Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên, ý nghĩa đối với sự phát triển của triết học hiện nay

Chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định mối quan hệ giữ triết học và khoa học tự nhiên là một tất yếu khách quan.Triết học và khoa học tự nhiên là những hình thái đặc biệt của nhận thức khoa học, giữa chúng có sự gắn bó chặt chẽ, hữu cơ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình vận động và phát triển. Mỗi bước phát triển quan trọng của khoa học tự nhiên đều kéo theo sự phát triển mới của chủ nghĩa duy vật, ngược lại, mỗi một hình thức phát triển mới của triết học lại có vai trò hết sức quan trọng trong việc định hướng, chỉ đạo, mở đường cho sự phát triển của khoa học tự nhiên .

Sự ra đời của triết học, trước hết nó phải được dựa trên cơ sở của sự phát triển đời sống vật chất – kinh tế, xã hội, từ đó triết học sẽ vận động, phát triển theo quy luật nội tại khách quan vốn có của nó. Mặt khác sự ra đời và phát triển của triết học lại có sự liên hệ khăng khít, gắn bó chặt chẽ không tách rời với sự phát triển của khoa học tự nhiên,và có thể khẳng định rằng, chính khoa học tự nhiên là động lực chủ yếu , quan trọng thúc đẩy sư phát triển của triết học, chứ không phải là sức mạnh của tư duy thuần tuý như nhiều nhà triết học duy tâm đã từng quan niệm. Bởi vì, theo quan niệm Mác xít, chính khoa học tự nhiên đã cung cấp những cơ sở, luận cứ khoa học, những tài liệu nhận thức về tự nhiên, do đó, mỗi khi có những phát minh có tính chất vạch thời đại trong khoa học tự nhiên thì chủ nghĩa duy

doc51 trang | Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 1357 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên, ý nghĩa đối với sự phát triển của triết học hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hỉ cú cỏi chung mà lại khụng cú cỏi riờng, ngược lại, trong bức tranh siờu hỡnh lại chỉ cú cỏi riờng mà lại khụng cú cỏi chung. Bức tranh thế giới được xõy dựng lờn bởi những phỏt minh vĩ đại trong khoa học tự nhiờn thế kỷ 19 đó kết hợp được cỏi chung với cỏi riờng, đó chuyển từ siờu hỡnh sang biện chứng. Bước chuyển đú trong khoa học tự nhiờn cú nghĩa là cỏi chung và cỏi riờng, cỏi phổ biến và cỏi đơn nhất được nghiờn cứu trong sự thống nhất biện chứng bờn trong của chỳng, trong mối quan hệ qua lại và quy định lẫn nhau của chỳng. Sự chuyển sang phộp biện chứng ở đõy khụng cú nghĩa là sự đơn thuần quay trở lại phộp biện chứng tự phỏt cổ đại, mà là phộp biện chứng đó được làm phong phỳ lờn bằng tri thức về cỏi chung, cũng như về cỏi riờng, về sự thống nhất của cỏi chung, cỏi riờng, mà khoa học tự nhiờn cũng như triết học đó đặt ra từ trước đến nay. Khoa học tự nhiờn đó tiến lờn một giai đoạn phỏt triển, khụng cũn phương phỏp nghiờn cứu bằng phõn tớch đơn thuần, một chiều nữa, bởi phương phỏp đú khụng cũn phự hợp với sự phỏt triển của khoa học tự nhiờn, lỳc này khoa học tự nhiờn cần cú một phương phỏp mới. Đú là phương phỏp dựa trờn sự thống nhất, kết hợp giữa phõn tớch và tổng hợp, nghĩa là phương phỏp tổng hợp về mặt lý luận những tài liệu đó đạt được và bằng sự phõn tớch để rỳt ra những kết luận sõu sắc toàn diện. Tương ứng với phương phỏp đú của khoa học tự nhiờn, cần phải cú một phương phỏp tư duy mới của triết học, một phương phỏp khụng chỉ là để ỏp dụng nghiờn cứu những sự vật như là một cỏi gỡ nhất thành bất biến, mà là một phương phỏp cú thể “ xem xột những sự vật và những phản ỏnh của chỳng trong tư tưởng, trong