Thảo luận Thị trường nhựa Việt Nam

Trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là động lực to lớn thúc đẩy tăng trường kinh tế. Hội nhập kinh tế toàn cầu sẽ mở ra nhiều cơ hội kinh doanh mới, đồng thời cũng có nhiều thách thức, nhưng đã ra “biển lớn” thì doanh nghiệp phải chấp nhận luật chơi. Đó là lý do các doanh nghiệp nhựa đã không ngừng đầu tư, đổi mới công nghệ để thích ứng và tìm kiếm cơ hội mới từ các hội thảo, hội chợ trong nước và quốc tế.

doc49 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1008 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Thảo luận Thị trường nhựa Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG NHỰA VIỆT NAM 1.1 Nhiều cơ hội mở ra cho ngành Nhựa Việt Nam : Trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là động lực to lớn thúc đẩy tăng trường kinh tế. Hội nhập kinh tế toàn cầu sẽ mở ra nhiều cơ hội kinh doanh mới, đồng thời cũng có nhiều thách thức, nhưng đã ra “biển lớn” thì doanh nghiệp phải chấp nhận luật chơi. Đó là lý do các doanh nghiệp nhựa đã không ngừng đầu tư, đổi mới công nghệ để thích ứng và tìm kiếm cơ hội mới từ các hội thảo, hội chợ trong nước và quốc tế. 1.2 Hướng tới thị trường thế giới : Hiện tại, Việt Nam có khoảng 1.400 doanh nghiệp (DN) nhựa. Riêng tại TP.HCM, đã thu hút hơn 80% DN ngành Nhựa của cả nước. Giá trị hàng hóa xuất khẩu mỗi năm của Ngành đạt gần 400 triệu USD, với các sản phẩm thế mạnh là bao bì, sản phẩm nhựa tiêu dùng, nhựa xây dựng và sản phẩm nhựa kỹ thuật cao. Ba nước xuất khẩu sản phẩm nhựa lớn nhất vào Mỹ là Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia đang bị áp dụng thuế chống bán phá giá với tỷ lệ khá cao từ 34,84% - 129,86%. Do giá nhập khẩu quá cao, nguồn cung cấp hàng bị co hẹp, các nhà nhập khẩu Mỹ đang tìm kiếm các nhà cung cấp thay thế khác. Đây chính là cơ hội cho các doanh nghiệp sản xuất nhựa Việt Nam. Tại thị trường trong nước, sản phẩm nhựa do các DN Việt Nam sản xuất đã có mặt trong hầu hết các ngành Công nghiệp, Nông nghiệp, Giao thông vận tải, Thủy sản, Xây dựng, Điện-điện tử. Những sản phẩm đòi hỏi chất lượng cao như ống dẫn dầu, đồ nhựa cho ôtô và máy vi tính cũng đã được các DN nhựa Tiền Phong, Phương Đông, Tân Tiến, Bình Minh sản xuất thành công. Ông Nguyễn Đăng Cường, Tổng Thư ký Hiệp hội Nhựa Việt Nam (VPA) nhận định, việc xóa bỏ hàng rào thuế quan khi Việt Nam chính thức là thành viên của WTO sẽ tạo cơ hội lớn cho việc xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài. Ông còn cho biết thêm, hiện nay, lĩnh vực sản xuất nhựa cũng đang bắt đầu là một trong những điểm hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các DN Nhật Bản. Song, với mục tiêu phát triển bền vững, ngành Nhựa đang được kỳ vọng là sẽ phát triển mạnh trong những năm tới, với kim ngạch xuất khẩu sẽ đạt khoảng 1,3 tỷ USD vào năm 2010, trong đó, đẩy mạnh xuất khẩu, chú trọng các thị trường tiềm năng như châu Phi, Trung Quốc, Nga, Đông Âu, Mỹ La tinh… Đầu tư đổi mới công nghệ là nhiệm vụ hàng đầu để