Nghệ thuật và thực tiễn trong phong cách quản lý Nhật Bản

Hãy xem xét 2 lĩnh vực mà phương pháp quản lý Nhật chậm thay đổi

nhất là : chế độ tuyển dụng suốt đời và phương pháp quản lý đa vǎn hoá

Bên ngoài, các công ty Nhật đang cố gắng bám lấy cái gọi là "công việc

suốt đời", làm mọi cách để tạo công ǎn việc làm cho những nhân sự dôi

dư. Trong những công ty như Honda có thể thấy cả người trông coi việc

phục vụ cà phê là nam giới, công việc mà bình thường dành cho các

nhân viên vǎn phòng nữ. Để tránh phải sa thải nhân công, các công ty

phải cắt giảm tiền thưởng, giảm việc làm thêm giờ, và hạn chế tuyển

dụng. Hãng Nissan trước đây thường tuyển dụng 1.500 đến 2.000 nhân

công hàng nǎm, nhưng trong nǎm 1995 họ chỉ tuyển có 55 người. Ngày

nay, những sinh viên mới tốt nghiệp ở Nhật lo lắng nghiên cứu ageprofile của các công ty, ấn phẩm được phát hành hàng nǎm, mong tìm

được bất cứ 1 cơ hội tuyển dụng nào.

