Tham luận Sử dụng các thị trường để quản trị quốc gia tốt hơn ở Singapore

Singapore là một ví dụthành công nổi bật vềphát triển. Chỉriêng dữkiện GNP bình

quân đầu người đã tăng từ921 USD vào lúc giành độc lập năm 1965 lên 23.285 USD năm

2000 là một bằng chứng hùng hồn cho điều này.

2

Càng đáng ấn tượng hơn là Singapore đạt

được thành công này trong lúc phải đối mặt với những trởngại to lớn. Thành công này được

mang lại bởi các thiết chếcó đủnăng lực và kỷcương đểhoàn thành chức năng của mình và

thúc đẩy tăng trưởng cùng với chất lượng cuộc sống cao, và sựra đời của các chính sách tạo

năng lực, điều kiện đểthành công diễn ra nhanh nhưthế.

Trong tác phẩm kinh điển gồm ba bảng Asian Drama của mình, Gunnar Myrdal phân

biệt rõ giữa nhà nước “cứng” và nhà nước “mềm”. Các nhà nước cứng có năng lực để đạt

được phát triển bởi vì họcó thể đưa ra các quyết định chính sách cần thiết và thực thi chúng,

áp đặt ngay cảnhững nghĩa vụít ai ủng hộlên công dân của mình, trong khi các nhà nước

mềm không thểlàm điều đó.

3

Theo kinh điển, Singapore là một nhà nước cứng. Nó được

sinh ra từkhủng hoảng. Nó là một thuộc địa của Anh đã trởthành một bộphận của nước

Malaysia độc lập vào năm 1959 nhưng vào tháng 8 năm 1965 nó bịcắt ra khỏi Malaysia và

bịép buộc, trước sựchống đối của Thủtướng Lý Quang Diệu của Singapore và nhóm lãnh

đạo chính trịcao nhất của ông, phải trởthành một nhà nước độc lập.

Năm 1965, khi Singapore tách ra khỏi Malaysia, các triển vọng đểSingapore tồn tại

trông rất mong manh. Nó có rất ít đất và chẳng có tài nguyên thiên nhiên gì; các nước láng

giềng lại có thái độquá sức thù địch, và nó phụthuộc nặng nềvào trợcấp từAnh Quốc để

đổi lại việc cho phép Anh Quốc duy trì căn cứquân sựchính của mình tại châu Á. Ngoài ra,

nó còn có một cơcấu dân sốcó tiềm năng nổtung gồm người Hoa, người Mã và người Ấn.

Tài sản duy nhất của nó là một ví trí chiến lược và giới lãnh đạo mạnh mẽ, thực dụng. Các

lãnh đạo Singapore nhanh chóng đi đến kết luận rằng, đểtồn tại, quốc gia của họphải cứng

rắn hơn, kỷluật hơn, và có đầu óc thực dụng hơn những quốc gia khác. Nếp tưduy này đã

thấm sâu vào quan điểm của giới lãnh đạo nước này từnăm 1965 cho đến ngày hôm nay.

pdf27 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 896 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tham luận Sử dụng các thị trường để quản trị quốc gia tốt hơn ở Singapore, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Nieân khoaù 2005-2006 Taøi chính coâng Baøi ñoïc Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác gia toát hôn ôû Singapore John W. Thomas vaø Lim Siong Guan 1 Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ Trường Quản trị công John F. Kenedy Đại học Harvard Loạt bài nghiên cứu của đội ngũ giảng viên Sử dụng các thị trường để quản trị quốc gia tốt hơn ở Singapore John W. Thomas và Lim Siong Guan Tháng 8, 2001 RWPO2-010 Bài này có thể lấy xuống miễn phí từ trang web của Thư viện điện tử của Mạng lưới Nghiên cứu Khoa học Xã hội: Những quan điểm trình bày trong loạt bài nghiên cứu của đội ngũ giảng viên KSG là thuộc về tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của Trường Quản trị công John F. Kenedy hay Đại học Harvard. Tất cả những bài được đăng đều thuộc quyền sở hữu và được đăng ký bản quyền bởi tác giả. Có thể lấy xuống từ mạng các bài nghiên cứu này nếu chỉ dùng riêng cho mục đích cá nhân. Sử dụng các thị trường để quản trị quốc gia tốt hơn ở Singapore Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Baøi ñoïc Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác gia toát hôn ôû Singapore John W. Thomas vaø Lim Siong Guan 2 Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ Của John W. Thomas và Lim Siong Guan1 Singapore là một ví dụ thành công nổi bật về phát triển. Chỉ riêng dữ kiện GNP bình quân đầu người đã tăng từ 921 USD vào lúc giành độc lập năm 1965 lên 23.285 USD năm 2000 là một bằng chứng hùng hồn cho điều này.2 Càng đáng ấn tượng hơn là Singapore đạt được thành công này trong lúc phải đối mặt với những trở ngại to lớn. Thành công này được mang lại bởi các thiết chế có đủ năng lực và kỷ cương để hoàn thành chức năng của mình và thúc đẩy tăng trưởng cùng với chất lượng cuộc sống cao, và sự ra đời của các chính sách tạo năng lực, điều kiện để thành công diễn ra nhanh như thế. Trong tác phẩm kinh điển gồm ba bảng Asian Drama của mình, Gunnar Myrdal phân biệt rõ giữa nhà nước “cứng” và nhà nước “mềm”. Các nhà nước cứng có năng lực để đạt được phát triển bởi vì họ có thể đưa ra các quyết định chính sách cần thiết và thực thi chúng, áp đặt ngay cả những nghĩa vụ ít ai ủng hộ lên công dân của mình, trong khi các nhà nước mềm không thể làm điều đó.3 Theo kinh điển, Singapore là một nhà nước cứng. Nó được sinh ra từ khủng hoảng. Nó là một thuộc địa của Anh đã trở thành một bộ phận của nước Malaysia độc lập vào năm 1959 nhưng vào tháng 8 năm 1965 nó bị cắt ra khỏi Malaysia và bị ép buộc, trước sự chống đối của Thủ tướng Lý Quang Diệu của Singapore và nhóm lãnh đạo chính trị cao nhất của ông, phải trở thành một nhà nước độc lập. Năm 1965, khi Singapore tách ra khỏi Malaysia, các triển vọng để Singapore tồn tại trông rất mong manh. Nó có rất ít đất và chẳng có tài nguyên thiên nhiên gì; các nước láng giềng lại có thái độ quá sức thù địch, và nó phụ thuộc nặng nề vào trợ cấp từ Anh Quốc để đổi lại việc cho phép Anh Quốc duy trì căn cứ quân sự chính của mình tại châu Á. Ngoài ra, nó còn có một cơ cấu dân số có tiềm năng nổ tung gồm người Hoa, người Mã và người Ấn. Tài sản duy nhất của nó là một ví trí chiến lược và giới lãnh đạo mạnh mẽ, thực dụng. Các lãnh đạo Singapore nhanh chóng đi đến kết luận rằng, để tồn tại, quốc gia của họ phải cứng rắn hơn, kỷ luật hơn, và có đầu óc thực dụng hơn những quốc gia khác. Nếp tư duy này đã thấm sâu vào quan điểm của giới lãnh đạo nước này từ năm 1965 cho đến ngày hôm nay. 1 John W. Thomas là Giảng viên ngành Chính sách Công tại Trường Quản trị công John F. Kenedy, Đại học Harvard, và Lim Siong Guan là Bí thư Thường trực về Tài chính và Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ của Chính phủ Singapore. Bài này được viết cho dự án Tầm nhìn Quản trị quốc gia vào thế kỷ 21 của Trường Quản trị công John F. Kenedy. 