mối liờn hệ qua lại lẫn nhau của chỳng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phỏt sinh và sự tiờu vong của chỳng.” C.Mỏc và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1994, tập 20, trang 38. Đú chớnh là phương phỏp tư duy biện chứng – một sự kết hợp khộo lộo, một sự phỏt triển mới trong tư duy của quỏ trỡnh phản ỏnh tồn tại xó hội mới. Và “ như thế là chỳng ta đó trở lại với cỏi quan niệm của cỏc nhà sỏng lập vĩ đại ra triết học Hy lạp, cho rằng toàn bộ giới tự nhiờn, từ cỏi nhỏ nhất cho đến cỏi lớn nhất, từ hạt cỏt cho đến cỏc mặt trời, từ những sinh vật nguyờn thuỷ chi đến con người, nằm trong tỡnh trạng khụng ngừng sinh ra và diệt vong, lưu động khụng ngừng,vận động và biến hoỏ bất tận. Chỉ cú một chỗ khỏc nhau cơ bản là: cỏi mà ở người Hy lập là trực giỏc thiờn tài, thỡ đối với chỳng ta nú là kết quả của một cụng trỡnh nghiờn cứu khoa học chặt chẽ dựa trờn kinh nghiệm và vỡ vậy nú thể hiện ra dưới một hỡnh thức dứt khoỏt và rừ ràng hơn nhiều.” C.Mỏc và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1994, tập 20, trang 471. Như vậy, quy luật phỏt triển nội tại bờn trong của khoa học tự nhiờn và của triết học luụn gắn bú chặt chẽ và trựng hợp với nhau. Lụ gớc sự phỏt triển bờn trong của khoa học tự nhiờn đó cho chỳng ta thấy rằng: Ban đầu xuất hiện quan niệm biện chứng về tự nhiờn, biểu thị sự trực quan đối với tự nhiờn, coi như là một toàn bộ khụng phõn chia; Thay thế cho quan niệm đú là quan niệm mỏy múc, siờu hỡnh về tự nhiờn, phõn chia giới tự nhiờn thành những bộ phận cỏ biệt, riờng lẻ, cỏch xem xột đú được cố định trong phương phỏp tư duy siờu hỡnh; Đến lượt nú, quan niệm mỏy múc, siờu hỡnh về thế giới lại bị thay thế bởi sự tỏi tạo một cỏch tổng hợp bức tranh về thế giới trong tớnh toàn vẹn của nú, trờn cơ sở những kết quả đạt được của nhận thức khoa học đó đạt được từ trước tới đú. Cựng với sự thay thế đú là chuyển biến từ phương phỏp tư duy siờu hỡnh sang phương phỏp tư duy biện chứng. Lụ gớc sự vận động phỏt triển theo quy luật nội tại của phương phỏp tư duy trong khoa học tự nhiờn như trờn, hoàn toàn trựng hợp với quy luật phỏt triển nội tại của triết học duy vật, lụ gớc của sự phỏt triển trong triết học duy vật đú là: Hỡnh thức đầu tiờn trong lịch sử triết học duy vật là hỡnh thức chủ nghĩa duy vật nguyờn thuỷ mộc mạc và phộp biện chứng tự phỏt, tương ứng với những quan niệm về tự nhiờn của cỏc nhà triết học và khoa học tự nhiờn thời cổ đại Hy lạp. Hỡnh thức thứ hai là chủ nghĩa duy vật Anh – Phỏp thế kỷ 17-18 (kể cả triết học duy vật của Phoi-ơ-bắc ), về cơ bản là mỏy múc siờu hỡnh và khụng triệt để; tương ứng với quan niệm này về tự nhiờn là phương phỏp siờu hỡnh, xem xột sự vật hiện tượng trong trạng thỏi cụ lập và đứng yờn của chỳng, ở bờn ngoài mọi mối liờn hệ và phủ nhận mọi sự phỏt triển. Hỡnh thức thứ ba, là chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mỏc – kết quả tất yếu của sự phỏt triển của khoa học tự nhiờn hiện đại, - đó vạch ra được phộp biện chứng khỏch quan, xem xột giới tự nhiờn trong mối liờn hệ phổ biến và phỏt triển của múi sự vật hiện tượng, tuõn theo những nguyờn lý và quy luật của phộp biện chứng duy vật do triết học Mỏc xớt phỏt hiện ra, khoa học về mối liờn hệ phổ biến của sự vật và hiện tượng, về những quy luật vận động và phỏt triển chung nhất của khoa học tự nhiờn, xó hội và tư duy con người. Túm lại, trong quỏ trỡnh vận động và phỏt triển của mỡnh, giữa triết học và khoa học