pdf12 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1172 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Nghệ thuật và thực tiễn trong phong cách quản lý Nhật Bản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghệ thuật và thực tiễn trong phong cách quản lý Nhật Bản (Phần cuối) Hãy xem xét 2 lĩnh vực mà phương pháp quản lý Nhật chậm thay đổi nhất là : chế độ tuyển dụng suốt đời và phương pháp quản lý đa vǎn hoá Bên ngoài, các công ty Nhật đang cố gắng bám lấy cái gọi là "công việc suốt đời", làm mọi cách để tạo công ǎn việc làm cho những nhân sự dôi dư. Trong những công ty như Honda có thể thấy cả người trông coi việc phục vụ cà phê là nam giới, công việc mà bình thường dành cho các nhân viên vǎn phòng nữ. Để tránh phải sa thải nhân công, các công ty phải cắt giảm tiền thưởng, giảm việc làm thêm giờ, và hạn chế tuyển dụng. Hãng Nissan trước đây thường tuyển dụng 1.500 đến 2.000 nhân công hàng nǎm, nhưng trong nǎm 1995 họ chỉ tuyển có 55 người. Ngày nay, những sinh viên mới tốt nghiệp ở Nhật lo lắng nghiên cứu age- profile của các công ty, ấn phẩm được phát hành hàng nǎm, mong tìm được bất cứ 1 cơ hội tuyển dụng nào. Tuy nhiên, cũng đã có những chuyển biến, kiểu làm việc của phương Tây đang từ từ "thấm" vào các công ty lớn của Nhật, và các công việc không còn ổn định như trước kia. Mặc dù vẫn trung thành với kiểu "tuyển dụng suốt đời" nhưng các công ty chỉ áp dụng quy chế này cho 1 số lượng nhân công nhất định. Một vài công ty thì đưa ra chế độ về hưu sớm "tự nguyện" cho các công nhân của họ. Để giải quyết những khó khǎn khi làm việc với các nhân viên nước ngoài, các công ty lớn của Nhật đã bắt đầu làm quen với kiểu "đa quốc gia đa vǎn hoá". Hãng NEC đã đặt các sản phẩm của mình vào "theo cách nhìn toàn cầu nhằm xác định địa điểm tốt nhất để thiết kế, sản xuất và tiêu thụ". Matsushita, một trong những công ty đã bảo vệ mạnh nhất các cơ sở trong nước, đã quyết định phân tán và bắt đầu nói về "quản lý mạng lưới toàn cầu". Nissan vẫn tiếp tục tạo dựng "tinh thần đồng đội trên toàn cầu" và nói về việc sử dụng toàn bộ thế giới như một "nền tảng của kiến thức". Đã có những hành động cụ thể minh chứng cho sự chuyển biến. Ngày càng nhiều các công ty lớn của Nhật sử dụng các nhà quản lý nước ngoài. Toyota đã tổ chức họp đại hội cổ đông ở nước ngoài. Toshiba đã cải tổ mọi thành phần trong cơ cấu hoạt động của mình, từ kế toán đến quản lý công nghệ trên phạm vi toàn thế giới, một phần là để loại bỏ những chồng chéo nhưng cũng bởi vì kiểu kinh doanh thuần tuý Nhật Bản không còn hiệu quả nữa. Người Nhật đã thiết lập được một mạng lưới toàn cầu, trong đó nhân viên từ các nước "thứ 3" sẽ đóng vai trò là người tuyên truyền kiểu quản lý Nhật Bản. Toshiba gửi công nhân từ Thái Lan đến các nhà máy lâu nǎm ở Malaysia, để giới thiệu cho họ kỹ thuật sản xuất Nhật Bản. Kiểu kết hợp 2 loại ý tưởng này đã mang lại kết quả khả quan. Ví dụ, cả Canon lẫn Toshiba đã tạo ra bước đột phá trong công nghệ âm thanh nhờ xây dựng các phòng thí nghiệm ở Anh. Một trong những người đi đầu trong việc tiếp cận đa vǎn hoá (một đồng minh khác của ông Kobayashi và Ohmae) là Minoru Mikahara. Ông Mikahara sinh ra ở London và học ở Havard, đã làm việc 22 nǎm ở nước ngoài và nói tiếng Anh rất chuẩn. Ông ta sống ở Mỹ cùng 2 đứa con của ông ta đang làm cho các công ty của Mỹ và ông ta được gọi thân mật là Ben. Nǎm 1992, ông ta được mời về làm chủ tịch Tập đoàn Mitsubishi (một hành động khác thường với một công ty Nhật Bản), một trong những tập đoàn lớn nhất Nhật Bản. Trước đây, một công ty thương mại có thể tồn tại như là một nhà xuất nhập khẩu, đóng vai trò đại lý cho các công ty nước ngoài tại Nhật và cho các công ty của Nhật ở nước ngoài. Tuy nhiên, khi thị trường mở cửa thì vai trò này không tồn tại nữa. Tương lai của Mitsubishi, nếu có, thì sẽ gần như nhà thiết lập giao dịch toàn cầu, sử dụng các mối quan hệ và người của mình để xây dựng những thứ như nhà máy