2 Cục Thống kê Singapore, trang web. 3 Myrdal, Gunnar, Kịch bản Á châu: Đào sâu vào Nghèo đói của các quốc gia, Bảng 1, 2, 3. New York, 1968, Vị thần cho Twentieth Century Fund. Ngược lại, ở các nhà nước mềm “các chính sách đã được quyết định lại thường không được thực thi, dù chúng đã được ban hành …. Các chính phủ nặng tính quốc gia dân tộc hơn đòi hỏi …. ít nghĩa vụ dù đó là phải làm những điều vì lợi ích của cộng đồng hoặc dù đó là tránh các hành động chống lại lợi ích đó”. Bảng 1 trang 66, Bảng 2 trang 895 đến 896. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Baøi ñoïc Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác gia toát hôn ôû Singapore John W. Thomas vaø Lim Siong Guan 3 Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ Năm 1965, Lý Quang Diệu đã có tầm nhìn rõ ràng về các triển vọng của Singapore và phải làm gì để tồn tại: “Tôi đúc kết rằng một ‘nước đảo quốc đô thị nhỏ’ ở Đông Nam Á không thể được phép là ‘bình thường’ nếu nó muốn tồn tại. Chúng ta phải nỗ lực ‘phi thường’ để trở thành một dân tộc đoàn kết chặt chẽ, mạnh mẽ và thích nghi tốt, có thể làm nhiều việc tốt hơn và với giá rẻ hơn các nước láng giềng của chúng ta, bởi vì họ muốn bỏ qua chúng ta và biến thành lỗi thời vai trò của chúng ta như cảng trung chuyển và bước trung gian cho thương mại của vùng này. Chúng ta phải khác biệt”.4 Trong những năm gần đây một xu thế phổ biến là chuyển đổi từ mô hình chính phủ xã hội chủ nghĩa mơ hồ với nhà nước là trung tâm sang mô hình chấp nhận rằng các chính phủ phải khuyến khích doanh nghiệp/công ty tư nhân theo mô hình kinh tế tư bản chủ nghĩa. Cho dù dễ nhận thấy nhất ở những quốc gia đang phát triển, nó cũng là một xu thế có thể cảm nhận được ở Bắc Mỹ và châu Âu. Nó là một sự dịch chuyển đã mang lại nhiều thay đổi, trong đó có hai điều đặc biệt quan trọng. Thứ nhất, các quốc gia chịu sự cạnh tranh quốc tế ngày càng cao, điều này có nghĩa là các chính phủ và các nền kinh tế đất nước phải trở thành hiệu quả hơn rất nhiều để cạnh tranh một cách hữu hiệu; và thứ hai, sự tăng trưởng nhanh chóng trong khu vực tư nhân đã đẩy một cách tất yếu doanh nghiệp tư nhân vào các hoạt động mà theo truyền thống được xem là thuộc lĩnh vực của chính phủ. Vậy mà, rất lâu trước khi có các thay đổi của những năm gần đây, Singapore đã nhận biết rằng nó phải trở thành hiệu quả và đủ sức cạnh tranh quốc tế để có thể tồn tại. Một bộ phận của chiến lược này là sử dụng các cơ chế thị trường để làm cho chính phủ trở nên hiệu quả hơn, và để mở cửa nền kinh tế cho cạnh tranh toàn cầu. Đối với nhiều quốc gia, sự thâm nhập của thị trường vào những khu vực trước đây được xem là lãnh địa của chính phủ đã bị xem là xói mòn năng lực và ảnh hưởng của chính phủ. Tuy thế, Singapore đã nhận biết tiềm năng của các thị trường có thể nâng cao qui trình quản trị quốc gia và đã khai thác một cách có chọn lọc các cơ chế thị trường như những công cụ của chính phủ trong một khoản thời gian. Rất hiếm có những quốc gia ở đó thị trường được sử dụng một cách rộng rãi như thế trong việc quản trị những chức năng công truyền thống; và không