tự nhiờn cú mối quan hệ gắn bú hữu cơ, tỏc động qua lại lẫn nhau, thỳc đẩy nhau cựng phỏt triển. Những thành tựu to lớn và phong phỳ của khoa học tự nhiờn cận đại đó vạch ra phộp biện chứng khỏch quan của tự nhiờn “ giới tự nhiờn là hũn đỏ thử vàng của phộp biện chứng ” C.Mỏc và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1994, tập 20, trang 38. Do đú, đối với triết học việc quay trở lại với tinh thần biện chứng là hoàn toàn hợp với quy luật phỏt triển tất yếu của nú. Và triết học cổ điển Đức, ngay từ đầu đó xõy dựng theo tinh thần đú, mà đỉnh cao của triết học cổ điển Đức là hệ thống triết học của Hờ-ghen “ trong đú lần đầu tiờn – và đõy là cụng lớn nhất của ụng – toàn bộ giới tự nhiờn, lịch sử và tinh thần được trỡnh bầy như là một quỏ trỡnh, nghĩa là luụn luụn vận động, biến đổi, biến hoỏ và phỏt triển, và ụng cố vạch ra mối liờn hệ nội tại của sự vận động và sự phỏt triển ấy.” C.Mỏc và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1994, tập 20, trang 39-40. Nhưng, Hờ-ghen là nhà duy tõm, do đú, phộp biện chứng của ụng là phộp biện chứng của tư duy, biện chứng của chủ quan chẳng qua chỉ là sự phản ỏnh của biện chứng khỏch quan vào trong đầu úc con người, mà đối với Hờ-ghen, ụng đó coi chớnh biện chứng của khỏch quan, của giới tự nhiờn là sự phản ỏnh, sao chộp lại biện chứng của tư duy, của “ ý niệm tuyệt đối ”; mặt khỏc, Hờ-ghen cũn cú tham vọng xõy dựng một “ hệ thống triết học tuyệt đớch cuối cựng ” với tư cỏch là “ khoa học của mọi khoa học,” do đú, trong bản thõn triết học Hờ-ghen đó chứa đựng mõu thuẫn – mõu thuẫn giữa phương phỏp là biện chứng với hệ thống là siờu hỡnh. Chớnh vỡ vậy mà phương phỏp biện chứng của Hờ-ghen hoàn toàn khụng thể phự hợp với những thành tựu của khoa học tự nhiờn, khụng thể trở thành phương phỏp tư duy phổ biến cú ý nghĩa khoa học đối với khoa học tự nhiờn hiện đại được. Để khắc phục những mõu thuẫn ấy, triết học phải quay trở lại với chủ nghĩa duy vật, nhưng hoàn toàn khụng thể là chủ nghĩa duy vật siờu hỡnh, phiến diện, mà đú phải là một triết học duy vật hiện đại – chủ nghĩa duy vật biện chứng “ chủ nghĩa duy vật hiện đại tổng hợp những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiờn, mà theo đú thỡ giới tự nhiờn cũng cú lịch sử của bản thõn nú trong thời gian, những thiờn thể cũng nảy sinh và diệt vong giống như tất cả những loài hữu cơ sống trờn những thiờn thể ấy trong những điều kiện thuận lợi, và những vũng tuần hoàn, trong chừng mực núi chung cú thể diễn ra, cũng cú những quy mụ vụ cựng lớn hơn. Trong hai trường hợp ấy, chủ nghĩa duy vật hiện đại về bản chất là biện chứng, và nú khụng cần đến bất cứ một triết học nào đứng trờn cỏc khoa học khỏc.” C.Mỏc và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1994, tập 20, trang 42. Như vậy, chủ nghĩa duy vật hiện đại – chủ nghĩa duy vật biện chứng phải khắc phục tớnh chất mỏy múc, siờu hỡnh của chủ nghĩa duy vật cũ, đồng thời phải cải tạo và cú tiếp thu, phờ phỏn phộp biện chứng duy tõm của Hờ-ghen, làm cho nú thoỏt khỏi cỏi vỏ duy tõm thần bớ. Đú chớnh là bước ngoặt cỏch mạng vĩ đại trong lịch sử triết học do C.Mỏc – Ph.Ăng-ghen thực hiện. Quay trở lại phộp biện chứng và chủ nghĩa duy vật một cỏch tự giỏc, C.Mỏc – Ph.