Những vấn đề cơ bản về hệ thống cơ quan nhà nước

Quan niệm về nhà nước

 Nhà nước là tổ chức quyền lực chính trị đặc biệt. Khi nói đến Nhà nước nói chung thường gắn liền với tên quốc gia, tên nước. ở phạm vi một nước, một quốc gia, khi nói đến nhà nước phải nói đến các vấn đề liên quan như: chính thể, chính trị, dân tộc, thể chế, bộ máy nhà nước, chính sách, pháp luật

ppt655 trang | Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 888 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Những vấn đề cơ bản về hệ thống cơ quan nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng có HĐND (Xô viết) do dân trực tiếp bầu ra và đều được gọi là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, hoạt động một cách hình thức.Cách tổ chức này không phân biệt các quận, hạt có nhiệm vụ QLNN về một lĩnh vực nhất định nào đấy xuất phát từ nhu cầu quản lý chung của nhà nước, với các cộng đồng lãnh thổ dân cư được hình thành một cách tự nhiên bền vững, cần phải có những quyết định phản ánh nhu cầu từ cộng đồng dân cư, khác với các vùng lãnh thổ khác, mà pháp luật và các quyết định QLNN cấp trên không có điều kiện thể hiện. Việc tổ chức và hoạt động các cấp chính quyền không tạo điều kiện cho việc chủ động sáng tạo của các cấp chính quyền cấp dưới, nặng về việc cấp dưới xin ý kiến chỉ đạo, hoặc phê duyệt của cấp trên, theo cơ chế "xin - cho". Các cấp chính quyền trong hoạt động không dựa vào pháp luật, không coi pháp luật là cơ sở hoạt động của mình, mà chỉ dựa vào ý kiến chỉ đạo của cấp trên. Việc tổ chức và hoạt động của CQĐP mang nặng nhiều quy định còn thể hiện ở sự bảo trợ của chính quyền cấp trên, hạn chế sự chủ động, sáng tạo của chính quyền cấp trên, hạn chế vai trò của pháp luật, nhiều quyết định của chính quyền đã được thông qua, nhưng không có hiệu lực thi hành ngay, mà còn phải chờ sự phê chuẩn của cấp trên.Việc tổ chức chính quyền địa phương trước đây quá lệ thuộc một cách chủ quan của tư duy cũ muốn tiến nhanh, tiến mạnh, một cách vội vàng lên chủ nghĩa xã hội, bằng cách nhập một loạt các đơn vị hành chính lại, để cho chúng có đủ dân số và đất đai với quy mô lớn, mà không phù hợp với trình độ quản lý của chúng ta. Với cách thức suy nghĩ như vậy đã làm cho nhiều đơn vị hành chính trở lên bị thua thiệt, kém phát triển.Một trong những vấn đề nóng bỏng hiện nay là cần phải phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và địa phương. Chủ trương chung của phân cấp giữa trung ương và địa phương là: - Những việc gì, ở cấp nào có điều kiện và khả năng thực hiện tốt thì phân giao cho đầy đủ quyền hạn và đảm bảo những điều kiện cần thiết cho cấp đó giải quyết. - Cơ quan được phân giao thẩm quyền phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Tiếp theo sự phân định, phân quyền giữa trung và địa phương, địa phương với địa phương là sự phân quyền giữa các cơ quan HĐND và UBND. - Các cơ quan chính quyền địa phương phải chịu trách nhiệm trước các hành vi hoạt động của mình. - Sự phân định và sự chịu trách nhiệm này gần tương tự sự phân định, sự chịu trách nhiệm giữa các cơ quan lập pháp pháp và hành pháp ở trung ương. Những yêu cầu về phân cấp giữa trung ương và địa phương và đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương theo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN Cải cách tổ chức BM CQĐP là một nội dung ưu tiên của chương trình CCHC. Nhiệm vụ đặt ra là phân cấp rõ ràng và hợp lý giữa trung ương và địa phương, phân biệt chức năng, nhiệm vụ của chính quyền đô thị và chính quyền ở nông thôn, tổ chức hợp lý HĐND và UBND. Các cơ quan CQĐP đã chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động. Quan hệ công