một quốc gia nào đã từng suy nghĩ chín chắn hơn (là Singapore) trong tiếp cận của mình đối với vấn đề này, có tính chọn lọc hơn về phương cách sử dụng thị trường vào quản trị quốc gia, hay cẩn trọng hơn trong việc đánh giá tác dụng của các thị trường và tác động của chúng lên chất lượng của quản trị quốc gia. Bài này xem xét kinh nghiệm của Singapore trong việc sử dụng các cơ chế dựa trên thị trường để đẩy mạnh các mục tiêu của mình. Nhìn từ góc độ của Singapore bài này xem xét chín (9) tình huống trong đó chính phủ đã sử dụng các cơ chế thị trường để cải thiện việc quản trị quốc gia. Những tình huống này tạo ra cơ hội để người các nước khác có thể xem xét và học hỏi từ kinh nghiệm của Singapore. II. BỐI CẢNH: THỊ TRƯỜNG và CHÍNH PHỦ 4 Lee Kuan Yew, Tiến từ Thế giới Thứ ba lên Thứ nhất: Câu chuyện Singapore: 1965-2000, Singapore 2000, NXB Times Media Pte. Ltd. trang 24. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Baøi ñoïc Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác gia toát hôn ôû Singapore John W. Thomas vaø Lim Siong Guan 4 Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ Trong công cuộc đeo đuổi mục tiêu trở thành có sức cạnh tranh quốc tế cao, bảo đảm tăng trưởng kinh tế và duy trì chất lượng cuộc sống cao, chính phủ Singapore sử dụng mọi công cụ có sẵn. Thành công của mình đã được khẳng định bởi Báo cáo Sức cạnh tranh Toàn cầu 2000, cho thấy rằng trong mục “Xếp hạng Tăng trưởng, Cạnh tranh” Singapore xếp hàng thứ nhất toàn cầu năm 1999 và hàng thứ hai năm 2000.5 Một phần, sức cạnh tranh của Singapore đã tiến triển bởi vì nước này đã không chờ mãi đến thập niên 1980 hay 1990 mới sử dụng các cơ chế thị trường, thời đại mà tư nhân hóa và thị trường trở thành mốt thời thượng như giải pháp cho những vấn đề quản trị quốc gia. Ngược lại, Singapore đã đưa thị trường vào trong việc quản trị quốc gia của mình ngay từ hồi những năm 1960, khi mà ý tưởng này rõ ràng là chưa được mấy ai ưa chuộng. Điều then chốt tuyệt đối để hiểu được thành công của Singapore trong việc áp dụng các hệ thống thị trường vào các vấn đề công chính là vai trò trung tâm của nhà nước trong việc đánh giá, kiểm soát, và điều tiết thị trường. Việc sử dụng thị trường của Singapore mang dấu ấn của chính phủ kiểm soát và giám sát mạnh mẽ. Các sáng kiến của tư nhân không thay thế cho chính phủ một cách bất ngờ hoặc bừa bãi – tư nhân hóa chỉ diễn ra vào thời điểm và khu vực mà Chính phủ đã tin chắc rằng khu vực tư nhân có thể làm việc đó tốt hơn. Chính phủ sẽ thử nghiệm và xác định khu vực nào các thị trường có thể hoàn thành chức năng với các mục tiêu xã hội. Chính phủ áp dụng cùng những tiêu chuẩn ngặt nghèo để thử nghiệm và đánh giá thành quả của thị trường cũng như đối với các chính sách của chính phủ. Thông thường, điều này có nghĩa là cả một qui trình thử nghiệm các phương án khác nhau và thực hiện các điều chỉnh, như đã làm với định giá cầu đường điện tử. Cũng cần phải lưu ý rằng các công cụ thị trường thường được sử dụng kết hợp với sự tham gia và điều tiết của khu vực công như trong trường hợp chính sách giao thông vận tải. Chính phủ có thể sử dụng các cơ chế thị trường để cải thiện quản trị quốc gia theo nhiều phương cách. Singapore sử dụng khu vực tư nhân hay thị trường để đạt được bốn nhóm mục tiêu. 1. Để phân bổ các nguồn lực khan hiếm – đặc biệt là mặt bằng, một tài nguyên rất khan hiếm ở một đảo quốc nhỏ; 2. Để thực hiện một số chức năng và dịch vụ thiết yếu mà khu vực tư nhân có thể làm tốt hơn khu vực công; 3. Để tạo ra trách nhiệm trong quần chúng bằng cách trao cho họ quyền làm chủ đối với quốc gia và sự thành công của nó; và 4. Để tạo ra các động cơ khuyến khích hành vi kinh tế và khuyến khích các công ty đa quốc gia đầu tư vào Singapore. Còn có các biến thể khác nhau trong mỗi nhóm mục tiêu trên. Người ta thừa nhận một cách rộng rãi rằng các hệ thống thị trường là hiệu quả hơn các hệ thống của chính phủ trong việc phân bổ các nguồn lực khan hiếm. Thị trường, thông qua qui trình tối đa hóa lợi nhuận, nhìn chung tạo cho các chủ sở hữu nguồn lực và các hãng kinh doanh một động cơ khuyến khích mạnh mẽ để tiến hành các dự án tạo ra giá trị mới. Tính hiệu quả của cơ chế này, tuy 5 Diễn đàn Kinh tế Thế giới và Đại học Harvard, Báo cáo Sức cạnh tranh Toàn cầu 2000, New York, NXB Oxford University Press, 2000, trang 11, Bảng 1. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Baøi ñoïc Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác gia toát hôn ôû Singapore John W. Thomas vaø Lim Siong Guan 5 Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ thế, lại phụ thuộc vào thị trường cạnh tranh. Các thị trường không cạnh tranh thường thất bại trong việc phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả và chính phủ phải bước vào để sửa sai các hậu quả. Thất bại thị trường có nhiều hình thức. Một ví dụ điển hình là trường hợp có “ngoại tác”. Chính phủ muốn kiềm chế các ngoại tác tiêu cực như ô nhiễm và thúc đẩy các ngoại tác tích cực như giáo dục cơ sở bằng biện pháp điều tiết, đánh thuế hay trợ cấp, hoặc chính phủ trực tiếp cung cấp dịch vụ đó. Thị trường còn thất bại trong việc cung cấp các hàng hóa “công”. Các tính chất “không-tranh giành” và “không-loại trừ” của hàng hóa từ quốc phòng cho đến đèn đường (và hậu quả là không thể nào tính tiền vào người sử dụng) ngầm cho thấy rằng khu vực tư nhân sẽ thiếu động cơ khuyến khích để cung cấp các hàng hóa này. Dù chính phủ có tiềm năng để cải thiện tính hiệu quả kinh tế bằng cách sửa sai những thất bại thị trường này, chẳng có gì bảo đảm rằng xã hội sẽ thu lợi từ những hành động đó.6 Thất bại của chính phủ cũng có thể xảy ra do những lý do như: • “Hội chứng tiệc buffet”: Tiêu dùng quá mức các dịch vụ của chính phủ mà việc tài trợ lại có tính tập thể (thông qua thuế), do thiếu cơ chế hạch toán phí trên người sử dụng trực tiếp. • Tác động quyền lợi-đặc biệt: Vận động hành lang của các nhóm có quyền lợi riêng để thúc đẩy chi tiêu trong lĩnh vực chọn lọc, điều này làm cho việc phân bổ nguồn lực bị lệch khỏi các kết cục hiệu quả. • Thiếu dòng lãi/lỗ hay cơ chế chấm dứt: Sản lượng của chính phủ nhìn chung không được gắn liền với bất kỳ dòng kết toán lãi/lỗ nào để đánh giá thành quả. Hơn nữa, chẳng có cơ chế đáng tin cậy nào để chấm dứt các hoạt động của chính phủ khi chúng không thành công. Một khi chi tiêu công đã được cam kết cho một dòng hạn mục nào đó, thì rất khó để rút lại. Nói cho cùng, sự chọn lựa giữa thị trường và chính phủ là vấn đề phức tạp. Thông thường nó không có tính thuần khiết hay nhị phân, mà ngược lại đó là một vấn đề về mức độ và sự chú trọng.7 Lý do để chính phủ can thiệp biến đổi khác nhau tùy theo tình hình, phụ thuộc vào hoàn cảnh và nhóm hành động liên quan. Để hiểu đầy đủ hơn kinh nghiệm của Singapore chúng ta cần xem xét cụ thể những phương cách mà Singapore đã thực sự sử dụng các hệ thống thị trường để bảo đảm quản trị quốc gia tốt hơn, chúng ta sẽ làm điều này trong phần IV. 6 Lời nhận xét cách đây một thế kỷ của nhà kinh tế học người Anh Henry Sidgwick vẫn còn phù hợp với ngày hôm nay: “Không nhất thiết rằng khi nào thị trường tự do không đáp ứng được thì sự can thiệp của chính phủ là có lợi; vì những hạn chế tất yếu của chính phủ lại có thể, trong những trường hợp cụ thể, còn tệ hại hơn các khiếm khuyết của doanh nghiệp tư nhân”. 