Ăng-ghen đó phỏt triển triết học duy vật và phộp biện chứng lờn đỉnh cao của nú, đồng thời hai ụng đó đem lại cho thời đại của chỳng ta núi chung, khoa học tự nhiờn núi riờng một thế giới quan, phương phỏp luận triết học duy nhất khoa học – chủ nghĩa duy vật biện chứng về tự nhiờn và lịch sử – triết học của chủ nghĩa Mỏc. Triết học Mỏc xớt đó khắc phục, bỏc bỏ quan niệm duy tõm siờu hỡnh của Hờ-ghen về giới tự nhiờn, khi mà ụng ta phủ nhận sự phỏt triển của vật chất, coi đú chỉ là sự phỏt triển trong khụng gian, khụng cú sự phỏt triển trong thời gian. Từ những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiờn, C.Mỏc – Ph.Ăng-ghen đó vạch ra tớnh chất biện chứng khỏch quan của tự nhiờn. Đồng thời triết học Mỏc xớt cũng đó khắc phục tớnh khụng triệt để của Hờ-ghen trong quan niệm về xó hội, khi Hờ-ghen chỉ thừa nhận sự phỏt triển của xó hội ở trong quỏ khứ, phủ nhận sự phỏt triển của xó hội ở trong hiện tại và tương lai; cho rằng nhà nước Phổ là sự phỏt triển cao nhất của hỡnh thức nhà nước. Khỏi quỏt những tinh hoa trong lịch sử tư tưởng, C.Mỏc –Ph.Ăng-ghen đó vạch rừ sự phỏt triển của tự nhiờn, xó hội là khụng giới hạn, trong quỏ khứ cũng như trong hiện tại và tương lai. Trong xó hội cú giai cấp động lực phỏt triển xó hội là đấu tranh giai cấp. Cựng vơi đú, triết học Mỏc xớt đó vận dụng phộp biện chứng vào trong lĩnh vực tư duy, xõy dựng nờn học thuyết sõu sắc và triệt để về nhận thức: lý luận nhận thức và lụ gớc học của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Như vậy, triết học Mỏc xớt – chủ nghĩa duy vật hiện đại, là hỡnh thức chủ nghĩa duy vật hoàn toàn tương ứng, phự hợp với trỡnh độ phỏt triển của khoa học tự nhiờn hiện đại. Nú đó giỳp cho khoa học tự nhiờn loại trừ ra khỏi mỡnh mọi ảnh hưởng của chủ nghĩa duy tõm thần bớ, siờu hỡnh. Nú đó gạt bỏ mọi tham vọng của mọi thứ triết học cú tham vọng trở thành “ khoa học của mọi khoa học,” muốn thõu túm mọi ngành khoa học, mọi kiến thức khoa học của nhõn loại thành một bộ phận của “ hệ thống triết học.” Cũng như mọi khoa học khỏc, triết học Mỏc xớt cú đối tượng nghiờn cứu độc lập của mỡnh: giải quyết mối quan hệ vật chất – ý thức, theo quan điểm duy vật biện chứng, nghiờn cứu những mối liờn hệ phổ biến, những quy luật vận động phỏt triển chung nhất của tự nhiờn, xó hội và tư duy con người, Với tư cỏch là thế giới quan, phương phỏp, triết học Mỏc xớt đó xõy dựng nờn lý luận nhận thức duy vật biện chứng, một phương phỏp tư duy khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới bằng thực tiễn cỏch mạng “ vấn đề là cải tạo thế giới.” Từ những thành tựu to lớn của khoa học tự nhiờn, đặc biệt là từ những phỏt minh khoa học cú tớnh chất vạch thời đại, xu hướng phỏt triển tất yếu của khoa học tự nhiờn là phải quay trở lại với phộp biện chứng. Ph.Ăng-ghen đó khẳng định: đối với cỏc nhà khoa học tự nhiờn hiện nay khụng cũn con đường nào khỏc là phải từ bỏ tư duy siờu hỡnh quay về với tư duy biện chứng, vỡ “ phộp biện chứng trở thành một sự cần thiết tuyệt đối,” đối với khoa học tự nhiờn và “ chỉ cú phộp biện chứng mới cú thể giỳp cho khoa học tự nhiờn vượt khỏi những khú khăn về lý luận.” C.Mỏc và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1994, tập 20, trang 489. Bởi vỡ, “ chớnh phộp biện chứng là một hỡnh thức tư duy quan trọng nhất đúi với khoa học tự nhiờn hiện đại, bởi vỡ chỉ cú nú mới cú thể đem lại sự tương đồng và do đú đem lại phương phỏp giải thớch những quỏ trỡnh phỏt triển diễn ra trong giới tự nhiờn, giải thớch những mối liờn hệ phổ biến, những bước quỏ độ từ một lĩnh vực nghiờn cứu này sang một lĩnh vực nghiờn cứu khỏc.” C.Mỏc và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1994, tập 20, trang 488. ở đõy, Ph.