Quan niệm về đồng phạm khi chủ thể của tội phạm là thể nhân và pháp nhân

Tóm tắt: Quan niệm về đồng phạm phải có sự thay đổi cùng với việc mở rộng chủ thể phạm tội (thể nhân và pháp nhân) của Bộ luật hình sự. Bài viết đặt vấn đề và nghiên cứu chế định đồng phạm dưới các khía cạnh xã hội pháp lý, khẳng định pháp nhân có đồng phạm và đưa ra định nghĩa khoa học mới về đồng phạm.

Từ khóa: Đồng phạm, pháp nhân, chủ thể tội phạm, trách nhiệm hình sự trong đồng phạm, quan hệ nhân quả trong đồng phạm, dấu hiệu của đồng phạm.

 

Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 được Quốc hội thông qua, có hiệu lực từ ngày 01/7/2016 đã chính thức quy định chủ thể của tội phạm không chỉ là thể nhân mà còn cả pháp nhân. Việc mở rộng chủ thể của tội phạm, đã, đang và sẽ làm thay đổi nhiều quan niệm truyền thống của pháp luật hình sự, trong có có chế định đồng phạm. Một loạt các câu hỏi được đặt ra: i) Đồng phạm phải được hiểu lại ở những khía cạnh xã hội pháp lý nào (?); ii) Pháp nhân có đồng phạm không (?); Định nghĩa mới về đồng phạm (?).

Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ lần lượt lý giải các vấn đề nêu trên dưới góc độ khoa học pháp lý hình sự.

Trong khoa học pháp lý hình sự, hình thành và tồn tại khái niệm đồng phạm, có nhiều quan điểm khác nhau về đồng phạm. Tuy nhiên, khái niệm đồng phạm có thể xem xét dưới các khía cạnh xã hội pháp lý sau:

 

docx10 trang | Chia sẻ: hongha80 | Lượt xem: 539 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Quan niệm về đồng phạm khi chủ thể của tội phạm là thể nhân và pháp nhân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUAN NIỆM VỀ ĐỒNG PHẠM KHI CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM LÀ THỂ NHÂN VÀ PHÁP NHÂN Phí Thành Chung Tóm tắt: Quan niệm về đồng phạm phải có sự thay đổi cùng với việc mở rộng chủ thể phạm tội (thể nhân và pháp nhân) của Bộ luật hình sự. Bài viết đặt vấn đề và nghiên cứu chế định đồng phạm dưới các khía cạnh xã hội pháp lý, khẳng định pháp nhân có đồng phạm và đưa ra định nghĩa khoa học mới về đồng phạm. Từ khóa: Đồng phạm, pháp nhân, chủ thể tội phạm, trách nhiệm hình sự trong đồng phạm, quan hệ nhân quả trong đồng phạm, dấu hiệu của đồng phạm. Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 được Quốc hội thông qua, có hiệu lực từ ngày 01/7/2016 đã chính thức quy định chủ thể của tội phạm không chỉ là thể nhân mà còn cả pháp nhân. Việc mở rộng chủ thể của tội phạm, đã, đang và sẽ làm thay đổi nhiều quan niệm truyền thống của pháp luật hình sự, trong có có chế định đồng phạm. Một loạt các câu hỏi được đặt ra: i) Đồng phạm phải được hiểu lại ở những khía cạnh xã hội pháp lý nào (?); ii) Pháp nhân có đồng phạm không (?); Định nghĩa mới về đồng phạm (?). Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ lần lượt lý giải các vấn đề nêu trên dưới góc độ khoa học pháp lý hình sự. Trong khoa học pháp lý hình sự, hình thành và tồn tại khái niệm đồng phạm, có nhiều quan điểm khác nhau về đồng phạm. Tuy nhiên, khái niệm đồng phạm có thể xem xét dưới các khía cạnh xã hội pháp lý sau: a) Về nội dung chính trị - xã hội, đồng phạm là trường hợp phạm tội do nhiều người cùng tham gia thực hiện, có tính nguy hiểm cao cho xã hội, được thực hiện với hình thức lỗi cố ý, trái quy định của PLHS, là thể thống nhất giữa sự phủ định khách quan (phủ định đòi hỏi của xã hội trên thực tế) và phủ định chủ quan (phủ định đòi hỏi của xã