7 Charles Wolf Jr., trong sách của ông “Thị trường hay Chính phủ” nêu lên tính chất của sự chọn lựa như ‘chọn lựa giữa các phương án không hoàn hảo’. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Baøi ñoïc Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác gia toát hôn ôû Singapore John W. Thomas vaø Lim Siong Guan 6 Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ III. CÁCH TIẾP CẬN CỦA SINGAPORE Nền tảng của quản trị quốc gia Kể từ những ngày đầu mới độc lập, Singapore đã phải vừa làm vừa học, luôn luôn tỉnh táo trước cơ hội cũng như trước các đe doạ, đồng thời sửa sai và điều chỉnh chính sách trên suốt đường đi. Kết quả là, nhu cầu phải cứng rắn, kỷ luật, và có đầu óc thực dụng đã thấm sâu vào nếp tư duy của lãnh đạo Singapore. Điều này đã biến thành những nguyền tắc cơ bản của quản trị quốc gia. Thứ nhất: nguyên tắc tự lực cánh sinh. Chẳng có ai mắc nợ Singapore về sự tồn tại của nó. Singapore phải tạo dựng cuộc sống bằng sự siêng năng và khéo léo của người dân nước mình. Thứ hai: một niềm tin vững chắc vào tầm quan trọng của “Phần thưởng cho công việc; Làm việc để giành phần thưởng”. Chính phủ ngăn chặn tham nhũng và bè phái và thúc đẩy chế độ nhân tài để khai thác tốt nhất tài năng của con người. Các phúc lợi xã hội rất thấp, và tiền trợ cấp của chính phủ được tập trung vào giáo dục, y tế và nhà ở chung cư, kèm những điều kiện ‘cùng-chi trả’ để ngăn chặn việc sử dụng quá mức. Thứ ba: kiểm tra đánh giá kết quả, chứ không dựa vào sự đồng tình của quần chúng. Không được phép quyết định chính sách bằng ý thức hệ hay giáo điều. Cuối cùng, áp dụng những phương pháp nào cho ra kết quả có hiệu quả cao nhất. Thị trường trong quản trị quốc gia Những nguyên tắc cơ bản ở trên nhấn mạnh tầm quan trọng của sự phân tích hợp lý và các nguyên lý kinh tế trong việc hoạch định chính sách. Ngay từ đầu, các nhà lãnh đạo Singapore đã nhận biết cả tính hiệu quả của hệ thống thị trường trong việc thưởng công cho nỗ lực, sáng kiến và kinh doanh, lẫn tiềm năng sử dụng các sức mạnh thị trường để cải thiện hoạt động chức năng của chính phủ. Qua thời gian, Singapore đã phát triển đến mức dựa vào thị trường như phương cách chủ yếu để phân bổ nguồn lực. Chính phủ chỉ can thiệp khi nào xảy ra thất bại thị trường, nghĩa là khi có các ngoại tác tích cực hay tiêu cực, hoặc thiếu sự canh tranh và người bán và/hoặc người mua thiếu thông tin. Tuy nhiên, hình thức can thiệp mà chính phủ sử dụng lại tuân theo các nguyên tắc và qui trình của thị trường như trong Sơ đồ 1. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Baøi ñoïc Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác gia toát hôn ôû Singapore John W. Thomas vaø Lim Siong Guan 7 Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ Sơ đồ 1: Sử dụng các thị trường vào quản trị quốc gia ở Singapore Hành động của Chính phủ: Cơ chế dựa trên thị trường Cơ chế phi thị trường Thất bại Thị trường Tiếp cận theo cầu Tiếp cận theo cung Hệ thống tính tiền người sử dụng: Người dân chỉ trả tiền cho những dịch vụ họ trực tiếp sử dụng Chính phủ điều tiết: - Khuyến khích thị trường cạnh tranh - Phân bổ nguồn lực bằng cơ chế thị trường Chính phủ phân bổ: Tiền thu thuế tài trợ cho các cơ quan chính phủ nào cung cấp dịch vụ miễn phí Cùng-chi trả; Cùng-đầu tư Chính phủ trợ cấp cho công ty và cá nhân trên cơ sở cùng chi trả hoặc cùng đầu tư Nâng cao hiệu năng hoạt động bằng