Quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người Việt Nam hiện nay

Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học khác nhau như sinh vật học, tâm lý học, đạo đức học, y học. Nghiên cứu về con người là một vấn đề không mới lạ nhưng lại xoay quanh nhiều khía cạnh tuỳ thuộc vào đặc điểm của mỗi ngành khoa học. Con người cũng luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ đại đến trung đại.

Từ thời xa xưa cho đến thời đại ngày nay con người được xem là vị trí trung tâm và có vai trò quyết định đến sự tồn vong và phát triển của xã hội. Con người được xem là chủ thể của lịch sử xã hội, con người làm ra lịch sử xã hội. Vì vậy con người phải được tôn trọng, được sống tự do hạnh phúc và được phát triển toàn diện. Song ngày nay con người vẫn đang trong tình trạng bất công, đòi hỏi xã hội phải quan tâm đến sự phát triển của con người.

Con người cũng là mục tiêu cơ bản của sự phát triển xã hội. Để đảm bào cho xã hội phát triển vấn đề xây dựng con người giữ một vai trò hết sức quan trọng và luôn thường trực. Đặc biệt là trong quá trình toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, vai trò của con người ngày càng được khẳng định rõ nét.

Ở Việt Nam vấn đề con người cũng luôn là một vấn đề thời đại và đang được nhiều ngành khoa học, nhiều cá nhân đặc biệt quan tâm, nhất là vấn đề xây dựng con người mới trong thời đại mới.

 

doc43 trang | Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1658 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC A. Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 3. Mục đích và nhiệm vụ 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5. Ý nghĩa của đề tài 6. Bố cục của đề tài B. Phần nội dung Chương 1: Một số quan điểm trước Mác về con người 1. Quan điểm của triết học phương Đông về con người 2. Quan điểm của triết học phương Tây về con người Chương 2: Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người 1. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người 2. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về giải phóng con người Chương 3: Vấn đề xây dựng con người của nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay 1. Con người Việt Nam trong lịch sử 2. Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và vấn đề đặt ra cho con người Việt Nam 3. Vấn đề xây dựng con người Việt Nam đáp ứng giai đoạn hiện nay C. Phần kết thúc D. Danh mục tham khảo A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học khác nhau như sinh vật học, tâm lý học, đạo đức học, y học. Nghiên cứu về con người là một vấn đề không mới lạ nhưng lại xoay quanh nhiều khía cạnh tuỳ thuộc vào đặc điểm của mỗi ngành khoa học. Con người cũng luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ đại đến trung đại. Từ thời xa xưa cho đến thời đại ngày nay con người được xem là vị trí trung tâm và có vai trò quyết định đến sự tồn vong và phát triển của xã hội. Con người được xem là chủ thể của lịch sử xã hội, con người làm ra lịch sử xã hội. Vì vậy con người phải được tôn trọng, được sống tự do hạnh phúc và được phát triển toàn diện. Song ngày nay con người vẫn đang trong tình trạng bất công, đòi hỏi xã hội phải quan tâm đến sự phát triển của con người. Con người cũng là mục tiêu cơ bản của sự phát triển xã hội. Để đảm bào cho xã hội phát triển vấn đề xây dựng con người giữ một vai trò hết sức quan trọng và luôn thường trực. Đặc biệt là trong quá trình toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, vai trò của con người ngày càng được khẳng định rõ nét. Ở Việt Nam vấn đề con người cũng luôn là một vấn đề thời đại và đang được nhiều ngành khoa học, nhiều cá nhân đặc biệt quan tâm, nhất là vấn đề xây dựng con người mới trong thời đại mới. Chính vì những lí do về mặt lí luận và thực tiễn trên cùng với mối quan hệ riêng cá nhân mà tôi đã chọn đề tài: Quan điểm của triết học Mác - LêNin về con người và vấn đề xây dựng con người Việt Nam hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề con người là một vấn đề không mới và đã được rất