hội trong ý thức chủ quan). Những hậu quả do hành vi phạm tội của nhiều người gây ra chỉ là vụ đồng phạm khi xét về mặt khách quan, việc phạm tội là do hoạt động chung của nhiều người cùng gây ra và về mặt chủ quan là khi họ cùng cố ý thực hiện. Những người đồng phạm thông đồng thực hiện một tội phạm cố ý hoặc tham gia vào những nhóm tội phạm, liên kết tội phạm. b) Về cách thức quy định trong BLHS, đồng phạm được quy định với mục đích xác định là một hình thức phạm tội hoặc xác định là các hành vi phạm tội phải chịu TNHS. Nếu là một hình thức phạm tội, nội dung chế định đồng phạm gồm các quy định về dấu hiệu đồng phạm; người đồng phạm: thực hành, tổ chức, xúi giục, giúp sức. Nếu quy định về đồng phạm là xác định TNHS của cá nhân thì nội dung chế định đồng phạm quy định trực tiếp về hành vi thực hiện hoặc tham gia tội phạm; đồng phạm chỉ được coi là nội dung thứ hai có liên quan đến vấn đề TNHS trong trường hợp đồng phạm đặc biệt - đồng phạm có tổ chức. c) Về các dấu hiệu hợp thành, đồng phạm đòi hỏi phải có những dấu hiệu phản ánh mối liên hệ về mặt khách quan và chủ quan của những người cùng tham gia thực hiện tội phạm: Thứ nhất, mặt khách quan, trước hết, đồng phạm đòi hỏi sự tham gia của hai người trở lên và những người này có đủ điều kiện chủ thể của tội phạm. Hành vi của những người tham gia vào việc phạm tội không tách biệt nhau mà cùng chung hành động. Người đồng phạm tham gia thực hiện tội phạm với một trong bốn hành vi, cụ thể là: hành vi thực hiện tội phạm; hành vi tổ chức thực hiện tội phạm; hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm; và hành vi giúp sức người khác thực hiện tội phạm. Trong đó, hành vi trực tiếp thực hiện tội phạm là hành vi trung tâm và kết nối với các hành vi đồng phạm khác. Tội phạm được thực hiện bằng hình thức đồng phạm phải là một tội phạm cụ thể, độc lập với các tội phạm khác, không phải tội phạm nói chung. Tham gia thực hiện một tội phạm bằng ít nhất một trong bốn hành vi, mỗi người đồng phạm đều có hành vi nguy hiểm cho xã hội trong mối liên kết thống nhất với nhau. Hành vi của người này hỗ trợ, bổ sung và là điều kiện cho hành vi của người khác, ảnh hưởng đến hành vi đó làm cho thay đổi và hiệu quả hơn. Nói cách khác, giữa những người đồng phạm đã cùng chung hành động hay liên hiệp hành động trong việc cùng thực hiện một tội phạm. Hành vi của mỗi người là một khâu cần thiết cho hoạt động phạm tội chung của cả bọn, "nhằm thực hiện một tội phạm nhất định và để đạt được một kết quả phạm tội thống nhất1 Kiều Đình Thụ (1998), Tìm hiểu Luật hình sự Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 196 ". Hậu quả của tội phạm được thực hiện bằng hình thức đồng phạm là kết quả chung do hoạt động của tất cả những người tham gia vào việc thực hiện tội phạm đưa lại. Những hành vi không góp phần vào việc đưa lại hậu quả phạm tội thì không coi là đồng phạm. Hành vi phạm tội riêng biệt của mỗi người đồng phạm có mối quan hệ nhân quả, với mức độ ảnh hưởng có thể khác nhau đối với hậu quả của tội phạm. Trong đó, hành vi của người thực hành là trung tâm, nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu quả của tội phạm, hành vi của những người đồng phạm khác trong mối liên hệ với hành vi của người thực hành và thông qua hành vi của người thực hành đưa phần đóng góp của mình vào cơ chế chung của việc thực hiện tội phạm, từ đó phát sinh hậu quả của tội phạm. "Hành vi của những người