tác, lề lối làm việc của UBND các cấp đã được thực hiện theo quy chế mới, hướng đến tinh thần hiện đại hóa nền HCNN và bảo đảm kỷ luật, kỷ cương hành chính. Thể chế về tổ chức và hoạt động của CQĐP đã được chú trọng. LTC HĐND và UBND năm 2003, các luật chuyên ngành đã được xây dựng theo tinh thần kiện toàn tổ chức, tăng cường chức năng giám sát của HĐND; Phân định thẩm quyền: Giữa HĐND và UBND cùng cấp; Giữa mỗi cấp chính quyền địa phương tỉnh-huyện-xã; Giữa tập thể UBND và Chủ tịch UBND. Trong các lĩnh vực: QL quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát triển; QL ngân sách nhà nước; QL đất đai, tài nguyên và tài sản nhà nước; QL doanh nghiệp nhà nước; QL các hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công; QL về tổ chức bộ máy và CB, CC được ưu tiên phân cấp cho CQuyền cấp tỉnh. Chủ trương phân biệt nội dung QLNN ở đô thị, nông thôn đã được thể chế hóa bằng các quy định của LTC HĐND và UBND, PL Thủ đô năm 2001 và NĐ số 93/2001/NĐ-CP ngày 12/12/2001 về phân cấp một số lĩnh vực cho TP Hồ Chí Minh. Thực hiện NQ Hội nghị lần thứ 5 BCHTW khóa X về đẩy mạnh CCHC, nâng cao hiệu lực, hiệu quả QL của BMNN, Đề án thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường đã được triển khai xây dựng.HĐND một số quận, huyện, phường sẽ chấm dứt hoạt động, hình thành mô hình tổ chức chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn. Những hạn chế: Tổ chức CQĐP còn chưa hợp lý, mới thiên về bảo đảm tính thống nhất trong chỉ đạo, điều hành của trung ương, chưa phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương. Mô hình tổ chức HĐND và UBND được thiết kế một cách tương đối đồng loạt, chưa thể hiện đặc điểm, yêu cầu QLNN trên các nhóm địa bàn, lãnh thổ.Mô hình chính quyền đô thị chưa theo kịp sự phát triển kinh tế – xã hội và yêu cầu quản lý tập trung thống nhất, bảo đảm sự liên thông trong giải quyết các công việc trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Vị trí, chức năng, mối quan hệ giữa HĐND và UBND chưa được làm sáng tỏ theo tinh thần đổi mới.Tổ chức và hoạt động của UBND không đảm bảo tính đồng bộ của giải pháp cải cách BM HCNN, tác động đến sự chỉ đạo thống nhất, thông suốt trong hệ thống các CQHP. Vị trí, vai trò của thôn ( làng, ấp, bản) chưa được chính thức hóa về mặt pháp lý trong khi thôn ( Trưởng thôn) lại thực hiện các nhiệm vụ mà lẽ ra thuộc về trách nhiệm của chính quyền xã. Hoạt động của HĐND chưa khắc phục được tính hình thức. Phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương trên từng ngành, lĩnh vực:Thiếu đầy đủ, đồng bộ về mặt thể chế; Thiếu tính hợp lý, ổn định khi thực hiện và thiếu khoa học, kịp thời trong tổng kết đánh giá.Thiếu các điều kiện đảm bảo cho việc thực hiên các quy định phân cấp, nhất là năng lực tài chính, cán bộ. Việc triển khai thí điểm không tổ chức HĐND tại một số địa bàn, nhân dân bầu trực tiếp CT UBND xã và thí điểm mô hình chính quyền đô thị có một số nội dung chưa được quy định trong Hiến pháp.Các nguyên nhân của những hạn chế: Hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của CQĐP nói chung, phân cấp nói riêng còn chưa đủ rõ. Vị trí, mối quan hệ giữa HĐND và bộ máy hành pháp chưa được giải quyết một cách thỏa đáng cả về lý luân, thể chế cũng như thực tiễn. Các vấn đề lý luận chưa được giải quyết một cách thỏa đáng làm cơ sở chiến lược về tổ chức và hoạt động của CQĐP. Phân công, phân cấp giữa trung ương – địa phương chưa được phân biệt, làm rõ nội dung.Còn cách nhận thức khác nhau về phương án “tổ chức hợp ly”́ CQĐP và quan niệm về tính chất tự quản của HĐND. Nội dung của chủ trương “ bảo đảm sự thống nhất của trung ương” chưa được làm sáng tỏ dẫn