nhiều ngành khoa học từ trước đến nay quan tâm tìm hiểu, nó cũng được nói đến rất nhiều qua sách vở, báo chí, các phương tiện thông tin. Tuy là vấn đề không mới nhưng đây là vấn đề mang tính thời đại và có ý nghĩa lớn lao đối với mọi mặt của đời sống xã hội. Ngoài ra nó cũng là một nội dung có ý nghĩa quan trọng của chủ nghĩa Mác - LêNin và của cách mạng XHCN, là vấn đề thực tiễn nóng bỏng đòi hỏi phải được giải quyết một cách đúng đắn và thận trọng. Khi làm đề tài này, bản thân tôi cũng mong muốn có một đóng góp nhỏ vào lĩnh vực trên. 3. Mục đích, nhiệm vụ Thứ nhất, tìm hiểu quan điểm của triết học phương Đông và phương Tây vầ nguồn gốc và bản chất của con người. Thứ hai, tìm hiểu quan điểm của triết học Mác - LêNin về con người từ đó có những nhân thức đúng đắn về con người trong thời đại ngày nay và chính bản thân mình. Thứ ba, tìm hiểu con người Việt Nam từ xưa đến nay và vấn đề xây dựng con người đáp ứng yêu cầu của thời đại mới. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Tiểu luận được viết nhờ trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - LêNin với phương pháp logic lịch sử, hệ thống hoá, phân tích tổng hợp và liên hệ thực tiễn. 5. Ý nghĩa của đề tài Tìn hiểu nguồn gốc và bản chất của con người trong quan điểm của triết học Mác - LêNin để từ đó rút ra được kết luận cho bản thân trong việc tự hoàn thiện mình. Mong được trao đổi ý kiến với những nguời có chung mối quan tâm, nhất là đối với thế hệ trẻ hiện nay trong việc hoàn thiện bản thân đáp ứng yêu cầu của thời đại mới. 6. Bố cục của đề tài Đề tài gồm có ba chương: Chương 1: Một số quan điểm trước Mác về con người Chương 2: Quan điểm triết học của chủ nghĩa Mác - LêNin về con người Chương 3: Vấn đề xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. B. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I MỘT SỐ QUAN ĐIỂM TRƯỚC MÁC VỀ CON NGƯỜI Có thể nói vấn đề con người là một trong những vấn đề quan trọng nhất của thế giới từ trước tới nay. Đó là vấn đề mà luôn được các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu phân tích một cách sâu sắc nhất. Không những thế trong nhiều đề tài khoa học của xã hội xưa và nay thì đề tài con người là một trung tâm được các nhà nghiên cứu cổ đại đặc biệt chú ý. Các lĩnh vực tâm lý học, sinh học, y học, triết học, xã hội học v.v...Từ rất sớm trong lịch sử đã quan tâm đến con người và không ngừng nghiên cứu về nó. Mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó đều có ý nghĩa riêng đối với sự hiểu biết và làm lợi cho con người. Hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, lĩnh vực triết học lại có nhiều mâu thuẫn trong quan điểm, nhận thức và nó đã gây nên sự đấu tranh không biết khi nào dừng. Những lập trường chính trị trình độ nhận thức và tâm lý của những người nghiên cứu khác nhau và do đó đã đưa ra những tư tưởng hướng giải quyết khác nhau. Khi đề cập tới vấn đề con người các nhà triết học đều tự hỏi: Thực chất con người là gì và để tìm cách trả lời câu hỏi đó phải giải quyết hàng loạt mâu thuẫn trong chính con người. Khi phân tích các nhà triết học cổ đại coi con người là một tiểu vũ trụ, là một thực thể nhỏ bé trong thế giới rộng lớn, bản chất con người là bản chất vũ trụ. Con người là vật cao quý nhất trong trời đất, là chúa tể của muôn loài, chỉ đứng sau thần linh. Con người được chia làm hai phần là phần xác và phần hồn. Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo thì cho rằng: Phần hồn là do thượng đế sinh ra, quy định, chi phối mọi hoạt động của phần xác, linh hồn con người tồn tại mãi mãi. Chủ nghĩa duy vật thì ngược lại họ cho rằng phần xác quyết định và chi phối phần hồn, không có linh hồn nào là bất tử cả, và quá trình nhận thức đó không ngừng được phát hiện. Càng ngày các nhà triết học tìm ra được bản chất của con người và không ngừng khắc phục lý luận trước đó. Triết học thế kỷ XV - XVIII phát triển quan điểm triết học về con người trên cơ sở khoa học tự nhiên đã khắc phục và bắt đầu phát triển. Chủ nghĩa duy vật máy móc coi con người như một bộ máy vận động theo một quy luật cổ. Học chủ nghĩa duy tâm chủ quan và thuyết không thể biết một mặt coi cái tôi và cảm giác của cái tôi là trung tâm sáng tạo ra cái không tôi, mặt khả cho rằng cái tôi không có khả năng vượt quá cảm giác của mình nên về bản chất là nhỏ bé yếu ớt, phụ thuộc đấng tới cao. Các nhà triết học thuộc một mặt đề cao vai trò sáng tạo của lý tính người, mặt khác coi con người, mặt khác coi con người là sản phẩm của tự nhiên và hoàn cảnh. Các nhà triết học cổ điển Đức, từ Cartơ đến Heghen đã phát triển quan điểm triêt học về con người theo hướng của chủ nghĩa duy tâm. Đặc biệt Heghen quan niệm con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối là con người ý thức và do đó đời sống con người chỉ được xem xét về mặt tinh thần song Heghen cũng là người đầu tiên thông qua việc xem xét cơ chế hoạt động của đời sống tinh thần mà phát hiện ra quy luật về sự phát triển của đời sống tinh thần cá nhân. Đồng thời Heghen cũng đã nghiên cứu bản chất quá trình tư duy khái quát các quy luật cơ bản của quá trình đó. Sau khi đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm Heghen, Phơ bách đã phê phán tính siêu tự nhiên, phi thể xác trong quan niệm triết học Heghen, ông quan niệm con người là sản phẩm của tự nhiên, có bản năng tự nhiên, là con người sinh học trực quan, phụ thuộc vào hoàn cảnh, ông đã sử dụng thành tựu của khoa học tự nhiên để chứng minh mối liên hệ không thể chia cắt của tư duy với những quá trình vật chất diễn ra trong cơ thể con người, song khi giải thích con người trong mối liên hệ cộng đồng thì Phơ bách lại rơi vào lập trường của chủ nghĩa duy tâm. Tóm lại, các quan niệm triết học nói trên đã đi đến những các thức lý luận xem xét người một cách trừu tượng. Đó là kết quả của việc tuyệt đối hoá phần hồn thành con người trừu tượng. Tự ý thức còn chủ nghĩa duy vật trực quan thì tuyệt đối hoá phần xác thành con người trừu tượng tuy nhiên họ vẫn còn nhiều hạn chế, các quan niệm nói trên đều chưa chú ý đầy đủ đến bản chất con người. Sau này chủ nghĩa Mác đã kế thừa và khắc phục những mặt hạn chế đó, đồng thời phát triển những quan niệm về con người đã có trong các học thuyết triết học trước đây để đi tới quan niệm về con người thiện thực, con người thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội với tư cách là con người hiện thực. Con người vừa là sản phẩm của tự nhiên và xã hội đồng thời vừa là chủ thể cải tạo tự nhiên. 1. Quan điểm của triết học phương Đông về con người Những vấn đề triết học về con người là một nội dung lớn trong lịch sử triết học nhân loại. Đó là những vấn đề: Con người là gì? Bản tính, bản chất con người? Mối quan hệ giữa con người và thế giới? Con người có thể làm gì để giải phóng mình, đạt tới tự do?.... Đây cũng chính là nội dung cơ bản của nhân sinh quan - một nội dung cấu thành thế giới quan triết học. Tuỳ theo điều kiện lịch sử của mỗi thời đại mà nổi trội lên vấn đề này hay vấn đề kia. Đồng thời, tuỳ theo giác độ tiếp cận khác nhau mà các trường phái triết học, các nhà triết học trong lịch sử có những phát hiện, đóng góp khác nhau trong việc lý giải về con người. Mặt khác trong khi giải quyết những vấn đề trên, mỗi nhà triết học, mỗi trường phái triết học có thể lại đứng trên lập trường thế giới quan, phương pháp luận khác nhau: Duy vật hoặc duy tâm, biện chứng hoặc siêu hình... Trong nền triết học Trung Hoa suốt chiều dài lịch sử trên hai ngàn năm cổ - trung đại, vấn đề bản tính con người là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Giải quyết vấn đề này, các nhà tư tưởng của Nho gia và Pháp gia đã tiếp cận từ giác độ hoạt động thực tiễn chính trị, đạo đức của xã hội và đi đến kết luận bản tính người là Thiện (Nho gia) và bản tính người là Bất Thiện (Pháp gia). Các nhà tư tưởng của Đạo gia, ngay từ Lão tử thời Xuân Thu, lại tiếp cận giải quyết vấn đề bản tính người từ giác độ khác và đi tới kết luận bản tính Tự Nhiên của con người. Sự khác nhau về giác độ tiếp cận và với những kết luận khác nhau về bản tính con người đã là tiền đề