đồng phạm khác chỉ tạo ra khả năng phát sinh hậu quả, muốn chuyển khả năng ấy thành hiện thực phải có hành vi của người thực hành Viện Luật học (1986), Những vấn đề cơ bản về tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 148 ". Vì vậy, hành vi của những người đồng phạm khác thường xảy ra trước hành vi của người thực hành. Xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả tội phạm nói chung và trong đồng phạm nói riêng là vấn đề phức tạp, ảnh hưởng đến vấn đề xác định tội phạm và quyết định hình phạt. Trong luật hình sự, nguyên nhân chỉ có thể là hành vi trái pháp luật và kết quả chỉ có thể là hậu quả nguy hiểm cho xã hội (thiệt hại hoặc những biến đổi khác nguy hiểm cho xã hội). "Muốn hiểu thực chất các nguyên nhân cần nhận thức sâu sắc những biểu hiện bên ngoài đến các thực thể V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Matxơcơva, tr. 142-143 ". Khi những người đồng phạm đều là người thực hành - đồng phạm giản đơn - thì hành vi của mỗi người đồng phạm đều là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả chung của tội phạm - quan hệ nhân quả kép trực tiếp. Khi có sự phân công vai trò giữa những người cùng thực hiện tội phạm - đồng phạm phức tạp - thì chỉ hành vi của người thực hành là nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu quả chung, còn hành vi của những người đồng phạm khác thông qua người thực hành, là nguyên nhân gián tiếp đưa đến hậu quả chung của tội phạm - quan hệ nhân quả gián tiếp. Do vậy, việc xác định quan hệ nhân quả giữa hành vi tổ chức, xúi giục, giúp sức với hậu quả chung phải được xem xét trong mối quan hệ giữa những hành vi đó với hành vi thực hành. Đối với những tội phạm có cấu thành vật chất, hành vi của mỗi người đồng phạm nằm trong mối quan hệ nhân quả với hậu quả của tội phạm (hoặc trực tiếp hoặc thông qua hành vi của người thực hành). Trong những cấu thành hình thức của tội phạm, hậu quả không phải là yếu tố bắt buộc nên chỉ cần có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của người phạm tội và việc thực hiện tội phạm là có đồng phạm. Thứ hai, mặt chủ quan, đồng phạm đòi hỏi những những người đồng phạm có cùng nhận thức (knowledge) và chung ý định (intent) thực hiện tội phạm - cùng cố ý của những người tham gia thực hiện tội phạm. Nếu thiếu dấu hiệu này sẽ không có đồng phạm mà chỉ có trường hợp nhiều người cùng phạm một tội. "Sự cùng cố ý này thể hiện sự liên kết thống nhất về ý chí của những người đồng phạm được thống nhất với nhau và hành động phạm tội của mỗi người đều thống nhất trong sự chi phối chung của sự cùng cố ý phạm tội Lê Cảm (Chủ biên) (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr. 255 ". Khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, mỗi người đồng phạm không chỉ cố ý với hành vi của mình mà còn biết, mong muốn hoặc để mặc sự cố ý tham gia của những người đồng phạm khác. Sự cùng cố ý này được thể hiện trên cả hai phương diện lý trí và ý chí. - Về lý trí, sự cùng cố ý đòi hỏi mỗi người đồng phạm phải nhận thức hay thấy trước những vấn đề cơ bản (cốt yếu) - (essential matters) bao gồm: i) Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình; ii) Có người khác (ít nhất một người) cùng thực hiện tội phạm với mình và hành vi của những người đó cũng nguy hiểm cho xã hội; iii) Tính chất hành vi phạm tội chung - được thể hiện trong hành vi của người thực hành; iv) Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình cũng như hậu quả chung của tội phạm mà họ tham gia thực hiện. Nếu mỗi người đồng phạm chỉ biết mình có hành vi nguy hiểm cho xã hội mà không biết người khác cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng với mình thì chưa thỏa mãn dấu hiệu lỗi cố ý trong đồng phạm nên không thể có đồng phạm. Do đó, hành vi xúi giục (ngụy trang), giúp sức bí mật không thỏa mãn dấu hiệu chủ quan của đồng phạm. Người xúi giục, người giúp sức một chiều phải chịu TNHS độc lập về hành vi xúi giục phạm tội hoặc giúp sức phạm tội của mình Trần Quang Tiệp (2007), Đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 42-43 . PLHS cũng chỉ đòi hỏi mỗi người đồng phạm nhận thức được hành vi nguy hiểm cho xã hội của người khác nhưng chỉ ở mức độ những nét cơ bản của hành vi phạm tội chứ không phải từng hoạt động cụ thể vì phạm tội là hoạt động phức tạp, mỗi người phạm tội sẽ rất khó để nhận thức tường tận hành vi của những người khác. Tuy nhiên, mối liên hệ về mặt chủ quan giữa những đồng phạm được giới hạn ở mối liên hệ hai chiều giữa người thực hành với những đồng phạm khác. Vì vậy, điều kiện để xác định đồng phạm không đòi hỏi phải tồn tại mối liên hệ chủ quan giữa người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức. Việc có hay không có sự hiểu biết qua lại giữa những người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức về hành vi của mỗi người tham gia thực hiện tội phạm không ảnh hưởng đến nội dung của đồng phạm. Theo một số quan điểm khoa học khác thì yêu cầu về lý chí cho sự cố ý trong đồng phạm chỉ đòi hỏi mỗi người đồng phạm phải thấy trước dự định thực hiện tội phạm (và thực chất việc phạm tội) của người thực hành hoặc biết bất cứ loại hành vi phạm tội thực chất được thực hiện Simester and Sulivan (2010), Criminal law: Theory and Doctrine, Oxford and Portland, Oregon, tr. 230 . Đây là những quan điểm mở quá rộng phạm vi đồng phạm. - Về ý chí, những người đồng phạm cùng mong muốn có hoạt động phạm tội chung và cùng mong muốn hoặc có ý thức bỏ mặc (chấp nhận hoặc thừa nhận) cho hậu quả xảy ra. Với sự cùng cố ý thực hiện tội phạm của những người đồng phạm thì những người tham gia thực hiện tội phạm chỉ được coi là đồng phạm của nhau nếu tội phạm mà họ cùng thực hiện có lỗi trong mặt chủ quan là lỗi cố ý. Trong vụ án có đồng phạm, tiếp nhận ý chí là một biểu hiện của sự cùng cố ý tham gia thực hiện tội phạm. Trong đó, người đồng phạm tiếp nhận ý chí không trực tiếp bàn bạc, thống nhất ý chí phạm tội với những người đồng phạm khác (bằng hành động) ngay từ khi bắt đầu vụ phạm tội, nhưng trong khi tội phạm đang diễn ra (chưa hoàn thành), người đồng phạm tiếp nhận ý chí nhận thức (biết) được vấn đề cốt yếu của vụ phạm tội, thỏa mãn dấu hiệu về mặt lý trí trong đồng phạm và đã quyết định lựa chọn cùng tham gia bằng hành động hoặc không hành động vào vụ việc phạm tội. Trường hợp được coi là tiếp nhận ý chí phân biệt với trường hợp phạm tội riêng lẻ mà người phạm tội nhận thức được vụ việc phạm tội nhưng thiếu sự cùng "chia sẻ" mục đích phạm tội chung. Đây có thể là trường hợp tổ chức, xúi giục, giúp sức, thực hiện ngầm của người phạm tội riêng lẻ hoặc trường hợp người phạm tội (có thể là không tố giác tội phạm) đã không lựa chọn xử sự phạm tội (cố ý tham gia vào vụ việc đồng phạm). Bên cạnh dấu hiệu lỗi cùng cố ý tham gia vào việc thực hiện một tội phạm, đồng phạm đòi hỏi có sự thống nhất về động cơ và mục đích