Tác động của thể chế kinh tế thị trường đến hiệu quả kinh tế

Có nhiều quan điểm khác nhau về thể chế. Thứ nhất, thể chế có thể được coi là

những cách ứng xử thông thường của các tác nhân trong xã hội hoặc kết quả cân

bằng xuất hiện trong giao dịch giữa các cá nhân trên cơ sở duy lý. Quan điểm

này không giải thích rõ nguồn gốc của hành vi, hay nói đúng hơn nguồn gốc của

tính toán duy lý trong của mỗi tác nhân trong các giao dịch xã hội.

Quan điểm hứ hai coi thể chế như các quy ước mà con người cùng nhau thực

hiện trên cơ sở nhận thức chung rằng hành vi đó là phù hợp hay không phù hợp

trong một hoàn cảnh cụ thể. Như vậy, thể chế không chỉ là kết quả của tính toán

duy lý của mỗi cá nhân mà nó còn là kết quả của một nhận thức xã hội chung và

tính chất cộng đồng có vai trò quan trọng trong lý giải hành vi.

pdf9 trang | Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 738 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tác động của thể chế kinh tế thị trường đến hiệu quả kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TRUNG ƯƠNG TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU --------------------------------------------------- Tác động của thể chế kinh tế thị trường đến hiệu quả kinh tế TS. Đặng Quang Vinh Ban nghiên cứu Môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương I. Giới thiệu 1. Thể chế kinh tế thị trường a. Khái niệm Có nhiều quan điểm khác nhau về thể chế. Thứ nhất, thể chế có thể được coi là những cách ứng xử thông thường của các tác nhân trong xã hội hoặc kết quả cân bằng xuất hiện trong giao dịch giữa các cá nhân trên cơ sở duy lý. Quan điểm này không giải thích rõ nguồn gốc của hành vi, hay nói đúng hơn nguồn gốc của tính toán duy lý trong của mỗi tác nhân trong các giao dịch xã hội. Quan điểm hứ hai coi thể chế như các quy ước mà con người cùng nhau thực hiện trên cơ sở nhận thức chung rằng hành vi đó là phù hợp hay không phù hợp trong một hoàn cảnh cụ thể. Như vậy, thể chế không chỉ là kết quả của tính toán duy lý của mỗi cá nhân mà nó còn là kết quả của một nhận thức xã hội chung và tính chất cộng đồng có vai trò quan trọng trong lý giải hành vi. Thứ ba, thể chế được coi là các luật chơi và quan điểm này được nhiều tác giả ủng hộ. Theo Douglas North, nhà kinh tế đạt giải Nobel năm 1993, thể chế là “các hạn chế do con người tạo ra để định hình các tương tác chính trị, kinh tế và xã hội” (North, 1991). Các hạn chế này có biểu hiện là các quy tắc hay luật chơi trong xã hội có khả năng quyết định hành vi của con người (North, 1990, 1991). Những luật chơi này có thể là những quy định chính thức như hiến pháp, luật, hợp đồng. Thể chế cũng có thể là những quy định không chính thức như thông lệ, quy ước cộng đồng, v.v. Theo North và các tác giả có cùng quan điểm, các hành vi có đặc điểm cụ thể vì như vậy là cần thiết hoặc bắt buộc phải như vậy vì nếu không có thể có hình phạt hoặc trở nên không có tác dụng. Hiểu rộng ra, thể chế được tạo ra để tạo thuận lợi hoặc cản trở các giao dịch kinh tế và chúng tạo thành cấu trúc lợi ích của một nền kinh tế và cấu trúc lợi ích này quyết định hướng đi của giao dịch kinh tế. Do thể chế quyết định cấu trúc lợi ích, thể chế có tầm quan trọng hàng đầu đối với sự vận hành trật tự và hiệu quả của thị trường. Không có thể chế, hành vi con người sẽ trở lên