đến chủ quan khi lập luận về nhu cầu quản lý thống nhất từ phía trung ương đối với một số lĩnh vực. Tiêu chí trao quyền ( hay ngược lại) cho một số địa phương thiếu nhất quán. Thiếu cơ sở pháp lý để tổ chức lại CQĐP. Việc tổ chức lại CQĐP chỉ có thể triệt để nếu được giải quyết trong tổng thể cải cách tổ chức BMNN và để đạt được mục tiêu này, trước hết, cần sửa đổi các quy định của HP. Thể chế về phân cấp chưa được bảo đảm thực hiện bằng một cơ chế với các biện pháp đồng bộ. Một số lĩnh vực được phân cấp nhưng trên thực tế triển khai thiếu hiệu quả.Chất lượng, năng lực CB, CC nói chung và địa phương, nói riêng chưa đáp ứng yêu cầu phân cấp. Cấu trúc các đơn vị hành chính - lãnh thổ chưa được đổi mới kịp thời để thúc đẩy quá trình tổ chức hợp lý CQĐP.ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂNVị trí pháp lý của TANDSự không thể thiếu được hoạt động xét xử trong hoạt động của nhà nước. Đó là sự gắn bó chặt chẽ đến mức độ không thể thiếu được giữa công lý và quyền lực đã được nhà văn hào Pascal đặt ra cách đây khoảng 500 năm trước đây: “Công lý không dựa vào quyền lực thì bất lực; quyền lực không đi đôi với công lý thì tàn bạo. Vì vậy cần phải kết hợp giữa công lý và quyền lực, và nhằm mục đích này, phải làm thế nào cho những điều hợp công lý phải có đủ quyền lực; hay những điều dựa vào quyền lực phải hợp với công lý.” “Tư pháp” là thuật ngữ Hán - Việt có hai nghĩa chính: Tư pháp tức là pháp luật quy định những mối quan hệ tư nhân với nhau khác và phân biệt với quan hệ giữa cộng đồng quốc gia với tư nhân.Tư pháp là pháp đình xét định các việc ở trong phạm vi pháp luật quy định. Chữ “Tư pháp” được dùng ở nghĩa thứ hai trong chương này là tòa án xét xử. Hoạt động xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá và ra phán quyết nhân danh quyền lực nhà nước, về tính hợp pháp và tính hợp lý của các hành vi pháp luật hay quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp và mâu thuẫn giữa các chủ thể có lợi ích khác nhau.Thuật ngữ tòa án trong tiếng Latinh là Forum, nghĩa là nơi công đường, nơi hoạt động của cộng đồng được tiến hành. Theo nghĩa đó, từ khi có nhà nước, có hoạt động xét xử, thì đã có tòa án. Nhưng, tòa án, với cách hiểu như hiện nay là một hệ thống cơ quan độc lập hành xử quyền hành pháp, thì chỉ có trong XH TBCN, và XH XHCN. Tòa án là cơ quan duy nhất được HP giao cho nhiệm vụ xét xử (tài phán) các vụ việc tranh chấp trong các hoạt động của xã hội dựa trên cơ sở của pháp luật. Điều 127 Hiến pháp 1992 quy định:“TANDTC, các TAND địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Toà án đặc biệt.Ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật.”Cụ thể hóa nguyên tắc hiến định nêu trên Điều 1 LTC TAND quy định:"...Chỉ có các Tòa án nhân dân và các Tòa án khác mới được quyền xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, lao động kinh tế, và những vụ án khác theo quy định của pháp luật".Ngoài nhiệm vụ xét xử, trong phạm vi chức năng của mình, TA có nhiệm vụ: Bảo vệ pháp chế XHCN và quyền làm chủ của nhân dân; Bảo vệ tài sản NN, của tập thể; bảo vệ tính mạng tài sản, tự do nhân phẩm của nhân dân.Bằng hoạt động của mình TA góp phần:Giáo dục công dân trung thành với tổ quốc;Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật; Tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội;Ý thức đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác.Ngoài việc giải quyết các tranh chấp nêu trên thuộc các lĩnh vực hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh tế, các TA còn được giải quyết những tranh chấp khác như khiếu nại về danh sách cử tri, việc đăng ký hộ tịch, xác định sự mất tích, chết của