điện, mạng truyền hình cáp trên toàn thế giới. Ngay từ khi nhậm chức, ông Makihara đã cố ép các đồng nghiệp của mình (dù không phải lúc nào cũng thành công) cũng phải có lối suy nghĩ như mình. Một trong những hành động đầu tiên của ông ta là yêu cầu tất cả các nhà quản lý cấp cao của mình nộp đơn xin từ chức (để ông ta có thể sử dụng khi cần thiết). Ông ta cũng cố gắng đề bạt người nước ngoài. Cũng như ông Kobayashi, ông luôn thích nhận những người có lối suy nghĩ phương Tây vào công ty. Nhưng việc này không hề dễ dàng. Người phương Tây ở Mitsubishi phàn nàn rằng họ chỉ được ký những hợp đồng lao động ngắn hạn trong khi đó các đồng nghiệp người Nhật của họ có thể làm việc ở đây cả đời. Vào thời điểm hiện nay, những người như ông Kobayashi, Makihara và Ohmae vẫn chỉ là những ngoại lệ. Nhưng họ đang có 3 điều thuận lợi. Thứ nhất là nền kinh tế Nhật ngày một toàn cầu hoá. Thứ hai, họ được sự ủng hộ mạnh mẽ của giới trẻ, thế hệ nǎng động lớn lên cùng với Disney và Nintendo, luôn muốn tiến về phía trước. Và cuối cùng là họ đang nhận được sự thay đổi ngay tại Nhật. Phương thức quản lý Nhật Bản sẽ thay đổi mà không hẳn bị phương Tây hoá. Điều này có nghĩa là có rất nhiều thứ mà thế giới cần phải học ở Nhật Bản. Quay trở lại với người Nhật Thực tế là bằng cách này hay cách khác, thế giới đang ngày càng giống mô hình của Nhật Bản. Thậm chí một số công ty thành công nhất của phương Tây (như General Motor và IBM) sẽ không thống trị thị trường lâu hơn nữa; họ nhận ra rằng họ không còn có nhiều thời gian để kiếm tiền từ những sản phẩm mới của Trái lại, những công ty tốt nhất của Nhật đã từng tràn ngập thị trường và mô phỏng rất nhanh. Nhật Bản có 9 công ty chế tạo ô tô trong khi Mỹ có 3. Không điều gì là bí mật lâu tại Nhật: tin tức có thể bị lộ ra ở các buổi họp mặt lớp cũ, các buổi gặp với các nhà cung cấp. Các hãng của Nhật luôn sống trong "sự cạnh tranh khốc liệt". Thời mà cả thế giới khâm phục "sự thần kỳ Nhật Bản" hồi đầu những nǎm 80 đã chấm dứt. Không còn nữa cái gọi là "dây chuyền chất lượng", sự quản lý mềm dẻo và những chuyến thǎm quan học tập 3 lần một nǎm đến "Thành phố Toyota". Các công ty Nhật Bản cồng kềnh và yếu ớt đã thất bại trước các công ty Mỹ luôn sáng tạo và nhảy vọt. Nhưng họ học hỏi rất nhanh, dưới sự hướng dẫn của những người như ông Kobayashi, Makihara và Ohmae, và có một số thứ mà họ làm tốt hơn các đối thủ của mình ở phương Tây. Một bài học mà phương Tây đã học được trong quá khứ là luôn phải để mắt tới phương Đông. Phương Tây vẫn phải học nhiều điều từ Nhật Có 2 vấn đề lớn nhất mà các nhà quản lý khắp nơi đều gặp phải là giảm giá thành và kiến thức quản lý. Trong khi các công ty phương Tây đã có những bước tiến dài trong lĩnh vực này thì người Nhật vẫn có thể dạy họ đôi điều . Về vấn đề giảm chi phí, các công ty phương Tây phải đối phó bằng cách giảm bớt hoặc hoãn lại công tác nghiên cứu hay giảm bớt quy mô. Trong khi đó, các công ty Nhật thành công đáng kể hơn các đối thủ trong việc hạ giá thành sản phẩm mà không ngừng quá trình cải tiến. Không chỉ là vấn đề sa thải nhân viên ít hơn. Các hãng của Nhật thường khuyến khích toàn bộ nhân viên đóng góp công sức để đạt tới mục tiêu giảm chi phí. Trong rất nhiều công ty, các bức tường được trang trí bằng các áp phích nhắc nhở mục tiêu "kiểm soát chi phí". Ví dụ tại hãng Topcon, một công ty quang học của Nhật, thì khẩu hiệu là "Ngân sách là Thượng đế". Tương tự như vậy, các công ty của Nhật tránh sa thải các nhà quản lý bậc trung dù thế nào họ cũng được làm việc như 1 chiếu cố. Đúng là các công ty của Nhật sàng lọc nhân sự rất chậm. Nhưng trong con mắt của người Nhật Bản, những nhà quản lý bậc trung không chỉ là một cầu nối để truyền lệnh mà là những người nắm trong tay tương lai phát triển của công ty. Và đặc biệt là các nhà quản lý bậc trung còn là sự gắn kết 2 cách nhìn với nhau - tầm nhìn chiến lược của các nhà quản lý cao cấp và cái nhìn chi tiết, cụ thể của các công