xuất phát cho những quan điểm khác nhau của các trường phái triết học này trong việc giải quyết các vấn đề về quan điểm chính trị, đạo đức và nhân sinh của họ. Khác với nền triết học Trung Hoa, các nhà tư tưởng của các trường phái triết học Ấn độ mà tiêu biểu là trường phái Đạo Phật lại tiếp cận từ giác độ khác, giác độ suy tư về con người và đời người ở tầm chiều sâu triết lý siêu hình (siêu hình học) đối với những vấn đề nhân sinh quan. Kết luận về bản tính Vô ngã, Vô thường và tính hướng thiện của con người trên con đường truy tìm sự Giác Ngộ là một trong những kết luận độc đáo của triết học Đạo Phật. Nhìn chung quan điểm về con người trong triết học phương Đông thể hiện rất phong phú nhưng mang nặng tính duy tâm. Các học thuyết ấy lấy đạo đức làm nền tảng để giải quyết những vấn đề trong cuộc sống. Song các chuẩn mực đạo đức, các quan điểm về bản tính con người, đạo làm người và hình mẫu con người lại rất đa dạng chứa đựng những tư tưởng giống nhau, khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Những tư tưởng này tồn tại lâu dài trong lịch sử và giữ vai trò nền tảng cho thế hệ sau tiếp tục hoàn thiện để thể hiện quan điểm của mình. 2. Quan điểm của triết học phương Tây về con người Quan điểm về con người trong triết học phương Tây thể hiện ở hai khuynh hướng duy vật và duy tâm qua thời đại cổ, thời trung cổ, thời phục hưng và cận đại, thời hiện đại. Trong suốt chiều dài lịch sử triết học phương Tây đến nay những vấn đề triết học về con người vẫn là một đề tài tranh luận chưa chấm dứt. Thực tế lịch sử đã cho thấy giác độ tiếp cận giải quyết các vấn đề triết học về con người trong nền triết học phương Tây có nhiều điểm khác với nền triết học phương Đông. Nhìn chung, các nhà triết học theo lập trường triết học duy vật đã lựa chọn giác độ khoa học tự nhiên để lý giải về bản chất con người và các vấn đề khác có liên quan. Thời cổ đại các nhà triết học duy vật đã từng đưa ra quan niệm về bản chất vật chất tự nhiên của con người, coi con người cũng như vạn vật trong giới tự nhiên không có gì thần bí, đều được cấu tạo nên từ vật chất. Tiêu biểu cho quan điểm của con người ở phương Tây cổ đại là những tư tưởng của người Hy Lạp. Ở Hy Lạp các nhà duy vật đầu tiên đã coi con người như một bộ phận cấu thành thế giới. Xuất phát từ quan điểm thế giới do một số chất tạo nên, các nhà duy vật thời kì này cũng quan niệm con người được bắt nguồn từ một hay một số chất đó. Ví dụ: TaLet xem chất đó là nước, Heraclit xem chất đó là lửa, Anaximen xem chất đó là không khí. Empêđốclơ, Lơxíp, Đêmôcrít là những người tiêu biểu cho quan điểm duy vật thời kì này. Empêđốclơ cho rằng nguồn gốc của thế giới là lửa, không khí, đất và nước. Những yếu tố này hoà hợp với nhau, trải qua bốn thời kì tiến hoá đã sinh ra sự sống. Mọi sức sống đều có lí tính nhưng con người là sự sống có lí tính cao nhất thông minh nhất. Lơxíp và Đêmôcrít cho rằng bản nguyên của thế giới là nguyên tử nên ông cũng khẳng định con người là sản phẩm của sự kết hợp các nguyên tử. Con người có linh hồn, song linh hồn cũng do các nguyên tử tạo nên và một số yếu tố của linh hồn ấy là nhu cầu và tưởng tượng đã dạy bảo bàn tay con người hoạt động để đưa con người từ mông muội đến văn minh. Chủ nghĩa duy tâm lại truy tìm nguồn gốc và bản chất của con người từ những lực lượng siêu tự nhiên. Tiêu biểu cho quan điểm này là Xôcrat và Platôn. Xôcrat cho rằng thế giới do thần tạo ra và đã an bài. Con người không nên tìm hiểu thế giới vì như thế là xúc phạm thần mà con người hãy tự hiểu về bản thân mình. Platôn cho rằng ý niệm có trước tất cả, là nguồn gốc của tấ cả. Ý niệm tồn tại vĩnh viễn và bất biến. Con người gồm hai phần độc lập với nhau là thể xác và linh hồn. Thể xác được tạo thành từ đất, nước, lửa, không khí nên có thể mất đi. Khi con người chết, linh hồn thoát khỏi thể xác về với thế giới ý niệm của mình để đến một lúc nào đấy linh hồn lại nhập vào một thể xác mới tạo ra một người mới. Nhân thức của con người là sự hồi tưởng lại những gì mà ý niệm đã có. Thời trung