng khác.Không có sự vật, hiện tượng nào nắm ngoài mối liên hệ.Trong thời đại ngày nay không một quốc gia nào không có quan hệ liên hệ với nhau.Chính vì thế hiện nay trên thế giới đã vàđang xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá mọi mặt của đời sống xã hội. Nhiều vấn đềđã vàđang trở thành vấn đề toàn cầu: đói nghèo, bệnh tật. Thứ hai, mối liên hệ biểu hiện dưới hình thức riêng biệt, cụ thể tuỳ theo điều kiện nhất định. Song, dù dưới hình thức nào chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.Nghiên cứu mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trên thế giới ta còn thấy rõ tính đa dạng, nhiều vẻ của nó. Dựa vào tính đa dạng có thể phân chia ra các mối liên hệ khác nhau theo từng cặp: mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu… chính tính đa dạng trong quá trình tồn tại và phát triển bản thân sự vật, hiện tượng qui định tính đa dạng của mối liên hệ. Vì vậy trong sự vật có thể bao gồm rất nhiều mối liên hệ chứ không phải chỉ có một mối liên hệ xác định. Song mỗi cặp mối liên hệ có những đặc trưng riêng tuỳtheo từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể các mối liên hệ tương ứng sẽ giữ vai trò quyết định. Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối vì mỗi loại mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận của mối liên hệ phổ biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hoá lẫn nhau tuỳtheo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả của sự vận động và phát triển của chính các sự vật. Tuy sự phân chia thành các loại mối liên hệ chỉ mang tính tương đối nhưng sự phân chia đó lại rất cần thiết bởi vì mỗi loại mối liên hệ có vị trí và vai trò xác định trong sự vận động và phát triển của sự vật con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệđóđể có các tác động phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hệ thống của mình. Từ nội dung của mối liên hệ phổ biến bất cứ sự vật hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với sự vật hiện tượng và mối liên hệ rất đa dạng và phong phú do đó trong hoạt động nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải có quan điểm toàn diện tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật hiện tượng ở một mối liên hệđã vội vàng kết luận về bản chất hay về tính qui luật của chúng. Quan điểm toàn diện đòi hỏi khi nghiên cứu phải xem xét sự vật, xem xét tất cả các mối quan hệ vốn có của nó nhưng không được đặt các mối quan hệ có vị trí vai trò như nhau.Cần phải phân biệt được đâu là những mối quan hệ bản chất tất yếu của sự vật, đâu là những mối quan hệ khác để từđó có kết luận đúng về sự vật.Trong thực tế quan điểm toàn diện khi tác động vào sự vật chúng ta không phải chúýđến những mối liên hệ nội tại của chúng mà còn phải lưu ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với sự vật khác và sự chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng trong từng điều kiện.Đồng thời chúng ta sẽ phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận quan điểm toàn diện góp phần định hướng chỉđạo hoạt động nhận thức và thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta.Thực hiện đúng quan điểm đó chính là chúng ta đã nắm được và vận dụng tốt phương pháp biện chứng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. 1.2. Quan điểm toàn diện Từ nguyên lí về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi chúng ta phải có quan điểm toàn diện khi nghiên cứu bất cứ một sự vật, hiện tượng nào.Như vậy tức là khi xem xét một sự vật, hiện tượng hay nhận thức và giải quyết một vấn đề gì thì phải đặt nó trong mối quan hệ với sự vật hiện tượng khác, xem xét tất cả mọi mặt, các yếu tố, kể cả khâu trung gian.Phải đặt nó trong mọi mối liên hệ có thể có.Như vậy, nó có thể giúp ta tránh được sự phiến diện khi giải quyết vấn đề.