không ổn định và giao dịch kinh tế sẽ có chi phí cao và nhiều rủi ro. Do đó, tiềm năng kinh tế sẽ không được hiện thực hóa. Thể chế tốt có thể giúp giảm bất ổn, tạo thuận lợi cho giao dịch kinh tế và do đó đóng vai trò lớn trong việc giải thích kết quả phát triển kinh tế của các nước. b. Đo lường Đo lường chất lượng thể chế là một hoạt động cần thiết và khó khoăn do tính chừu tượng và phức tạp của khái niệm này. Theo các học giả về kinh tế học thể chế, các nội dung quan trong của thể chế kinh tế là: quyền tự do của cá nhân, tổ chức trong việc sử dụng tài sản của mình tham gia hoạt động kinh tế. Nói rộng ra, đó là quyền tự dọ sử dụng tài sản của mình vào hoạt động kinh tế mà không bị tổ chức, cá nhân khác, bao gồm cả nhà nước, xâm phạm và hạn chế. Như vậy, thông thường người ta đo lường mức độ tư do kinh tế của mỗi quốc gia để đánh giá thể chế kinh tế của quốc gia đó. Một số tổ chức đã xây dựng phương pháp và thực hiện đo lường mức độ tự do kinh tế quốc gia. Cụ thể, Fraser Institute có Chỉ số Tự do Kinh tế (Economic Freedom Index - EFI) và Heritage Foundation và Wall Street Journal có Chỉ số về mức độ tư do kinh tế (Index of Economic Freedom - IEF). Từ lúc bắt đầu IEF của Heritage Foundation được công bố hàng năm trong EFI của Fraser Institute được công bố hai năm một lần. Từ 2010, EFI được công bố hàng năm. Nói chung, hai chỉ số này có nội hàm rất giống nhau. Tuy nhiên, EFI được sử dụng rộng rãi hơn. Đối với các nền kinh tế chuyển đổi Ngân hàng Tái thiết và Phát triển châu Âu (EBRD) có Chỉ số Tự do hóa để đo lường mức độ chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường ở các nước Liên Xô và Đông Âu xã hội chủ nghĩa cũ. Về mức độ bao phủ, IEF bao phủ nhiều nước hơn và nhiều năm hơn EFI. Chỉ số EFI của Heritage có bốn cấu phần lớn: (i) Thượng tôn pháp luật; (ii) Quy mô chính phủ; (iii) Hiệu quả thể chế; và (iv) Mở cửa thị trường. Cụ thể hơn, Thượng tôn pháp luật đo lường mức độ bảo vệ tài sản bằng pháp luật và hệ thống tư pháp và mức độ tham nhũng (Chỉ số cảm nhận tham nhũng của Transparency International). Quy mô chính phủ được đo bằng gánh nặng thuế so với GDP và mức độ chi tiêu của chính phủ so với GDP. Về Hiệu quả thể chế, nội dung thứ nhất là tự do kinh doanh (theo khảo sát Doing Business của WB), nội dung thứ hai là tự do lao động (lương tối thiểu, mức độ linh hoạt về tuyển dụng và sa thải, v.v.). Nội dung thứ ba của Hiệu quả thể chế là tự do tiền tệ, cụ thể là mức độ lạm phát và mức độ kiểm soát giá cả. Cuối cùng, Mở cửa thị trường bao gồm Tự do thương mại (mức thuế trung bình có trọng số theo kim ngạch và bảo hộ phi thuế quan) và Tự do đầu tư (rào càn đầu tư nước ngoài) và Tự do tài chính (điều kiện kinh doanh ngành tài chính, cả nội địa và nước ngoài). Ngoài IEF và EFI, nhiều bộ số liệu khác cũng đo lường chất lượng thể chế. Ví dụ, Chỉ số cạnh tranh toàn cầu có chỉ số thành phần về Kết quả hoạt động của khu vực công, trong đó có chỉ số con về gánh nặng của thể chế (regulations). Khi thể chế áp đặt nhiều chi phí không cần thiết cho doanh nghiệp thể chế đó được con là tồi và ngược lại. Chỉ số Quản trị quốc gia (Governance Indicators) của Ngân hàng nhà nước cũng đo lường mức độ Thượng tôn pháp luật, một điều kiện cần thiết để có môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và giao dịch kinh tế diễn ra thuận