công dân... Kể từ ngày 30 tháng 12 năm 1993, QH trong luật phá sản giao cho TAND tỉnh, TP trực thuộc Trung ương và TANDTC được quyền giải quyết những yêu cầu về việc tuyên bố phá sản của các doanh nghiệp.Theo quy định của BL TTDS, những vụ án dân sự thuộc thẩm quyền xét xử của các TAND là: Những tranh chấp về quyền sở hữu về tài sản giữa công dân với công dân, giữa công dân với các tổ chức pháp nhân là CQNN hay các TCXH khác; Các tranh chấp về hợp đồng dân sự, các tranh chấp về bồi thường thiệt hại, các tranh chấp về quyền tác giả, về nhà ở và các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ dân sự khác.Về lĩnh vực hôn nhân và gia đình TA được quyền xét xử các vụ việc như: Ly hôn, chia tài sản khi ly hôn; Yêu cầu cấp dưỡng khi ly hôn; Quyền nuôi con khi ly hôn; Huỷ việc kết hôn trái phép; Chia tài sản thừa kế...TA có thẩm quyền xét xử những vụ việc tranh chấp về lao động như: Xử lý kỷ luật bằng buộc thôi việc, bồi thường khi vi phạm hợp đồng lao động.TA có thẩm quyền giải quyết những vụ án kinh tế như: Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân; Giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh; Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; Giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến thành lập, giải thể, hoạt động kinh tế; Các tranh chấp khác về kinh tế theo quy định của pháp luật.TA còn có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về QĐ QLNN của Thủ trưởng các CQHCNN. Đây là những loại Toà án mới theo tinh thần càng ngày càng mở rộng đối tượng, phạm vi cần phải xét xử trong hệ thống Toà án – Tòa Hành chính.Thi hành NQ của UBTVQH và LTC TAND sửa đổi, ngày 1/7/1994 hệ thống cơ quan Trọng tài kinh tế Nhà nước được sát nhập vào TAND, Toà kinh tế được thành lập. Ngày 1/7/1996 TAND có thêm Toà Hành chính, Toà Lao động được thành lập ở cấp tỉnh và cấp trung ương. Ở cấp huyện thì có phân công thẩm phán phụ trách. NHỮNG NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA TANDTA cũng được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung của việc tổ chức, hoạt động BMNN: Như Đảng lãnh đạo, tập trung dân chủ, pháp chế XHXN ...Tuy nhiên, TA là cơ quan tài phán. Nó có vị trí đặc biệt trong hệ thống các CQNN. Công tác của TAND có những nét đặc thù so với công tác của các CQNN khác, nên các TAND được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc riêng dựa trên nền tảng các nguyên tắc chung có giá trị cho tất cả các CQNN. Nguyên tắc độc lập của tòa án Là một nguyên tắc quan trong bậc nhất của tất cả các nguyên tắc điều chỉnh việc tổ chức và hoạt động của TA. Nguyên tắc này được sinh ra do đòi hỏi phải thực hiện chức năng xét xử một cách công bằng quy định. Nguyên tắc này được bắt đầu và như là một phần biểu hiện của học thuyết phân quyền trong việc tổ chức của nhà nước dân chủ tư sản. Học thuyết của Montesquieu đã trở thành hạt nhân của học thuyết "Tam quyền phân lập". Trong tác phẩm "Tinh thần luật pháp" Montesquieu viết:"Khi quyền lập pháp được sát nhập với quyền hành pháp và tập trung vào trong một người hay một tập đoàn thì sẽ không có tự do được bởi vì người ta có thể sợ rằng chính nhà Vua hay Nghị viện ấy sẽ làm những đạo luật độc đoán để thi hành một cách độc đoán.Sẽ không có tự do nếu quyền xét xử không được phân biệt với quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền xét xử được sát nhập vào quyền lập pháp, thì sẽ không có tự do. Nếu quyền xét xử được nhập vào quyền hành pháp thì thẩm phán sẽ trở thành những kẻ áp bức". Mọi thứ sẽ bị biến mất cả nếu chính một người, hay chính một tập đoàn các thân hào hay các quý tộc hay bình dân hành sự cả ba quyền: quyền làm luật, quyền