Ăng-ghen cũn chỉ rừ, cỏc nhà khoa học tự nhiờn cú thể quay trở lại với phộp biện chứng bằng hai con đường: một là, quay trở lại một cỏch tự phỏt bằng sức mạnh của những phỏt minh trong bản thõn khoa học tự nhiờn “ nhưng đú là một quỏ trỡnh lõu dài và khú khăn, trong đú cần phải vượt qua rất nhiều sự va chạm vụ ớch;” hai là, quay trở lại phộp biện chứng một cỏch tự giỏc, tức là nắm lấy phộp biện chứng với cỏc hỡnh thức khỏc nhau của nú, đú là phộp biện chứng duy vật cổ đại và phộp biện chứng duy vật hiện đại – phộp biện chứng Mỏc xớt - đỉnh cao của phộp biện chứng – nhất là khi chủ nghĩa duy vật đó trở thành chủ nghĩa duy vật biện chứng, và trong mối liờn hệ chặt chẽ với khoa học tự nhiờn hiện đại, nú đó khụng ngừng phỏt huy về mặt chức năng về mặt thế giới quan và phương phỏp luận đối với khoa học tự nhiờn, ngược lại, nú cũng khụng ngừng được những thành tựu khoa học mới ngày càng nhiều bổ xung, làm giàu nội dung cho nú và chứng minh cho tớnh chõn lý phổ biến của nú. Khoa học tự nhiờn trong thời kỳ này, do chớnh sự phỏt triển của bản thõn khoa học, đó xuất hiện mõu thuẫn cơ bản, đú là mõu thuẫn giữa một bờn là nội dung khỏch quan của khoa học tự nhiờn đó vạch rừ phộp biện chứng của tự nhiờn, gạt bỏ phộp siờu hỡnh cũ với một bờn là tư tưởng chủ quan của bản thõn cỏc nhà khoa học tự nhiờn chưa thoỏt khỏi phộp siờu hỡnh cũ và cú thỏi độ thự định với phộp biện chứng một cỏch cú ý thức, điển hỡnh là Ph.răng-xi Bờ-cơn và I.xắc Niu-tơn. Cú nhiều nhà khoa học tự nhiờn đó nghĩ rằng, họ cú thể thoỏt khỏi triết học, theo họ bản thõn khoa học tự nhiờn đó cú triết học rồi nờn đó “ khụng để ý đến nú hoặc phỉ bỏng nú,” C.Mỏc và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1994, tập 20, trang 692. nhưng thực ra, họ khụng thể thoỏt ra ngoài triết học được vỡ dự muốn hay khụng người ta cũng phải suy nghĩ, do đú, “ rỳt cục lại, họ vẫn lệ thuộc vào triết học, và đỏng tiếc, thường là thứ triết học tồi tệ nhất. Những ai phỉ bỏng triết học nhiều nhất lại chớnh là những kẻ nụ lệ của những tàn tớch thụng tục hoỏ, tồi tệ nhất của những học thuyết triết học tồi tệ nhất.” C.Mỏc và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1994, tập 20, trang 692 - 693. Mặt khỏc, trong khi giải thớch cú tớnh chất lý luận cỏc hiện tượng tự nhiờn, khoa học tự nhiờn liờn quan mật thiết với triết học, vỡ khụng cú một sự khỏi quỏt khoa học nào lại khụng dựa vào cỏc khỏi niệm khoa học và cỏc phộp lụ gớc; “ trong lĩnh vực này những phương phỏp kinh nghiệm trở nờn bất lực, chỉ cú tư duy lý luận mới cú thể giỳp ớch được,” C.Mỏc và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1994, tập 20, trang 487. bởi vậy, “ một dõn tộc muốn đứng vững trờn đỉnh cao của khoa học thỡ khụng thể khụng cú tư duy lý luận.” C.Mỏc và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1994, tập 20, trang 489. Khụng cú tư duy lý luận thỡ khoa học tự nhiờn sẽ khụng thể phỏt triển đi lờn được, mà nú sẽ dẫn tới khủng hoảng, sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tõm, tụn giỏo, mà muốn cú tư duy thỡ cần phải cú những phạm trự, khỏi niệm lụ gớc ở trong những hệ thống triết học khỏc nhau và sẽ là sai lầm nếu khụng chịu nghiờn cứu và đứng vững trờn lập trường triết học duy vật biện chứng. Sự khỏi quỏt về mặt lý luận trong khoa học tự nhiờn càng lớn, càng rộng rói bao nhiờu thỡ nú càng cần phải gắn bú chặt chẽ với triết học bấy nhiờu, nghĩa là giữa triết học và khoa học tự nhiờn cú sự thống