lợi. Tham nhũng cũng là một chỉ dấu quan trọng của chất lượng thể chế kinh tế thị trường. Chỉ số cảm nhận tham nhũng của Tổ chức Minh bạch quốc tế (Transparency International) là một thước đo tham nhũng phổ biến được sử dụng rộng rãi hiện nay. 2. Hiệu quả a. Khái niệm Một cách ngắn gọn, hiệu quả kỹ thuật (technical efficiency) là tỷ lệ giữa sản lượng thu được so với sản lượng tối đa (đường biên) ở một mức đầu vào cụ thể. Hiệu quả và năng suất (productivity) thường được dùng thay thế nhau nhưng hai khái niệm này về bản chất là khác nhau. Năng suất của một đơn vị sản xuất là tỷ lệ giữa sản lượng đầu ra và yếu tố đầu vào. Do đó, có thể một đơn vị sản xuất đạt hiệu quả cao nhất (đạt được mức sản lượng cao nhất so với tất cả các đơn vị sản xuất khác) ở một quy mô sản xuất nhưng lại không đạt được năng suất cao nhất ở quy mô đó. Như vậy, hiệu quả là thước đo để so sánh kết quả sản xuất giữa các đơn vị sản xuất còn năng suất trước tiên dùng để so sánh kết quả sản xuất của một đơn vị sản xuất ở các quy mô sản xuất khác nhau. Tất nhiên, chúng ta có thể so sánh năng suất các đơn vị sản xuất khác nhau. Đôi khi năng suất và hiệu quả có ý nghĩa như nhau do chúng đều nói đến kết quả sản xuất nhưng chúng không phải lúc nào cũng là một. b. Đo lường Có nhiều cách đo lường hiệu quả. Hai phương pháp chính được sử dụng phổ biến là Phân tích bao số liệu (DEA) và Phân tích đường biên ngẫu nhiên (SFA). DEA có ưu điểm là không phụ thuộc vào một mô hình hàm sản xuất cụ thể nhưng nó giải định quan hệ giữa các biến số là đã xác định và không có sai số ngẫu nhiên. Trong một số trường hợp khi số liệu đo lường không chính xác và có nhiều bất ổn trong môi trường kinh tế, nhiều tác giả cho rằng SFA cho kết quả đo lường tốt hơn DEA1. Theo phương pháp SFA, hàm sản xuất được biểu diễn thành    ; .exp .it it it ity f x v TE , trong đó TE là hiệu quả. Nếu coi TE = e-u và giả thiết hàm sản xuất f có dạng Cobb-Douglas, ta có thể biểu diễn hàm sản xuất thành: ,ln lnit o k k it it it k y x v u     Hàm số trên không thể ước lượng bằng phương pháp OLS vì giá trị của u không biến thiên theo phân phối chuẩn. Phương pháp ước lượng phổ biến là ước lượng hợp lý cực đại (Maximum Likelihood Estimation – MLE)2. II. Tác động của thể chế đến hiệu quả Vai trò thiết yếu của thể chế trong việc quyết định tăng trưởng đã được nhiều nghiên cứu khẳng định. Barro (1991) chứng minh tỷ lệ tăng trưởng có tương quan dương với ổn định chính trị và liên hệ nghịch với một yếu tổ gần với sự méo mó của thị trường. Mauro (1995) đã kết luận hiệu quả của bộ máy công quyền dẫn đến đầu tư và tăng trưởng cao. Nghiên cứu của Rodrik’s (2000) đối với 90 quốc gia trong giai đoạn 1970-1989 dẫn đến kết luận là một quốc gia càng dân chủ thì các biến động đối với tăng trưởng dài hạn của quốc gia đó càng nhỏ. Ngoài ra, tác động của thể chế đối với tăng trưởng, như Knack và Keefer (1995) chỉ ra, không chỉ là để thúc đẩy tích lũy vốn mà tác dụng này còn lớn đối 1 Fries, Steven, and Anita Taci. 2005. “Cost Efficiency of Banks in Transition: Evidence from 289 Banks in 15 Post-Communist Countries.” Journal of Banking & Finance 29 (1): 55–81. 2 Coelli, Timothy J., Prasada D. S. Rao, Christopher J. O’Donnell, and George E. Battese. 2005. An Introduction to Efficiency and Productivity Analysis. 