thái độ kinh doanh và giải pháp quản trị Ngoại tác tích cực Ngoại tác tiêu cực Thiếu sự cạnh tranh Thông tin không hoàn hảo Có thể chia việc sử dụng các cơ chế thị trường thành hai nhóm biện pháp chính: phía cầu và phía cung. Các nguyên tắc chính yếu làm nền tảng cho mỗi nhóm có thể được liệt kê như sau: Phía cầu: Liên quan đến cách Chính phủ tính tiền các dịch vụ. Các nguyên tắc chính yếu là: • Nếu có thể xác định người sử dụng, áp dụng nguyên tắc “người sử dụng trả tiền”, với giá được định theo cầu của người sử dụng. • Trong trường hợp có các ngoại tác tích cực đáng kể (ví dụ trong trường hợp hàng hóa công), Chính phủ sẽ bước vào để trợ cấp. • Chính phủ trợ cấp dựa trên cơ sở cùng-đầu tư/cùng-chi trả. Điều này tạo ra các động cơ thị trường đúng đắn, vì nó dựa trên nguyên tắc độ sẵn lòng chi trả, theo đó giá phù hợp sẽ phát tín hiệu để đạt sự phân bổ/phân phối hiệu quả. • Mức độ trợ cấp của chính phủ (và mức cùng-chi trả tương ứng) phụ thuộc vào mức độ thiết yếu của dịch vụ liên quan và mức độ của các ngoại tác đi kèm. Ví dụ, dịch vụ nhà ở, giáo dục và y tế nhận được lượng trợ cấp lớn nhất trong ngân sách của chính phủ. Phía cung: Liên quan đến cách Chính phủ cung cấp các dịch vụ công. Các nguyên tắc chính yếu là: • Việc cung cấp dịch vụ sẽ được giành cho khu vực tư nhân nếu có sẵn các giải pháp thị trường. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Baøi ñoïc Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác gia toát hôn ôû Singapore John W. Thomas vaø Lim Siong Guan 8 Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ • Nếu sẽ hiệu quả hơn để duy trì chỉ một ít nhà cung cấp dịch vụ tư nhân (do Singapore có qui mô nhỏ và bị giới hạn về đất đai và mặt bằng), chính phủ sẽ phân bổ thông qua các cơ chế thị trường (ví dụ, đấu thầu để giành giấy phép hoạt động). Điều này cho phép chính phủ thu lại khoản tô kinh tế (rent: tiền thuê = siêu lợi nhuận) và sau đó tái phân phối cho công chúng. Điều này được ưa chuộng hơn là các công ty độc quyền tư nhân, vì họ có thể khai thác tô kinh tế từ người tiêu dùng dưới hình thức tỷ lệ lãi cao. • Các thị trường nội bộ được lập ra bên trong khu vực chính phủ để đưa vào các sức mạnh thị trường và áp đặt kỷ cương cùng những động cơ khuyến khích lên người cung cấp và người tiêu dùng các dịch vụ nội bộ. • Thái độ kinh doanh và giải pháp quản trị được áp dụng để nâng cao hiệu năng hoạt động của các tổ chức công. Sơ đồ 2 trình bày dưới dạng sơ đồ các nguyên tắc trên, tóm lược phương cách chúng được áp dụng như một bộ phận của bộ khung hoạch định chính sách chung. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Baøi ñoïc Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác gia toát hôn ôû Singapore John W. Thomas vaø Lim Siong Guan 9 Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ Sơ đồ 2: Áp dụng thực tế của các Nguyên tắc thị trường IV. CÁC VÍ DỤ CHÍNH SÁCH CỤ THỂ TỪ KINH NGHIỆM CỦA SINGAPORE Các nguyên tắc thị trường được kết hợp vào nhiều chính sách, chương trình và hoạt động của chính phủ. Một số ví dụ như bảo hiểm xã hội; nhà ở chung cư; y tế; giáo dục; tắc nghẽn giao Khu vực tư nhân cung cấp dịch vụ Chính phủ can thiệp Trung ương tài trợ thông qua thu thuế Chính phủ phân bổ thông qua cơ chế thị trường Người sử dụng trả tiền; giá tính theo cầu sử dụng và khả năng chi trả Cơ quan chính phủ cung cấp dịch vụ Có ngoại tác không? Tính đủ chi phí, không trợ cấp Triển khai các thị trường nội bộ và áp dụng thái độ kinh doanh vào quản trị (ví dụ, tính tiền giữa các ban ngành, EVA), lấy cầu làm nguyên tắc hạch toán Chính