nhất, cú mối liờn hệ khăng khớt với nhau, do đú, “ dự những nhà khoa học tự nhiờn cú làm gỡ đi nữa thỡ họ cũng vẫn bị triết học chi phối.” C.Mỏc và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1994, tập 20, trang 693. Khinh miệt triết học, khinh miệt phộp biện chứng duy vật thỡ nhất định sẽ bị trừng phạt, sẽ bị trả giỏ; họ sẽ trở thành những kẻ nụ lệ, sẽ sa vào những chỗ dị đoan, ngu xuẩn nhất, sa vào thần linh học, tức là “ triết học đó trả mối di thự đúi với khoa học tự nhiờn vỡ khoa học tự nhiờn đó bỏ rơi nú,” C.Mỏc và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1994, tập 20, trang 686. bởi họ khụng thấy được rằng với những thành tựu của triết học trong khoa học tự nhiờn, “ trong toàn bộ triết học ấy, cú cỏi gỡ đú vượt hẳn họ ngay trong lĩnh vực chuyờn mụn của họ.” C.Mỏc và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1994, tập 20, trang 686. Trong tỏc phẩm “ Biện chứng của tự nhiờn ” Ph.Ăng-ghen đó dẫn ra hai trường hợp nhà khoa học điển hỡnh, do khụng cú tư duy biện chứng duy vật nờn đó rơi vào chủ nghĩa duy tõm tụn giỏo: “ nhà khoa học tự nhiờn đầu tiờn trong số cỏc nhà khoa học tự nhiờn ấy là nhà động vật học kiờm thực vật học siờu việt An-phrết Rớt-xen Oa-lờ-xơ, là người đó cựng với Đỏc-uyn nờu lờn lý luận về sự biến dị của cỏc loài thụng qua sự chọn lọc của tự nhiờn.” C.Mỏc và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1994, tập 20, trang 496 – 497. Người thứ hai, “ là ụng Uy-li-am Crỳc-cơ, người đó tỡm ra một chất hoỏ học, chất ta-li-om và phỏt minh ra mỏy ra-đi-ụ-met.” C.Mỏc và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1994, tập 20, trang 502. Nguyờn nhõn của những sai lầm trờn và con đường từ khoa học tự nhiờn sang chủ nghĩa duy tõm thần bớ rất dễ nhận ra: “ ở đõy người ta đó thấy hai năm rừ mười rằng con đường chắc chắn nhất từ khoa học tự nhiờn tới chủ nghĩa duy tõm thần bớ là con đường nào. Đú khụng phải là sự phỏt triển dồn dập về lý luận của cỏc nhà triết học tự nhiờn mà là chủ nghĩa kinh nghiệm nụng cạn nhất, khinh thường mọi lý luận, khụng tin vào mọi tư duy.” C.Mỏc và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1994, tập 20, trang 507. Chủ nghĩa kinh nghiệm nụng cạn, hẹp hũi làm cho người ta nghĩ sai, làm cho người ta khụng thể theo dừi sự kiện một cỏch trung thành và và làm cho người ta khụng cú khả năng khỏi quỏt, rỳt ra những kết luận cần thiết, mà thường bị cỏc sự kiện chi phối để rồi tuyệt đối hoỏ một sự kiện nào đú một cỏch mự quỏng “ chủ nghĩa kinh nghiệm ấy đó mất hết khả năng mụ tả những sự kiện một cỏch trung thực vỡ sự giải thớch theo lối cổ truyền đó len lỏi vào trong việc mụ tả ấy rồi.” C.Mỏc và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1994, tập 20, trang 602. Vỡ vậy, Ph.Ăng-ghen khuyờn cỏc nhà khoa học tự nhiờn cần phải tỡm hiểu nghiờn cứu và nắm vững triết học, vỡ triết học tiờn tiến bao giờ cũng chỉ cú lợi cho khoa học tự nhiờn, nú giỳp cho người ta trong việc rốn luyện tư duy; ý nghĩa to lớn của triết học cũn ở chỗ, nú giỳp cho cỏc nhà khoa học tự nhiờn đi sõu vào những cỏi chưa biết, chưa được nhận thức. Trong việc rốn luyện tư duy lý luận thỡ lịch sử triết học cú vai trũ rất lớn, bởi vỡ năng lực “ tư duy lý luận chỉ là một đặc tớnh bẩm sinh,” tồn tại dưới dạng khả năng, nghĩa là, năng lực tư duy ấy cần được rốn luyện và “ phỏt triển hoàn thiện, và muốn hoàn thiện nú thỡ cho tới nay, khụng cú cỏch nào khỏc hơn là phải nghiờn cứu toàn bộ triết học thời trước đú.” C.Mỏc và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1994, tập 20, trang 487. Khụng hiểu lịch sử triết học người ta rất dễ sa vào những sai lầm khụng đỏng cú. Ph.