2nd ed. Springer. với cả tích lũy yếu tố sản xuất. Điều này gợi ý rằng thể chế hẳn là yếu tố quyết định quan trọng đối với năng suất và hiệu quả. Thể chế có thể tác động đến hiệu quả kinh tế theo nhiều kênh khác nhau. Lý thuyết và kết quả thực nghiệm về tác động của thể chế đến hiệu quả được mô tả dưới đây theo từng nội dung của thể chế. 1. Tác động của tự do kinh tế và hiệu quả Về lý thuyết, tự do kinh tế tạo điều kiện cho cạnh tranh và thúc đẩy nhà sản suất tìm cách điều chỉnh sản xuất để đạt được sản lượng cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh ở cùng một mức đầu vào. Đó là cách các nhà sản xuất kiếm được lợi nhuận nhiều hơn. Ngược lại, thiếu tự do kinh tế, nhất là trong tình trạng độc quyền hoặc thị trường bị một số doanh nghiệp chi phối, động cơ nâng cao hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp không nhiều và hiệu quả chung của nền kinh tế bị giảm sút. Thể chế kinh tế tự do sẽ khuyến khích người có tài sản và trí tuệ đầu tư vào sản xuất với công nghệ và phương pháp mới, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất. Nghiên cứu thực nghiệm ở tầm quốc gia cho thấy điều này. Adkins et al. (2002)3 sử dụng số liệu 70 nước trong giai đoạn 1975-1990 để phân tích tác động của tự do kinh tế đến hiệu quả. Kết quả của Adkins et al. cho thấy tăng chỉ số tự do kinh tế (Fraser Institute) dẫn đến hiệu quả cao hơn. Đối với các nền kinh tế chuyển đổi, nghiên cứu của Vinh (2009)4 cho thấy tự do kinh tế cao hơn giúp nâng cao hiệu quả kinh tế ở các nước chuyển đổi ở Đông Âu và Châu Á, bao gồm cả Việt Nam và Trung Quốc. Với cùng một xuất phát 3 Adkins, Lee C., Ronald L. Moomaw, and Andreas Savvides. 2002. “Institutions, Freedom, and Technical Efficiency.” Southern Economic Journal 69 (1): 92–108. 4 Dang Quang Vinh. 2009. “Instution and Efficiency in Transition Economies.” Brunel University Economics and Finance Working Paper Series No. 09/32. điểm, nhiều nền kinh tế Đông Âu đã nhanh chóng xây dựng được hệ thống thể chể kinh tế thị trường tốt, được đánh giá nganh hàng với nhiều nước Tây Âu. Đồng thời, nền kinh tế của họ cũng phục hồi nhanh trong sau khi hệ thống XHCN sụp đổ và đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn so với các nền kinh tế chuyển đổi có chất lượng thể chế thấp hơn. Điều kiện kinh doanh chặt chẽ, hay nói cách khác tự do kinh doanh ít, có thể gây hại đến hiệu quả kinh tế. Nghiên cứu của Arnold, Nicoletti and Scarpetta (2008)5 chứng minh điều này. Nghiên cứu này cho thấy ở các nước OECD ở đâu có quy điều kiện kinh doanh dịch vụ kém thân thiện thị trường hơn ở đó nguồn lực được phân bổ kém hiệu quả hơn. 2. Sở hữu nhà nước, tự do kinh tế và hiệu quả Can thiệp của nhà nước thông qua sở hữu trực tiếp doanh nghiệp và cạnh tranh với doanh nghiệp tư nhân cũng là một khía cạnh của tự do kinh tế và được đưa vào các bộ chỉ số về tự do kinh tế. Với những vấn đề nội tại vốn có của quả trị doanh nghiệp nhà nước, ví dụ như giám sát và sự trì trệ trong quan hệ lao động, doanh nghiệp nhà nước có khó khăn trong việc duy trì mức độ hiệu quả như các doanh nghiệp tư nhân vốn ít bị ràng buộc bởi các quy định hành chính về quản trì và nhân sự. Do đó, về lý thuyết, sự tham gia của nhà nhà nước trong khối doanh nghiệp có quan hệ tỷ lệ nghịch với hiệu quả kinh tế. Trong lĩnh vực ngân hàng, một ngành có nhiều doanh nghiệp nhà nước, nghiên cứu thực nghiệm có vẻ ủng hộ lý thuyết trên. Nghiên cứu của (Bonin, Hasan, & 5 Arnold, J., Nicoletti, G., & Scarpetta, S. (2008). Regulation, allocative efficiency and productivity in OECD countries. OECD Economics Department Wachtel, 2005)6 cho thấy ở các nền kinh tế chuyển đổi Đông Âu các ngân hàng nhà nước sở hữu có hiệu quả thấp nhất, thấp hơn so với ngân hàng tư nhân hoặc ngân hàng có sở hữu nước ngoài. Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác cho kết quả khác. Ví dụ, nghiên cứu của Altunbas, Evans, & Molyneux (2009)7 cho thấy các ngân hàng tư nhân ở Đức có mức hiệu quả như các ngân hàng nhà nước. Như vậy, trong những điều kiện nhất định, các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước có thể khắc phục được các khó khăn quản trị nội tại của mình và đạt được mức hiệu quả cao như các ngân hàng tư nhân. 3. Chất lượng quản trị, tham nhũng và hiệu quả Một thước đo quan trọng về chất lượng thể chế là mức độ tham nhũng. Tham nhũng là hành vi biến nguồn lực, tài sản công thành tài sản tư và do đó ảnh hưởng đến khả năng nhà nước bảo vệ quyền tài sản của công dân. Tham nhũng cũng gắn liền với bảo hộ, giảm cạnh tranh, hạn chế tự do kinh doanh. Do đó, khi nghiên cứu thể chế, nhiều tác giả đã nghiên cứu tác động của tham nhũng đến kết quả kinh tế. Nghiên cứu cuả O’Toole & Tarp (2014)8 cố gắng tìm hiểu tác động của tham nhũng đến hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp. Kết quả cho thấy chi phí hối lộ làm giảm hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp và tác động này là lớn nhất đối với nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ nội địa. Điều này có nghĩa đầu tư có hiệu quả thấp hơn ở nước có tham nhũng cao hơn; tham nhũng gây cản trở đầu tư do nhiều doanh nghiệp thấy lợi nhuận thấp hơn kỳ vọng. 6 Bonin, J. P., Hasan, I., & Wachtel, P. (2005). Privatization matters: Bank efficiency in transition countries. Journal of Banking & Finance, 29(8–9), 2155–2178 7 Altunbas, Y., Evans, L., & Molyneux, P. (2009). Bank ownership and efficiency., 33(4), 926–954. https://doi.org/10.2307/2673929 8 O’Toole, C. M., & Tarp, F. (2014). Corruption and the Efficiency of Capital Investment in Developing Countries. Journal of International Development, 26, 567–597. III. Khuyến nghị chính sách Qua tổng quan một số nghiên cứu về tác động của thể chế kinh tế thị trường đến hiệu quả kinh tế, chúng ta có thể nêu ra một số khuyến nghị chính sách để góp phần nâng cao hiệu quả nền kinh tế như sau: Thứ nhất, cần rà soát và sửa đổi các quy định về kinh doanh để tạo ra một môi trường kinh doanh tự do hơn, thúc đẩy cạnh tranh, sáng tạo và năng suất. Thứ hai, cần bảo vệ quyền tài sản của công dân tốt hơn nữa, đặc biệt là những quyền liên quan đến đất đai. Hiện nay, đất nông nghiệp được bảo vệ rất ít và điều này khiến cho nông dân và nhà đầu tư ngại bỏ tiền đầu tư nâng cấp cơ sở sản xuất để có hiệu quả cao hơn. Thứ ba, cần thực hiện mạnh mẽ chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng để giảm chi phí kinh doanh, giảm cạnh tranh bất bình đẳng, qua đó giúp nâng cao hiệu quả đầu tư cho doanh nghiệp, từ đó nâng cao hiệu quả chung của nền kinh tế và thu hút đầu tư mạnh hơn nữa.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfvnep_quan_he_giua_the_che_kinh_te_thi_truong_va_hieu_qua_kinh_te_7444.pdf