Đồng thời cũng phân biệt được vị trí, vai trò của mỗi mặt, mỗi mối liên hệ khác nhau trong tổng thể của nó.Có như vậy mới thực sự nắm được bản chất của sự vật mà không bị rơi vào nguỵ biện trong nhận thức và bất quyết trong hành động.Chính vì lẽđó mà quan điểm toàn diện đã bao hàm trong bản thân nó quan điểm lịch sử cụ thể. 2. Mối liên hệ giữa phát huy nội lực với hội nhập kinh tế quốc tế 2.1. Những tiềm năng cần phát huy để tiếp cận hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam cũng nằm trong các nước đang phát triển, xuất phát điểm của nước ta là một nước nông nghiệp nghèo do vậy ta cần phải mở rộng quan hệ với các nước khác nhằm tạo thuận lợi để xây dựng và phát triển kinh tế. Trong đại hội Đảng lần thứ IX đã nêu ra "Chủđộng hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ vàđịnh hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và bảo vệ môi trường. "Tuy nhiên đây mới chỉ làđường lối vàđể thực hiện đường lối đó ta cần phải khai thác và phát huy tối đa các nguồn lực mà mình cóđó là các lợi thế về tài nguyên, nguồn laođộng, huy động vốn…. 2.1.1.Huyđộng vốn và sử dụng vốn có hiệu quả Việc huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài làđiều kiện, tiền đề quan trọng để phát triển nền kinh tế trong nước. Vì nguồn vốn trong nước được tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân dựa trên cơ sở hiệu quả sản xuất, là lao động thặng dư của người lao động thuộc tất cả các thành phần kinh tế con đường cơ bản để giải quyết vấn đề tích lũy vốn trong nước là tăng năng suất lao động xã hội cơ sởứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, hợp lí hoá sản xuất. Nguồn vốn trong nước còn phụ thuộc vào tỉ lệ tiết kiệm.Với một khối lượng của cải nhất định, tỉ lệ tiết kiệm ngày càng cao, nguồn vốn càng lớn. Do đó, cần phải triệt để tiết kiệm, coi "tiết kiệm là quốc sách" đấu tranh triệt để với nạn tham nhũng, lãng phí …. Nguồn vốn trong nước giữ vai trò quyết định vì nó là nhân tố bên trong đảm bảo cho việc xây dựng và phát triển nền kinh tế, là tiền đềđể huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn nước ngoài. Do đó việc đề cao nội lực là hoàn toàn cần thiết vàđúng đắn. Còn nguồn vốn ngoài nước là nguồn vốn có vai trò quan trọng, không những giúp người nghèo khắc phục một phần khó khăn về vốn trong thời kỳđầu mà còn góp phần nâng cao trình độ quản lý và công nghệ, tạo việc làm cho người lao động …Vì thế tranh thủ nguồn vốn bên ngoài là một nhân tốđẩy nhanh sự thành công của việc phát triển nền kinh tế vững mạnh. Tuy nhiên, mặt trái của nguồn vốn ngoài nước cũng không nhỏ. Sử dụng vốn nước ngoài phải chấp nhận bị bóc lột, tài nguyên bị khai thác, nợ nước ngoài tăng lên … Do vậy, không thể kỳ vọng quá lớn vào nguồn vốn bên ngoài. Sử dụng nguồn vốn ngoài nước là rất cần thiết nhưng cần cân nhắc và lựa chọn kỹ càng. Để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, xây dựng và phát triển thị trường vốn là giải pháp cóý nghĩa rất quan trọng. Nhờ có thị trường vốn, người sở hữu vốn nếu nhượng quyền sử dụng vốn cho người khác sẽ cóthu nhập. Đồng thời khi có thị trường vốn đồng vốn sẽ dề dàng chuyển dịch từ nơi hiệu quả thấp đến nơi hiệu quả cao 2.1.2. Đào tạo nguồn nhân lực Nước ta là một nước dân số trẻ nên nguồn nhân lực khá dồi dào.