phạm tội trong trường hợp đồng phạm những tội mà luật quy định mục đích và động cơ phạm tội là dấu hiệu bắt buộc của CTTP. Được coi là thống nhất về động cơ, mục đích nếu những người cùng tham gia thực hiện tội phạm đều có chung mục đích, động cơ được phản ánh trong CTTP của tội phạm cụ thể hoặc biết rõ và tiếp nhận mục đích đó. Đối với những tội phạm, mục đích và động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của CTTP, thì khi tham gia thực hiện tội phạm, mỗi người đồng phạm có thể có động cơ, mục đích phạm tội khác nhau. Trong trường hợp này, việc cùng mong muốn tham gia thực hiện tội phạm, mong muốn hậu quả tội phạm chung là yếu tố liên kết những người đồng phạm. Một khi đã thỏa mãn đủ các dấu hiệu của đồng phạm, thì những người tham gia, dù với vai trò cụ thể như thế nào đều phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm đã gây ra, vì tội phạm bản thân là một thể thống nhất và trong đồng phạm nó là kết quả chung của sự cùng thực hiện về khách quan và cùng cố ý về chủ quan của tất cả những người đồng phạm Nguyễn Ngọc Hòa (1991), Tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 151 . Bên cạnh nhận thức chung, thống nhất về đồng phạm nêu trên, theo một số học thuyết về đồng phạm thì yếu tố tinh thần (chủ quan) của đồng phạm chỉ đòi hỏi người đồng phạm phải nhận thức (biết) được việc thực hiện tội phạm chung, thông thường có chung ý định phạm tội Candace Courteau (1998), "The metal element required for Accomplice liability: A topic note", Louisiana Law review, (59). ( hoặc phải có cùng chung mục đích phạm tội với người thực hành Sherif Girgis, "The Mens Rea of Accomplice Liability: Supporting Intentions", . Trong trường hợp có chung mục đích phạm tội thì được xác định là đã nhận thức việc thực hiện tội phạm chung. Yêu cầu về sự nhận thức đối với những người đồng phạm khác cũng được xác định dựa trên các cấp độ khác nhau: i) Đương nhiên nhận thức được tội phạm chung (trong bối cảnh diễn ra hành vi phạm tội của người thực hành); ii) Đối với một số tội phạm (nguy hiểm đặc biệt) thì chỉ yêu cầu nhận thức được tính trái pháp luật của hành vi của người thực hành... Do đó, đồng phạm có thể được thực hiện không chỉ với các hình thức lỗi cố ý (trực tiếp, gián tiếp) mà còn có thể được thực hiện với lỗi vô ý (do quá tự tin). Chúng tôi cho rằng, đồng phạm không thể tồn tại dưới hình thức lỗi vô ý bởi trong hình thức lỗi vô ý, mỗi người có thể tồn tại mối liên hệ giữa các hành vi về mặt thời gian, không gian nhưng lại hoàn toàn độc lập với nhau về ý thức đối với hậu quả. Ngoài ra, người phạm tội với lỗi vô ý đã không lựa chọn xử sự phạm tội, giữa những người phạm tội không có mối liên hệ về mặt chủ quan. Những điều này khác hoàn toàn về chất so với trường hợp đồng phạm đã được đề cập: là hình thức phạm tội mà trong đó, tổng thể các hành vi có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại trong sự vận động đan xen với nhau, tạo điều kiện, tiền đề cho nhau để gây ra hậu quả phạm tội chung; giữa những người phạm tội có mối liên hệ cùng cố ý, không chỉ cố ý với hành vi của mình mà còn nhận thức và mong muốn sự cố ý của những người đồng phạm khác. Giữa những người đồng phạm tồn tại mối liên hệ tác động tương hỗ và ảnh hưởng lẫn nhau về mặt tâm lý Trần Quang Tiệp (2007), Đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 22-23 . Ngoài ra, theo các quan điểm này thì cũng chỉ cần sự thỏa mãn tiêu chuẩn