thi hành các quyết nghị chung và quyền xét xử các tội phạm hay các vụ tranh chấp giữa các tư nhân. Theo Điều 130 của HP hiện hành quy định:“Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.Nguyên tắc độc lập của tư pháp được tuyên bố độc lập chỉ tuân theo pháp luật ở một công đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng - khi xét xử. Sự độc lập của toà án không thể có được nếu chỉ dừng lại ở khâu xét xử. Không thể có sự độc lập khi xét xử, trong khi các công đoạn khác của cả một quy trình tố tụng không được tuyên bố là độc lập, nhất là trong cuộc sống của TP và HT vẫn còn phải phụ thuộc vào LP, vào HP, vào các chủ thể nắm quyền lực khác của NN. Trong bản báo cáo của Ngân hàng thế giới năm 1997 với tiêu đề “Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi”có đoạn viết:“Tính độc lập của ngành tư pháp thường bị tổn hại lặp đi, lặp lại trong nhiều nước, và chẳng có nước nào có được ngành tư pháp độc lập mà thường bị ảnh hưởng bởi những nỗ lực chính trị can thiệp vào những quyết định của nó. Các ngành LP và HP đã dùng nhiều loại nước cờ mở đầu khác nhau để kìm hãm ngành tư pháp của họ. Mặc dù HP của Ucraina tuyên bố rằng các toà án độc lập, nhưng các quan toà lại phụ thuộc phần lớn vào các cơ quan hành pháp địa phương về nhà ở của họ. Những quan toà nào chống lại các quan chức địa phương thì rất có khả năng bị kéo dài thời hạn được cung cấp nhà ở “Nguyên tắc bổ nhiệm thẩm phánỞ Việt Nam, trước đây chúng ta thực hiện chế độ bổ nhiệm TP. Nhưng từ năm 1960 đến trước khi có HP 1992 chế độ bầu cử TP đã được thực hiện ở các cấp TAND.Chế độ bầu cử TP có những ưu điểm là đảm bảo cho nhân dân lao động trực tiếp thực hiện quyền dân chủ của mình trong việc lựa chọn những người có trình độ chuyên môn, pháp lý, đạo đức thay mặt mình xét xử được công minh, bảo vệ được lợi ích Nhà nước, lợi ích tập thể, lợi ích chính đáng của công dân, đồng thời cũng là nguyên tắc đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.Tuy nhiên việc thực hiện bầu TP trong hơn ba mươi năm qua đã bộc lộ những nhược điểm như: Việc thực hiện bầu TP các TA địa phương ở nhiều nơi còn rất hình thức; Nhiệm kỳ ngắn làm cho thẩm phán chưa yên tâm công tác; Việc bầu cử của những năm qua không cho phép tính đến trình độ, năng lực xét xử của đội ngũ những người đảm nhiệm hoạt động (chức năng) xét xử của NN. HP 1992 đã thay nguyên tắc bầu TP bằng nguyên tắc bổ nhiệm TP (Điều 128). Nguyên tắc này đảm bảo cho NN chọn được những người có đủ điều kiện như bằng cấp ở trình độ cử nhân Luật học và phải qua lớp đào tào hành nghề của Học viện tư pháp. Với kinh nghiệm trong nghề xét xử, TP được bổ nhiệm sẽ yên tâm công tác, có điều kiện tích luỹ kinh nghiệm, nâng cao trình độ xét xử và ý thức trách nhiệm cá nhân hơn trong việc đảm bảo Nguyên tắc: "Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập, chỉ tuân theo pháp luật", đồng thời góp phần làm cho hoạt động xét xử công bằng thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ đất nước, không phụ thuộc vào địa phương. Theo quy định của HP hiện hành: trừ Chánh án TANDTC do QH bầu, các Phó Chánh án, TP TANDTC, Chánh án, Phó Chánh án, TP TAND các cấp đều do bổ nhiệm.Nguyên tắc khi xét xử sơ thẩm có hội thẩm tham gia và hội thẩm ngang quyền với thẩm phánĐể đảm bảo tính công bằng, bình đẳng của pháp luật, việc xét xử không chỉ có những người chuyên môn mà còn có cả đại diện từ phía nhân dân, HP quy định: "Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của Toà án quân sự có hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật. Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với thẩm phán" (Điều 129).Khi xét xử, thẩm phán và Hội thẩm độc lập chỉ tuân theo pháp luậtNguyên tắc này được quy định tại Điều 130 HP 1992 và bắt nguồn từ nguyên tắc pháp chế XHCN, nhằm đảm bảo tính khách quan trong quá trình xét xử, tính thống nhất của pháp luật. Nội dung của nguyên tắc này là: Ý chí này được thể chế hoá thành pháp luật của NN khi tiến hành xét xử TP và HT chỉ tuân theo pháp luật tức là xét xử theo ý chí của nhân dân, ý chí của NN.Sự độc lập của HĐXX chỉ được đảm bảo trong quá trình xét xử. Khi tiến hành xét xử, TP và HT không bị ràng buộc bởi ý kiến của bất kỳ cơ quan hoặc cá nhân nào. Họ độc lập đánh giá chứng cứ đã thu thập được tại phiên toà, độc lập xem xét các tình tiết có liên quan đến vụ án. Trên cơ sở đó áp dụng luật để xử án ra quyết định bản án.Quan hệ giữa các cấp của TA là quan hệ tố tụng nên TA cấp trên không được phép dùng mệnh lệnh hành chính buộc TA cấp dưới xử theo một tội danh hay xử cho bên nguyên hoặc bên bị hưởng lợi ích nào đó trong vụ kiện dân sự. Đảng lãnh đạo TA không chỉ bằng đường lối xét xử mà còn bằng việc chăm lo, lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ TA, xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh trong cơ quan TA.Đảng lãnh đạo TA nhưng không làm thay TA, không được can thiệp vào việc giải quyết một vụ án cụ thể.Các cơ quan quản lý đại diện hay NN không được can thiệp vào việc xét xử của TA. TA cũng không được lệ thuộc vào ý kiến của CQĐT, VKS mà phải có kết luận riêng, căn cứ vào pháp luật mà xử lý chính xác. Trong trường hợp phát hiện các chứng cứ không đủ sức thuyết phục, TA có quyền đình chỉ vụ án không tiến hành xét xử, ra quyết định đình chỉ vụ án, hoặc chỉ tiếp tục điều tra thêm.Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa sốNguyên tắc này được quy định tại Điều 131 HP năm 1992 và bắt nguồn từ nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của BMNN.Xét xử là một hoạt động đặc thù của NN nhằm bảo vệ pháp chế XHCN, có liên quan đến vận mệnh của cá nhân, gia đình, quyền và lợi ích của NN, các TCXH. Xét xử phải thận trọng, có quyết định đúng đắn, đòi hỏi trí tuệ của cả tập thể. TA khi xét xử các vụ án hình sự, dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình... theo bất cứ thủ tục nào cũng phải thành lập HĐXX. HĐXX có thể gồm các TP và HTND, cũng có thể gồm các TP (không có HTND) nhưng phải có ít nhất từ ba người trở lên (phải là những số lẻ, do Chánh án quyết định). HĐXX làm việc tập thể, cùng nghiên cứu hồ sơ vụ án, cùng thẩm vấn để xác minh các chứng cứ và chịu trách nhiệm tập thể trước TA cấp mình và TA cấp trên về kết quả phiên toà. Trên thực tế, do sự chênh lệch về trình độ hiểu biết pháp luật và kinh nghiệm xét xử giữa TP với nhau và với HTND nên nguyên tắc này có khi mang tính hình thức. Vì vậy cần phải tiêu chuẩn hoá đối với TP và bồi dưỡng kiến thức pháp lý đối với các HTND.Toà án xét xử công khai Nguyên tắc này được quy định tại Điều 131 HP năm 1992 và bắt nguồn từ nguyên tắc phát huy dân chủ đối với nhân dân trong tổ chức và hoạt động của BMNN.Nguyên tắc này nhằm thu hút đông đảo nhân dân tham gia phiên toà xét xử, đảm bảo sự giám sát của nhân dân đối với việc xét xử của TA, cũng như tác dụng giáo dục, phòng ngừa của hoạt động xét xử. Toà án xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luậtNguyên tắc "Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật" là một nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ XHCN, được quy định tại Điều 52 HP năm 1992. Trong hoạt động xét xử, TA phải tôn trọng nguyên tắc này để đảm bảo cho vụ án được xét xử khách quan, toàn diện và đầy đủ.Nội dung nguyên tắc này được thể hiện ở những khía cạnh sau: Mọi hành vi phạm