Ăng-ghen đó đưa ra rất nhiều dẫn chứng cụ thể để chứng minh rằng trong tiến trỡnh phỏt triển của tư tưởng loài người, nhiều khi triết học đi trước khoa học tự nhiờn, cú khi đi trước hàng trăm năm, vớ như, tư tưởng của Đề-cỏc-tơ về bảo tồn năng lượng vận động trong vũ trụ, mói tới thế kỷ 19 mới được chứng minh, hoặc trường hợp ễ-ken “ bằng con đừng tư duy ễ-ken đó phỏt hiện ra chất nguyờn sinh và tế bào, nhưng khụng ai cú ý nghĩ tiếp tục nghiờn cứu vấn đề ấy bằng con đường của khoa học tự nhiờn, tư duy phải giải quyết vấn đề ấy! Thế mà khi chất nguyờn sinh và tế bào được khỏm phỏ ra, thỡ mọi người đều quay lưng lại ễ-ken!” C.Mỏc và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1994, tập 20, trang 689. Từ đú, Ph.Ăng-ghen đó đưa ra một kết luận rất quan trọng cho khoa học tự nhiờn: “ dự những nhà khoa học tự nhiờn cú làm gỡ đi nữa thỡ họ cũng vẫn bị triết học chi phối. Vấn đề chỉ ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi một thứ triết học tồi tệ hợp mốt, hay họ muốn được hướng dẫn bởi một hỡnh thức tư duy lý luận dựa trờn sự hiểu biết về lịch sử tư tưởng và những thành tựu của nú.” C.Mỏc và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1994, tập 20, trang 693. Khi phõn tớch hiện trạng của khoa học ở thời mỡnh, với những thành tựu to lớn mà khoa học đó đạt được, Ph.Ăng-ghen đó chỉ rừ rằng: những thành tựu của khoa học tự nhiờn đó phỏ vỡ chõn trời chật hẹp của phương phỏp tư duy siờu hỡnh, nú đũi hỏi một chõn trời rộng mở, sỏng sủa hơn cho sự phỏt triển của khoa học tự nhiờn đú là phương phỏp tư duy biện chứng “ người ta cú thể đạt đến quan điểm biện chứng do đú những sự kiện thực tế đang tớch luỹ lại của khoa học tự nhiờn bắt buộc; Khoa học tự nhiờn cũng tiến xa đến mức nú khụng thể trỏnh được sự tổng hợp biện chứng.” C.Mỏc và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1994, tập 20, trang 27. Cựng với đú, Ph.Ăng-ghen cũng đó chỉ ra một mõu thuẫn mà khoa học lỳc bấy giờ đang gặp phải, đú là mõu thuẫn giữa lối tư duy cũ kỹ mà ụng gọi là “ phương thức tư duy cổ truyền ” của cỏc nhà khoa học và nội dung của những thành tựu, phỏt minh mới trong khoa học. Do vậy, cần phải khắc phục mõu thuẫn ấy, nghĩa là phải thay đổi phương phỏp tư duy, khoa học tự nhiờn sẽ “ thoỏt khỏi cỏi phương phỏp tư duy hạn chế của chớnh nú, do chủ nghĩa kinh nghiệm Anh để lại ” C.Mỏc và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1994, tập 20, trang 28. và “ chỉ khi nào khoa học tự nhiờn và khoa học lịch sử thấm nhuần được phộp biện chứng thỡ khi đú, toàn bộ mún hàng cũ rớch sẽ trở nờn thừa, và sẽ tiờu tan đi trong khoa học thực nghiệm.” C.Mỏc và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1994, tập 20, trang 693. Làm được điều đú thỡ sẽ loại bỏ được cỏi đang cản trở, đang kỡm hóm sự phỏt triển của khoa học tự nhiờn. ở đõy, Ph.