Để phát triển một nền kinh tế vững mạnh thì nhân lực là yếu tố quan trọng và cần thiết và phải là những côn người cóđức, có tài, ham học hỏi thông minh, sáng tạo, làm việc quên mình vì nền độc lập và sự phồn vinh của tố quốc. Được chuẩn bị tốt về kiến thức văn hoá, được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề nghiệp, về năng lực sản xuất kinh doanh, vềđiều hành vĩ mô nền kinh tế, có trình độ khoa học kỹ thuật vươn lên ngang tầm thế giới. Để có nguồn nhân lực phù hợp phải coi việc đầu tư cho giáo dục, đào tạo thực sự trở thành vấn đề cần thiết và cấp bách.Đi đôi với việc đào tạo bồi dưỡng, phải bố trí và sử dụng tốt nguồn nhân lực đãđược đào tạo, phát huy đầy đủ khả năng, sở trường và nhiệt tình lao động sáng tạo của họđể sáng tạo ra năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp phát triển kinh tế. Muốn vậy người laođộng phải có sức khoẻ và thểlực tốt, phải đảm bảo dinh dưỡng phát triển y tế, cải thiện môi trường sống nhằm chăm sóc tốt sức khoẻ và nâng cao thể lực cho người lao động. 2.1.3. Phát triển khoa học và công nghệ Khoa học và công nghệđược xác định làđộng lực để phát triển kinh tế. Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung. Vì tiềm lực khoa học và công nghệ nước ta còn yếu muốn phát triển kinh tế phải xây dựng một tiềm lực khoa học và công nghệ thích ứng.Đây là một việc vô cùng khó khăn và lâu dài. Trình độ phát triển khoa học và công nghệ vừa là tiềm lực trí tuệ và sáng tạo của một dân tộc vừa là sự tiếp thu kế thừa tinh hoa trí tuệ của nhân loại cho nên phải tập trung đẩy mạnh công tác nghiên cứu đểđánh giá chính xác tài nguyên quốc gia, nắm bắt công nghệ cao để có chiến lược đúng trong việc ứng dụng vào thực tiễn nước ta. Phải xây dựng tiềm lực nhằm phát triển một nền khoa học tiên tiến bao gồm đẩy mạnh các hình thức đào tạo và sử dụng cán bộ khoa học, chú trọng đào tạo chuyên gia đầu ngành, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các ngành khoa học và công nghệ. Muốn vậy, phải xây dựng và thực hiện tốt cơ chế và chính sách đồng bộ cho phát triển khoa học và công nghệ.Để khoa học và công nghệ trở thành động lực của sự phát triển thì trước hết phải đào tạo ra động lực cho sự phát triển của chính bản thân khoa học - công nghệ. 2.1.4. Phát triển nhanh các ngành du lịch, dịch vụ, hợp lí hoá các vùng lãnh thổ. Các ngành dịch vụ, du lịch như: hàng không, hàng hải, bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm pháp lí, thương mại …. Là những tiềm năng của đất nước. Sự phát triển của các ngành đó một mặt cho phép khai thác tiềm năng du lịch, tăng thu nhập, đáp ứng nhu cầu về du lịch của nhân dân và nâng cao hiệu quả của sản xuất kinh doanh mặt khác góp phần mở rộng giao lưu phát triển kinh tếđối ngoại mở cửa nền kinh tế. Bên cạnh phát triển và quản lýtheo ngành phải phát triển và quản lý theo lãnh thổ. Có chính sách hỗ trợ nhiều hơn cho các vùng khó khăn để phát triển kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, nâng cao dân trí xoáđói giảm nghèo đưa các vùng vượt qua tình trạng kém phát triển đồng thời phỏt hiện ra thế mạnh của từng vùng để tiếp tục đầu tư và phát triển nhằm tăng trưởng kinh tế . Trong thời kỳ đổi mới Đảng và Nhà nước đã có những đường lối chính sách kinh tế nhằm phát huy thế mạnh và nội lực của đất nước đó nên nền kinh tế đã đạt được thành tựu như : Tổng sản phẩm trong nước (GDP) trong thời kỳ 1991 - 2000 đã tăng bình quân hàng năm là 7,4%, theo đó giá trị GDP đạt gấp đôi năm 1990. GDP theo đầu người tăng 1,8 lần nông nghiệp đạt tốc độ tăng trởng khá cao và toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Giá trị sản lượng toàn ngành tăng bình quân hàng năm 5,6%. Trong đó nông nghiệp tăng 5,4% thuỷ sản tăng 9,1%, lâm nghiệp tăng 2,1%. Nổi bật nhất là sản lượng lương thực tăng bình quân mỗi năm 1,1 triệu tấn. Sản lượng lương thực năm 2000 đạt 34 triệu tấn, đưa mức lương thực bình quân đầu người từ 294,9 kg năm 1990 lên 436 kg năm 2000. Việt Nam từ nước nhập khẩu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 2 trên thế giới. Sản lượng 1 số cây công nghiệp trong thời kỳ 1999 - 2000 đã tăng cao: cà phê tăng 4,7 lần, cao su tăng 4,5 lần, chè tăng 2 lần, mía tăng 3 lần, bông tăng 9,7 lần. Sản lượng thuỷ sản bình quân trong 10 năm là 8,85%. Giá trị sản lượng công nghiệp tăng bình quân 12,8 - 13%/năm. Công nghiệp chế biến đã có tốc độ tăng trưởng khá cao chiếm 60,6% giá trị toàn ngành công nghiệp năm 1999. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã tăng lên đáng kể. Tính đến năm 2000 đã có 2624 dựán được cấp giấy phép đầu tư với tổng vốn đăng kí là 38,5 tỉ USD, nếu tính cả vốn bổ xung là 40,3 tỉ USD. Cơ cấu kinh tếđã có những chuyển biến tích cực. Tỉ trọng trong nông - lâm - ngư nghiệp trong GDP đã giảm từ 38,7% năm 1990 xuống còn 25,4%. Năm 1999, công nghiệp và xây dựng đã tăng từ 22,6% lên 34,9% dịch vụ từ35,7% tăng lên 40,1%. Các ngành dịch vụ phát triển đặc biệt là ngành bưu chính viễn thông, du lịch…. đã nâng tỉ trọng lên trên 40% GDP.Đồng thời cơ cấu vùng kinh tếđã thay đổi theo hướng tập trung phát triển 3 vùng trọng điểm: Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, đồng thời đã dành sự quan tâm cần thiết tới những vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. Đồng thời với sự tăng trưởng về kinh tế mức sống của dân cư cả nông thôn và thành thịđều được cải thiện rõ rệt: GDP theo đầu người trong 10 năm qua đã tăng 1,8 lần, thu nhập bình quân 1người một tháng đã tăng 3,2 lần. Công tác chăm sóc sức khoẻ của nhân dân đã có nhiều tiến bộ. 2.2. Hội nhập kinh tế, nội dung và tính tất yếu phải hội nhập kinh tế Hội nhập kinh tế quốc tế vừa là một tất yếu khách quan vừa là yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trên thế giới.Mỗi quốc gia trên thế giới không thể tự mình xây dựng được một nền kinh tế phát triển bất kể nước ấ giàu hay nghèo.Đặc biệt làđối với các nước chậm phát triển vàđang phát triển.Nền kinh tế của nước này còn thấp kém, chậm phát triển, khoa học kỹ thuật còn thua xa các nước tư bản thì việc mở rộng giao lưu buôn bán với giai đoạn hiện nay. Do vậy những nước đang phỏt triển cần cóđường lối chủ trương rõ ràng để từng bước tiếp cận và hội nhập kinh tế quốc tế. Vì nội dung chủ yếu của hội nhập là mở cửa thị trường, tạo điều kiện thuận lợi để tự do buôn bán, phát triển. Về thương mại: các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan như giấy phép xuất khẩu đối với thương mại hàng hoá còn về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường cho nhau với 4 phương thức: cung cấp qua biên giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ thông qua doanh nhân, hiện diện thể nhân … Về thị trường đầu tư: không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài các yêu cầu về tỉ lệ nội địa hoá cân bằng xuất khẩu, hạn chế tiếp cận nguồn ngoại tệ… Các nguyên tắc này được tất cả các thành viên WTO và các nước đang gia nhập WTO thừa nhận và thực hiện. 2.3. Mối quan hệ biện chứng giữa phát huy nội lực với hội nhập kinh tế quốc tế. Phát huy nội lực và hội nhập kinh tế quốc tếđều chi phối quá trình tồn tại và vận động của nền kinh tế, trong đó nội lực giữ vai trò chủ yếu quyết định đến khuynh hướng vận động phát triển còn quá trình hội nhập quốc tế góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển ngày càng nhanh chóng. Vì chủđộng hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới, tích cực tham gia vào sự giao lưu, hợp tác phân công laođộng quốc tế trên cơ sở phát huy tốt nhất nội lực, lợi thế so sánh của quốc gia để cạnh tranh có hiệu quả trên trư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc-tr-13.doc
Tài liệu liên quan