nhận thức hoặc mục đích của những người đồng phạm khác trong mối quan hệ với người thực hiện tội phạm mà không yêu cầu người thực hiện phải biết được tính đồng phạm của những người cùng tham gia thực hiện. Bởi vì, học thuyết xác định TNHS của mỗi người đồng phạm một cách riêng rẽ, người đồng phạm chịu trách nhiệm độc lập, được xem xét trên cơ sở quan hệ liên kết một chiều, là "học thuyết về phạm tội khiến một người chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi cư xử của một người khác Sherif Girgis, "The Mens Rea of Accomplice Liability: Supporting Intentions", ". Như vậy, nếu chuẩn mực nhận thức là quá khắc nghiệt thì tính mục đích lại quá khoan dung trong việc xác định các trường hợp đồng phạm Sherif Girgis, "The Mens Rea of Accomplice Liability: Supporting Intentions", . Đối với trường hợp chủ thể của tội phạm là pháp nhân, tổ chức, "con người pháp lý", được hình thành nên bởi sự kết hợp của nhiều thể nhân và hành vi phạm tội của pháp nhân được thực hiện thông qua một hoặc nhiều thể nhân cụ thể. Giữa pháp nhân và thể nhân tồn tại mối quan hệ ràng buộc nhất định, tuy nhiên, không phải mọi trường hợp pháp nhân đều phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của thể nhân. Để quy kết hành vi phạm tội của thể nhân là hành vi phạm tội của pháp nhân, khoa học luật hình sự ghi nhận ba học thuyết cơ bản: thuyết trách nhiệm thay thế, thuyết đồng nhất hóa trách nhiệm và thuyết văn hóa Cao Thị Oanh (Chủ nhiệm đề tài) (2011), Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tổ chức, §Ò tµi khoa häc cÊp Bé, Bộ Tư pháp, Hà Nội. . Theo học thuyết trách nhiệm thay thế, bất cứ điều gì mà người lao động, người đại diện cho pháp nhân thực hiện trên cơ sở mối quan hệ giữa tổ chức với người lao động theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận đều được coi là của chính tổ chức thực hiện. Nếu người lao động đã tuân thủ nội quy, quy định mà pháp nhân đề ra thì khi có sai phạm của người lao động, người đại diện thì pháp nhân phải chịu trách nhiệm thay thế. Thuyết văn hóa yêu cầu việc truy cứu TNHS của pháp nhân cần phải có ba điều kiên: i) Có hành vi phạm tội của nhân viên pháp nhân; ii) Nhân viên đó thực hiện trong phạm vi chức năng, thẩm quyền được giao hoặc ủy quyền; iii) Thông qua văn hóa pháp nhân có chứng cứ cho thấy nhân viên thực hiện hành vi phạm tội đó nhận thức được rằng pháp nhân đã chỉ đạo, ủng hộ hay không phản đố hành vi mà họ thực hiện hoặc có lỗi là đã không tạo ra và duy trì một kiểu văn hóa đòi hỏi sự tuân thủ pháp luật trong phạm vi pháp nhân Cao Thị Oanh (Chủ nhiệm đề tài) (2011), Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tổ chức, §Ò tµi khoa häc cÊp Bé, Bộ Tư pháp, Hà Nội. . Nếu học thuyết trách nhiệm thay thế không được chấp nhận vì có phạm vi quá rộng khi quy định pháp nhân phải chịu TNHS trong trường hợp bất kỳ người lao động, người đại diện có hành vi phạm tội vì lợi ích của tổ chức, đồng thời vi phạm nguyên tắc trách nhiệm trên cơ sở lỗi cá nhân, học thuyết văn hóa có hạn chế ở chỗ chứng minh văn hóa của pháp nhân là việc làm phức tạp và khó khăn trong thực tiễn thì đa số các nhà khoa học ủng hộ việc thiết lập TNHS của pháp nhân trong luật hình sự đều nghiêng về học thuyết đồng hóa trách nhiệm Trịnh Quốc Toản (2011), Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong pháp luật hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 232] , đồng nhất hóa sự mong muốn