gia tăng năng xuất cũng như nâng cao chất lượng hàng hóa mà các DN hiện nay đang hướng tới. Chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2007, Công ty CP Nhựa Rạng Đông đã đầu tư hơn 150 tỷ đồng để đầu tư, nhập khẩu thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến của châu Âu. Hệ thống trang thiết bị hiện đại đã giúp cho Công ty tung ra thị trường nhiều sản phẩm mới, chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế và được sự chấp nhận của thị trường châu Âu. Mặc khác, hiện nay, DN Nhựa Việt Nam đang quan tâm tìm kiếm nguồn nguyên liệu nhựa ổn định, tìm kiếm cơ hội hợp tác với đối tác liên doanh, chuyển giao công nghệ sản xuất sản phẩm nhựa công nghệ cao. Nắm bắt nhu cầu đó, VPA đã đề ra các phương hướng cụ thể trong Đại hội Hiệp hội Nhựa Việt Nam nhiệm kỳ IV (vào ngày 23/6/2007). Theo đó, Ban Chấp hành VPA đã có buổi họp bàn và phân công trách nhiệm của các thành viên trong Ban Lãnh đạo Hiệp hội, với các công việc cụ thể như:  Thành lập Ban Tổ chức - Đào tạo, Xúc tiến Thương mại - Đối ngoại, Công tác Xã hội ... Ra mắt Bản tin Hiệp hội Nhựa Việt Nam số 1 (vào tháng 9/2007) và nâng cấp hoàn thiện trang web của Hiệp hội theo địa chỉ www.vpas.vn; Thông tin cho các DN hội viên đăng ký tham gia vào các kỳ hội chợ trong nước và quốc tế; Lên kế hoạch và tổ chức các buổi hội thảo và các lớp học chuyên về ngành Nhựa... Nằm trong khuôn khổ của chương trình thúc đẩy ngành Nhựa phát triển bền vững, VPA đã có những hỗ trợ xúc tiến thương mại trong và ngoài nước để tạo cơ hội cho các DN nhựa Việt Nam tiếp nhận với những công nghệ mới, xu hướng sản xuất, thiết bị và các sản phẩm mới nhất được tung ra thị trường bởi các tập đoàn sản xuất nhựa, cao su hàng đầu của thế giới. Đồng thời, đó cũng là cơ hội để các DN nhựa Việt Nam mở rộng kinh doanh xuất khẩu trực tiếp sản phẩm nhựa sang các nước. Trong thời gian qua, nhiều buổi hội thảo chuyên đề đã diễn ra tại TP.HCM, tiêu biểu là hội thảo “Ngành Nhựa Malaysia-Việt Nam” do Hiệp hội Nhựa Malaysia, Hiệp hội Nhựa Việt Nam, Cục Đầu tư nước ngoài Việt Nam (Bộ Kế hoạch & Đầu tư), Cục Xúc tiến Đầu tư Malaysia tổ chức trong tháng 7/2007. Sau buổi hội thảo này, nhiều công ty đã tìm được các đối tác làm ăn. Ngoài các cuộc hội thảo, thông qua các hội chợ trong nước và quốc tế cũng là cơ hội để các DN Việt Nam tiếp cận được với công nghệ mới, từ đó họ sẽ có một sự “lột xác” nhanh chóng như lời khẳng định của ông Jan Noether, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Đức tại TP.HCM. Thành công tại “Hội chợ ngành công nghiệp Nhựa và Cao su - Interplas 2007” diễn ra tại Trung tâm Triển lãm Quốc tế BITEC, Bangkok, Thái Lan trong tháng 6/2007 là tiền đề để các DN Nhựa Việt Nam mạnh dạn tham gia các hội chợ quốc tế khác trong khu vực và thế giới. Sắp tới đây, VPA sẽ tổ chức cho doanh nghiệp nhựa Việt Nam tham gia hội chợ quốc tế lớn nhất về ngành Nhựa – Cao su, được tổ chức 3 năm một lần ở Đức, bắt đầu từ ngày 24 - 31/10/2007. Ông Hồ Đức Lam, Phó Chủ tịch VPA cho biết “Các DN Việt Nam tham gia vào hội chợ 2007 chuyên ngành về lĩnh vực công nghiệp nhựa, tổ chức ở Duesseldorf (Đức), được Chính phủ hỗ trợ 100% chi phí vé máy bay khi tham dự. Đến đây các doanh nghiệp sẽ có một tầm nhìn toàn cảnh về ngành nhựa quốc tế”. 