tội, mọi tranh chấp pháp lý do bất cứ ai thực hiện đều được TA xét xử nghiêm minh, công bằng, không thiên vị. PL quy định những quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, cho nên bất cứ ai tham gia tố tụng cũng được hưởng những quyền và phải được thực hiện những nghĩa vụ tố tụng đó. Mọi người đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, không phân biệt nam nữ, dân tộc tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội và địa vị xã hội.Vi phạm nguyên tắc này là vi phạm pháp chế XHCN, làm cho việc xét xử không công minh, không đúng pháp luật. Báo cáo chính trị của BCHTW ĐCS Việt Nam tại ĐH ĐCS Việt Nam lần thứ VI đã chỉ rõ "không cho phép ai dựa vào quyền thế để làm trái pháp luật. Mọi vi phạm đều phải được xử lý. Bất cứ ai phạm pháp đều đưa ra xét xử, không được giữ lại để xử lý nội bộ. Không được làm theo kiểu phong kiến: dân thì chịu hình pháp, quan thì xử theo lễ". Khi xét xử phải bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, bị canĐây là một nguyên tắc dân chủ được qui định trong HP (Điều 132). Bị cáo có quyền tự bào chữa, hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Trong những trường hợp luật định, TA phải có trách nhiệm chỉ định người bào chữa cho bị cáo. Việc bảo đảm quyền bào chữa cho bị can, bị cáo góp phần làm cho việc xét xử của TA được khách quan toàn diện và chính xác. Quyền bào chữa là quyền cơ bản của công dân được pháp luật quán triệt trong các giai đoạn tố tụng. Trong BL TTHS, quyền bào chữa của bị can, bị cáo được mở rộng rất nhiều so với trước đây. Khi tự bào chữa cho mình, bị can, bị cáo vận dụng tất cả các quyền mà luật pháp cho phép để chứng minh không có tội hoặc làm giảm nhẹ tội cho mình. Nếu bị can, bị cáo không tự bào chữa, thì có quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người đại diện cho mình bào chữa.Pháp luật quy định trong những trường hợp: Bị can, bị cáo là người chưa thành niên;Người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần; Bị can, bị cáo phạm vào những tội nặng có khung hình phạt đến tử hình; Thì TA hoặc cơ quan chức năng phải chỉ định luật sư bào chữa. Toà án bảo đảm cho công dân thuộc các dân tộc được dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước toà Việc xét xử ở các TA là một quá trình, trong đó giai đoạn thẩm vấn của TA tại phiên toà có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để xác định chứng cứ làm cơ sở cho việc nghị án của TA. Vì vậy giai đoạn thẩm vấn tại phiên toà hết sức thận trọng, chính xác nhằm đạt tới sự thật.Những câu hỏi đặt ra phải rõ ràng nhằm làm sáng tỏ bản chất của vấn đề mà Toà án quan tâm. Việc trả lời những câu hỏi đó cũng phải được diễn đạt một cách chính xác, đúng sự thật. Để bị cáo, người bị hại cũng như các đương sự và những người làm chứng... trình bày một cách dễ dàng và chính xác, sự cần thiết phải được diễn đạt bằng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình, không nhất thiết phải bằng tiếng nói, chữ viết phổ thông. Do đó khi cần thiết, TA phải chỉ định người phiên dịch. CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN HIỆN NAY Theo quy định của Điều 127 HP nước cộng hoà XHCN Việt Nam, hệ thống các cơ quan xét xử của Nhà nước ta gồm có: Toà án nhân dân tối cao Các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Toà án quân sự Trung ương Các Toà án quân sự quân khu Các Toà án quân sự khu vực Tổ chức và hoạt động của các TA Nhà nước ta hiện nay về cơ bản theo nguyên tắc lãnh thổ kết hợp với thẩm quyền xét xử. Ở mỗi đơn vị huyện, thị xã

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pptcd2_nhung_van_de_co_ban_ve_he_thong_cqnn_cvc_6876.ppt
Tài liệu liên quan