của tập thể với ý muốn cá nhân, coi hành vi và lỗi của người quản lý pháp nhân như chính hành vi của cá nhân. Học thuyết đồng nhất hóa trách nhiệm xác định ba điều kiện để quy kết tội phạm cho pháp nhân: i) Hành vi phạm tội do người chỉ huy, quản lý, chỉ đạo, điều hành pháp nhân thực hiện; ii) Người chỉ huy, quản lý, chỉ đạo, điều hành thực hiện hành vi phạm tội nhân danh, thay mặt hoặc đại diện cho pháp nhân; iii) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân Cao Thị Oanh (Chủ nhiệm đề tài) (2011), Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tổ chức, §Ò tµi khoa häc cÊp Bé, Bộ Tư pháp, Hà Nội, tr. 25 . Áp dụng học thuyết đồng nhất hóa trách nhiệm, hành vi, lỗi của thể nhân lãnh đạo, chỉ huy, đại diện (thể nhân đại diện) thực hiện vì lợi ích và trong khuôn khổ hoạt động của pháp nhân cũng được coi là hành vi, lỗi của pháp nhân. Nếu thể nhân đại diện thực hiện hành vi không vì lợi ích pháp nhân hoặc thực hiện không có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân (hành vi vượt quá) thì hành vi phạm tội của thể nhân đại diện chỉ mang tính cá nhân, không phải là hành vi phạm tội của pháp nhân. Theo lý thuyết về đồng phạm và lý thuyết đồng nhất hóa trách nhiệm nêu trên, nếu hai pháp nhân hoặc pháp nhân và thể nhân (không đại diện pháp nhân) cùng cố ý tham gia thực hiện một tội phạm, tức là giữa các thể nhân đại diện cho các pháp nhân hoặc thể nhân đại diện và thể nhân khác có cùng chung ý chí, chung hành động thì hai pháp nhân hoặc pháp nhân và thể nhân là đồng phạm của nhau. Bởi vì, về nguyên tắc, những quy định pháp luật cho thể nhân thì cũng được quy định tương ứng cho pháp nhân và ngoài những quy định đặc thù cho pháp nhân thì các quy định khác của thể nhân được áp dụng cho pháp nhân. Trong đó, vấn đề đồng phạm không có quy định đặc thù của pháp nhân nên các quy định về đồng phạm của thể nhân được áp dụng đối với pháp nhân. Nếu pháp nhân và thể nhân là đồng phạm thì tồn tại hai quan hệ đồng phạm (pháp nhân – thể nhân; thể nhân đại diện – thể nhân) có chung hành vi phạm tội (của thể nhân đại diện và thể nhân) với ba chủ thể phạm tội (pháp nhân, thể nhân đại diện, thể nhân). Nếu pháp nhân và pháp nhân là đồng phạm thì ngoài quan hệ đồng phạm giữa pháp nhân và pháp nhân thì hai thể nhân đại diện của hai pháp nhân đó cũng có quan hệ đồng phạm với nhau. Cả pháp nhân và thể nhân đại diện cùng phải chịu TNHS về tội phạm do thể nhân đại diện đã cố ý tham gia thực hiện. Hay nói cách khác, thể nhân đại diện là người đồng phạm thì pháp nhân cũng là người đồng phạm nhưng trong các quan hệ đồng phạm khác nhau, thể nhân đại diện tham gia với vai trò gì thì pháp nhân tham gia với vai trò đó. Như vậy, vấn đề đồng phạm của pháp nhân được xác định thông qua đồng phạm của thể nhân, giải quyết đồng phạm của thể nhân là giải quyết đồng phạm của pháp nhân. Do đó, những nghiên cứu sau đây về giải quyết vấn đề đồng phạm của thể nhân (bao gồm thể nhân đại diện và thể nhân không đại diện) là đồng thời giải quyết vấn đề đồng phạm của pháp nhân. Từ kết quả nghiên cứu trên, có thể đưa ra định nghĩa khoa học khái niệm đồng phạm như sau: Đồng phạm là hình thức phạm tội có hai người (bao gồm thể nhân và pháp nhân) trở lên cố ý cùng tham gia thực hiện tội phạm với vai trò là người thực hiện, người xúi giục, người giúp sức hoặc người tổ chức./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxquan_niem_ve_dong_pham_3888.docx