nhân lao động trực tiếp. Ngoài ra, người Nhật còn có thể giúp các hãng của phương Tây trong việc quản lý trí tuệ - có vẻ như hơi trái ngược, vì thực tế là trong rất nhiều ngành công nghiệp đòi hỏi trí tuệ từ phần mềm đến giải trí thì vị trí dẫn đầu đều thuộc về nguời Mỹ. Tuy nhiên, một lớp nhà hoạch định quản lý mới của Nhật, đặc biệt là Ikujiro Nonaka và Hirotaka Takeuchi thuộc trường đại học Hitosubashi, cho rằng người Nhật vẫn có những vượt trội trong vấn đề này. Ông Nonaka và Takeuchi công nhận rằng các công ty phương Tây đã vượt qua các công ty Nhật trong việc quản lý những loại tri thức thông thường, xác định, những thứ có thể fax hoặc Email được. Nhưng họ chỉ ra rằng người Nhật lại tốt hơn trong việc quản lý những loại tri thức không cụ thể, không chính thức - tức là những kỹ nǎng, không có trong sách vở, mà do những người công nhân thu lượm từ công việc hàng ngày... Kỹ nǎng này cho phép các công ty thu thập được sáng kiến từ tất cả các nhân viên và làm cho một sáng kiến nhỏ có giá trị của một cá nhân có thể biến thành lợi thế cạnh tranh của cả công ty. Thủ thuật quan trọng nhất là khuyến khích nhân viên tiếp xúc, trao đổi với nhau càng nhiều càng tốt, cả chính thức hoặc không chính thức. Công ty thường chia nhân viên thành nhiều nhóm, để họ cùng làm việc với nhau trong một thời gian dài. Những nhân viên mới được dẫn dắt bởi những người có kinh nghiệm, hay trưởng nhóm do đó họ có thể học được từ những người này nhiều hơn là từ các khoá đào tạo chính qui. Những dịp cùng uống rượu sau giờ làm việc, những bữa tiệc cuối tuần đóng một vai trò rất quan trọng để thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau. Một vài công ty gọi đó là "nommunication", là từ ghép của một từ tiếng Nhật là "nomu" nghĩa là "uống" và communication là "giao tiếp". Honda và Canon thường xuyên sử dụng kiểu "cắm trại tư duy", một hình thức hội thảo không chính thức trong các khách sạn nhỏ ở đồng quê, trong đó những nhóm phát triển dự án (và bất cứ ai muốn đóng góp) không chỉ làm việc rất hǎng say mà còn uống rượu sake, cùng ǎn và thậm chí tắm nước nóng cùng nhau. Một đặc điểm của những hiểu biết "không chính thức" là nó luôn có ở mọi nơi: công ty chẳng phải tạo ra nó mà chỉ gỡ bỏ những rào cản xung quanh nó. Chẳng hạn như Kao, một công ty hoá mỹ phẩm nổi tiếng. Ngay từ đầu, Kao tổ chức tất cả các họp theo kiểu mở, cho phép tất cả mọi người có thể tham dự, một nửa diện tích của tầng điều hành được dành làm "phòng ra quyết định". Các cuộc hội thảo nghiên cứu phát triển hàng quý của Kao thu hút khoảng 1,800 người tham dự (trong tổng số 7000 nhân viên). Công ty cũng khuyến khích khách hàng gọi điện đến để gợi ý hay phàn nàn về sản phẩm, và đã nhận được khoảng 50.000 cú điện thoại một nǎm. Và hãng đã thiết lập một mạng máy tính cho phép mọi nhân viên có thể tiếp cận tới tất cả các thông tin (trừ các thông tin nhạy cảm nhất), dù hơi chậm một chút. Thậm chí tài khoản chi tiêu của chủ tịch công ty cũng được công bố. Một vấn đề nữa về tri thức "ẩn" là nó rất khó có thể đưa ra nước ngoài dù mọi người có cùng ngôn ngữ. Tuy nhiên trong khi các công ty của Nhật vốn bị chê là không biết cách thu thập ý tưởng từ các chi nhánh của công ty ở nước ngoài, họ lại là những người thầy rất giỏi, đặc biệt là khi họ dậy về tri thức "ẩn" trong sản xuất công nghiệp. Tại những nơi xa xôi như Wales và Tennessee, những công nhân địa phương đang sử dụng phương pháp "Nhật Bản" để sản xuất những sản phẩm của Toyota và Nissan cho thị trường nội địa. Và họ tiếp thu rất tốt những bài học này, những bài học đã giúp các nhà máy tại Nhật Bản kiếm tiền từ các thị trường của họ. (st)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghe_thuat_va_thuc_tien_trong_phong_cach_quan_ly_nhat_ban_phan_cuoi__6116.pdf
  • pdfnghe_thuat_va_thuc_tien_trong_phong_cach_quan_ly_nhat_ban_phan2__3972.pdf
  • pdfnghe_thuat_va_thuc_tien_trong_phong_cach_quan_ly_nhat_ban_phan3__86.pdf
Tài liệu liên quan