cổ Đây là thời kì hệ tư tưởng cơ đốc giáo giữ vai trò thống trị nên quan điểm về vái trò của Chúa Trời cũng là vai trò thống trị. Tômát Đacanh là người tiêu biểu cho tư tưởng ở thời kì này. Tômát Đacanh quan niệm thế giới do Chúa Trời sáng tạo ra từ hư vô và con người là hình ảnh của Chúa được Chúa đặt sống ở trung tâm vũ trụ. Con người có thể xác và linh hồn bất tử. Linh hồn này được Chúa tạo ra cùng sự tạo ra thể xác con người. Chúa sắp xếp thế giới theo trật tự từ các sự vật không có linh hồn đến con người, thần thánh và cao nhất là Chúa. Đây là trật tự chặt chẽ và bất biến. Quan điểm về con người nói riêng và triết học của Tômát Đacanh nói chung được Giáo hội Thiên Chúa giáo coi là hệ tư tưởng duy nhất đúng và được Giáo hội sử dụng làm hệ tư tưởng chính thống của mình. Con người trong triết học thời trung cổ đã bị tước đoạt hết tính tự nhiên, năng lực và sức mạnh. Hình ảnh con người trở nên nhỏ bé, yếu đuối, vật vờ, tạm bợ trong thế giới hữu hình dưới quyền lực vô biên của đấng sáng tạo. Hệ tư tưởng này đã bóp chết ý muốn vươn lên, tự khẳng định mình, tự giải phóng mình mà nhiều nhà tư tưởng thời cổ đại đã đề cập đến. Thời Phục Hưng và cận đại Triết học thời kì phục hưng hiện đại đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lí tính của con người, xem con người là một thực thể có trí tuệ. Đó là một trong những yếu tố quan trọng nhằm giải thoát cho con người khỏi mọi gông cùm chật hẹp mà chủ nghía thần học thời trung cổ đã áp đặt cho con người. Tuy nhiên, để nhận thức đầy đủ nhận thức của con người cả về mặt sinh học và về mặt xã hội thì chưa có trường phái nào đạt được, mới chỉ nhấn mạnh về mặt cá thể mà xem nhẹ mặt xã hội. Ở Anh, Bêcơn coi thể xác con ngưòi là sản phẩm tự nhiên, là thực thể vật chất, con tinh thần là thứ vật chất chỉ tồn tại trong óc người vận động theo thần kinh vào máu, song chính thứ vật chất ấy đã đem lại cho con người sức mạh tiềm tàng là tri thức. Ở Pháp, Rutxô quan niệm bản tính con người là tự do và lịch sử nhân loại không tuân theo ý muốn của bất kì thế lực nào mà là kết quả hoạt động của con người mang bản tính tự do ấy. Điđrô coi con người là đỉnh cao nhất trong quá trình tiến hoá lâu dài của tự nhiên; coi trí tuệ và đạo đức là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội và coi sức mạnh của con người nằm trong tri thức khoa học. Ở Hà Lan, Xpinôda cho rằng giới tự nhiên là thực thể duy nhất, tồn tại theo chính mình, con người là sản phẩm của giới tự nhiên. Triết học có nhiệm vụ chính là giúp con người có học thức để nhận thức giới tự nhiên, làm theo giới tự nhiên và làm theo lý tưởng đạo đức cao đẹp. Triết học thời Phục Hưng và cận đại có nét nổi bật là phủ nhận quyền lực của đấng sáng tạo, đề cao sức mạnh của con người, đề cao vai trò của lí trí, đề cao các giá trị và đề cao tư tưởng vì con người. Thời hiện đại Vấn đề con người trong triết học phương Tây hiện đại thể hiện rõ nét qua quan điểm của phân tâm học, chủ nghĩa nhân vị, chủ nghía thực dụng, chủ nghĩa phê phán, chủ nghĩa hiện sinh. Tư tưởng của những học thuyết này tạo nên trào lưu triết học nhân bản phi lí tính, trong đó chủ nghĩa hiện sinh giữ vai trò trọng yếu. Nhìn chung, các học thuyết thuộc trào lưu triết học nhân bản phi lí tính cũng như các học thuyết khác ở phương Tây hiện đại đều coi những yếu tố về tinh thần như nhu cầu bản năng, vô thức, tri thức, tình cảm … là bản chất của con người. Con người thường được tuyệt đối hoá về mặt cá nhân. Mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng, cá nhân với xã hội thường đề cập ở góc độ hoài nghi, bi quan bế tắc. Tất cả những điều ấy phản ánh sự khủng hoảng về mặt giá trị của con người trong giá trị phương Tây hiện đại. Các quan điểm triết học trước Mác và ngoài mácxít còn có một hạn chế cơ bản là phiến diện trong phương pháp tiếp cận lý giải các vấn đề triết học về con người, cũng do vậy trong thực tế lịch sử đã tồn tại lâu dài quan niệm trừu tượng về bản chất con người và những quan niệm phi thực tiễn trong lý giải nhân sinh, xã hội cũng như những phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con người. Những hạn chế đó đã được khắc phục và vượt qua bởi quan niệm duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin về con người. CHƯƠNG II QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI 1. Những quan niệm cơ bản của triết học Mác-Lênin về con người a) Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội Theo quan điểm duy vật lịch sử sự tồn tại và phát triển của con người luôn luôn chịu sự chi phối tác động bởi 3 loại qui luật sau: các qui luật sinh học, các qui luật tâm lý ý thức, các qui luật XH. Trong tác phẩm những luận cương về Phơbách, C.Mác đưa ra luận cương VI khẳng định về bản chất con người năm 1845. Nói tới bản chất con người phải dựa trên một nền tảng sinh học xác định, đó là cơ thể sống, con người hiện thực. Bản chất con người không phải là cái bất biến mà nó luôn được phát triển theo sự tiến bộ của lịch sử vì vậy mỗi thời đại lịch sử khác nhau sẽ có những kiểu mẫu người khác nhau. Sự đóng góp mới của triết học Mác về vấn đề con người là xem xét con người mang tính lịch sử cụ thể; khẳng định bản chất con người là do các quan hệ xã hội quyết định. Con người là sản phẩm của sự tiến hoá lâu dài từ giới tự nhiên và giới sinh vật. Do vậy nhiều quy luật sinh vật học cùng tồn tại và tác động đến con người. Để tồn tại với tư cách là một con người trước hết con người cũng phải ăn, phải uống ... Điều đó giải thích vì sao Mác cho rằng co người trước hết phải ăn, mặc ở rồi mới làm chính trị. Nhưng chỉ dừng lại ở một số thuộc tính sinh học của con người thì không thể giải thích được bản chất của con người. Mác và Ăngghen nhiều lần khẳng định lại quan điểm của những nhà triết học đi trước rằng con người là một bộ phận của giới tự nhiên, là một động vật xã hội, nhưng khác với họ, Mác và Ănghen xem xét mặt tự nhiên của con người, như ăn, ngủ, đi lại, yêu thích ... Không còn hoàn mang tính tự nhiên như ở con vật mà đã được xã hội hoá. Mác viết: “Bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất của con người là tổng hoà của những mối quan hệ xã hội” con người là sự kết hợp giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội nên Mác nhiều lần đã so sánh con người với con vật, so sánh con người với những con vật có bản năng gần giống với con người ... Và để tìm ra sự khác biệt đó. Mác đã chỉ ra sự khác biệt ở nhiều chỗ như chỉ có con người làm ra tư liệu sinh hoạt của mình, con người biến đổi tự nhiên theo quy luật của tự nhiên, con người là thước đo của vạn vật, con người sản xuất ra công cụ sản xuất ... Luận điểm xem con người là sinh vật biết chế tạo ra công cụ sản xuất được xem là luận điểm tiêu biểu của chủ nghĩa Mác về con người. Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội. Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Cũng do đó, bản tính tự nhiên của con người bao hàm trong nó tất cả bản tính sinh học, tính loài của nó. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy, có thể nói: Giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”; con người là một bộ phận của tự nhiên; là kết quả của quá trình phát triển và tiến hoá lâu dài của môi trường tự nhiên. Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó. Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau phân biệt con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng công cụ lao động, là “một động vật có tính xã hội”, hoặc con người động vật có tư duy ... Những quan niệm trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy. Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. “Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên: “Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”. Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa ... quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người. Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần. Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được “nhân hóa” để mang giá trị văn minh con người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTriet hoc.doc