phủ trợ cấp, trên cơ sở cùng- chi trả Xác định được từng người sử dụng không? Có thể mua ngoài từ các nhà cung cấp cạnh tranh không? Có thất bại thị trường không? Phía cầu Phía cung KHÔNG CÓ Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Baøi ñoïc Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác gia toát hôn ôû Singapore John W. Thomas vaø Lim Siong Guan 10 Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ thông và sở hữu và sử dụng xe ôtô; thuế đối với lao động người nước ngoài; công nghệ của những công ty có liên kết với chính phủ và phát triển chuỗi xí nghiệp; và các thị trường bên trong các cơ quan chính phủ. Ta sẽ thấy rõ thêm vấn đề khi tìm hiểu những chính sách này đã được xây dựng như thế nào, và lưu ý việc sử dụng các nguyên tắc thị trường trong từng loại chính sách. Bảo hiểm xã hội - Quỹ Tiết kiệm Trung ương Quỹ Tiết kiệm Trung ương (CPF) là chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc tiết kiệm khi có thu nhập, dựa trên nguyên tắc tiết kiệm, tự lực và cá nhân tự chịu trách nhiệm. CPF được thành lập năm 1955 nhằm khuyến khích tiết kiệm để có thu nhập cơ bản khi nghỉ hưu. Đây là quỹ tiết kiệm bắt buộc đối với tất cả người lao động ăn lương của chính phủ và tư nhân, nhưng được phép tùy chọn đối với các cá nhân làm nghề tự do. Hiện nay CPF có 2,8 triệu thành viên, và chỉ có 40.000 người Singapore ở độ tuổi trưởng thành không có tài khoản CPF. Ý định ban đầu chỉ thuần túy là tiết kiệm cho nghỉ hưu, CPF từ đó đã tiến triển thành một chương trình tiết kiệm toàn diện giúp tài trợ cho thành viên CPF về y tế, nhà ở, giáo dục và các nhu cầu khi nghỉ hưu. Tuy nhiên, tính chất quan trọng nhất của nó đã không thay đổi kể từ 1955. Suất sinh lợi trên số dư tài khoản CPF của các thành viên phản ánh lãi suất thị trường,8 và có mối liên kết trực tiếp giữa tiền đóng vào và lợi ích tích lũy, vì tất cả tiền đóng vào đều được ghi vào tài khoản riêng của cá nhân, không có tái phân phối giữa các thành viên, điều này ngăn chặn những ý nghĩ cho rằng tiền hưu trí là một hàng hóa cho không. Mọi người lao động ăn lương phải đóng góp 20% thu nhập của mình vào CPF, và người sử dụng lao động phải góp thêm một khoản tương đương.9 Chính phủ không đóng góp gì cho CPF ngoài tiền phải đóng với vai trò là người sử dụng lao động trong khu vực công, và các ưu đãi về thuế – với CPF tiền đóng góp, tiền tích lũy và tiền rút ra đều được miễn thuế. Mặc dù tỷ lệ đóng góp CPF tổng cộng cho thấy một khoản chênh lệch lớn giữa chi phí lao động và tiền lương người lao động mang về nhà, nó vẫn được thực hiện thành công với sự bóp méo rất nhỏ đối với thị trường lao động do được chấp nhận rộng rãi bởi người sử dụng lao động và người lao động ăn lương. Ngoài ra, tính linh hoạt của thị trường lao động được bảo đảm bằng các biện pháp khác như áp dụng lương trọn gói khả biến và thành lập Hội đồng Tiền lương Quốc gia vào năm 1973 – một cơ quan gồm ba bên để củng cố những mối quan hệ giữa chính phủ, người lao động và người sử dụng lao động (giới chủ) và đưa ra các chỉ đạo về điều chỉnh tiền lương hàng năm. Ngoài việc tạo ra một cơ chế để khuyến khích tiết kiệm cho nghỉ hưu, thiết kế của CPF còn bảo đảm rằng các nhu cầu cơ bản như nhà ở, y tế và giáo dục được đáp ứng. Các thành viên được tự do rút tiền tiết kiệm CPF của mình cho mục đích mua nhà, đầu tư tài 8 Lãi suất trên tài khoản của thành viên được tính dựa trên trung bình với trọng số 20% là lãi suất tiết kiệm và 80% là lãi suất tiền gửi kỳ hạn 12 tháng của ngân hàng thươ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfsinggapore_683.pdf