Ăng-ghen cũn đề cập đến một khuynh hướng trong mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiờn, đú là , cựng với sự tiến bộ của khoa học thỡ nhà khoa học phải bước vào lĩnh vực lý luận, cũn nhà triết học phải thụng hiểu khoa học tự nhiờn: “ những thành tựu khoa học tự nhiờn hiện đại đó chẳng bắt buộc bất kỳ một người nào nghiờn cứu cỏc vấn đề lý luận cũng phải thừa nhận chỳng, bắt buộc với một sức mạnh khiến cỏc nhà khoa học tự nhiờn hiện đại, - dự họ muốn hay khụng – phải tiến tới những kết luận lý luận chung, đú sao? ở đõy, cú một sự bự trừ nhất định. Nếu những nhà lý luận là những người nửa thụng thỏi trong lĩnh vực khoa học tự nhiờn thỡ cỏc nhà khoa học tự nhiờn ngày nay, trong một mức độ như thế, cũng thực sự là những người nửa thụng thỏi trong lĩnh vực lý luận, trong lĩnh vực của cỏi mà cho tới nay người ta gọi là triết học.” C.Mỏc và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1994, tập 20, trang 486 – 487. Như vậy, từ sự phõn tớch mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiờn, Ph.Ăng-ghen đó chỉ ra và khẳng định: cỏc nhà khoa học tự nhiờn cần cú triết học, cần hiểu biết lịch sử triết học, cũn cỏc nhà triết học cần biết khoa học tự nhiờn. Một trong những yếu tố quan trọng tạo nờn sức sống bất diệt – tớnh cỏch mạng và khoa học, sỏng tạo – của triết học Mỏc xớt, đú là sự kết hợp chặt chẽ khụng tỏch rời giữa triết học và khoa học tự nhiờn. Trong khi phản ỏnh thế giới khỏch quan, sự phỏt triển và biến đổi của thế giới khỏch quan với sự chớnh xỏc cao nhất, triết học Mỏc xớt cũng được phỏt triển, được làm phong phỳ thờm, cụ thể hoỏ cựng với sự thay đổi, sư phỏt triển của thực tiễn, đặc biệt là của những thành tựu trong khoa học tự nhiờn. Khụng cú gỡ xa lạ đối với triết học Mỏc xớt, bằng quan niệm coi lý luận, triết học là tổng số những giỏo điều, những chõn lý chết cứng. Chủ nghĩa siờu hỡnh với tớnh chất cứng nhắc, mõu thuẫn với nguyờn tắc vận động mói mói và khụng ngừng của phộp biện chứng Mỏc xớt. Chủ nghĩa duy vật biện chứng đó lấy việc nghiờn cứu và khỏi quỏt những tài liệu trong mọi lĩnh vực khoa học cụ thể của tri thức loài người làm cơ sở. Tất nhiờn triết học Mỏc xớt khụng thể bỏ qua sự phỏt triển mới nhất của khoa học. Để hoàn thành tốt vai trũ là thế giới quan, phương phỏp luận nghiờn cứu thế giới hiện thực, là cụng cụ của nhận thức và hoạt động thực tiễn, triết học Mỏc xớt cần phải chỳ ý tới những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiờn, thường xuyờn tổng kết những thành tựu đú rồi căn cứ vào đú mà cụ thể hoỏ, làm phong phỳ thờm những nguyờn tắc, nguyờn lý của mỡnh. Chớnh sự gắn bú hữu cơ giữa triết học Mỏc xớt với khoa học tự nhiờn hiện đại đó tạo nờn tớnh chất sinh động sỏng tạo và cỏch mạng triệt để của triết học, mặc cho kẻ thự luụn tấn cụng từ nhiều phớa. Để bảo vệ và phỏt triển một cỏch khoa học, sỏng tạo triết học Mỏc, trong quỏ trỡnh đú. V.I.Lờnin đó đặc biệt quan tõm tới mối quan hệ giữa triết học với khoa học hiện đại. Bởi vỡ, trong thời kỳ mới những vấn đề triết học được đưa lờn hàng đầu, khụng phải vỡ những mõu thuẫn xó hội trở nờn sõu sắc mà cũn vỡ khoa học, đặc biệt là trong lĩnh vực vật lý học, điều đú được V.I.Lờnin trỡnh bầy, phõn tớch một cỏch tỉ mỉ, sõu sắc trong tỏc phẩm “ Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phờ phỏn.” Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, trong vật lý học đó diễn ra một cuộc cỏch mạng thực sự lầm thay đổi nhận thức của con người về phạm trự vật chất. Việc cỏc nhà khoa học đó tỡm ra được điện tử, tớnh phúng xạ, sự chuyển hoỏ của cỏc nguyờn tố hoỏ học, và những phỏt hiện khỏc đó làm một cuộc cỏch mạng trong quan niệm về vật chất và những đặc tớnh của vật chất vẫn giữ địa vị thống trị cho tới lỳc bấy giờ. Những quan niệm đương thời về giới hạn tột cựng của vật chất đó bị tấn cụng trực diện và

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu_luan_dv_bc_5874.doc
Tài liệu liên quan