1.3 Khó khăn Trên thị trường, nhu cầu các sản phẩm sản xuất bằng nguyên liệu nhựa rất lớn. Ngoài các sản phẩm gia dụng, nguyên liệu nhựa còn được sử dụng trong các ngành điện- điện tử, sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, bao bì, giao thông... Nhu cầu lớn nhưng trên thị trường có rất nhiều nhà cung cấp trong và ngoài nước nên áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt. Ứng phó với giá nguyên liệu : Theo Hiệp hội Nhựa, hiện nay, ngành sản xuất nhựa trong nước phải nhập khẩu trên 80% nguyên liệu. Giá nguyên liệu trên thị trường thế giới thường không ổn định, trong khi đó chi phí nguyên vật liệu của các doanh nghiệp nhựa chiếm tới khoảng 70 - 75% giá thành sản phẩm; do đó, việc tăng hoặc giảm giá nguyên vật liệu nhập khẩu sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp nhựa. Giá nhựa nguyên liệu chịu tác động của giá xăng dầu trên thế giới, mà đây lại là mặt hàng rất nhạy cảm trước các tình hình chiến sự, kinh tế thế giới... Vài năm nay, các doanh nghiệp luôn phải sản xuất ở tình trạng giá nguyên liệu đứng ở mức cao. Giá nguyên liệu thay đổi liên tục nhưng các doanh nghiệp sản xuất không thể liên tục điều chỉnh tăng giá sản phẩm tương ứng, đặc biệt là các sản phẩm nhựa công nghiệp, thủy sản, nông nghiệp... Nếu tăng giá sẽ gây tâm lý không tốt cho khách hàng ,chủ yếu là bà con nông dân. Với lại, sẽ rất khó điều chỉnh giá tăng với các hợp đồng đã được ký từ trước.Với những hợp đồng lớn đã ký trước, nếu điều chỉnh giá có thể sẽ mất khách hàng. Việc tăng giá cũng khó theo kịp mức tăng giá đầu vào. Mới đây, giá dầu mỏ thế giới có lúc tăng lên trên 90 USD/thùng. Chịu sự tác động của giá dầu mỏ thế giới, giá nguyên liệu nhựa cũng được dự đoán sẽ tiếp tục biến động theo chiều hướng tăng. Áp lực cạnh tranh về giá và chất lượng của các doanh nghiệp ngành nhựa, vì thế, sẽ ngày càng gay gắt. Sản phẩm nhựa cao cấp chiếm ưu thế : Các doanh nghiệp ngành Nhựa chưa nhận thức đầy đủ cơ hội cũng như thách thức sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); do đó, chưa quan tâm nghiên cứu nhu cầu phát triển của ngành trong tương lai để đầu tư đón đầu vào các sản phẩm mang tính hội nhập cao, đảm bảo khả năng cạnh tranh cho sản phẩm trên thị trường trong nước và ngoài nước. Sản phẩm làm từ nhựa ngày càng đa dạng, người tiêu dùng ngày càng có nhu cầu sử dụng các sản phẩm đẹp, chất lượng cao. Hiện tại, trên thị trường ngày càng có nhiều sản phẩm nhựa nhập khẩu (chủ yếu từ Thái Lan, Trung Quốc) với mẫu mã đẹp, chất lượng cao được nhiều khách hàng chú ý. Khó khăn về vốn: Trong những năm qua, việc sử dụng vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhựa  còn một số hạn chế: các dự án đầu tư mới chủ yếu là đầu tư mở rộng và đầu tư chiều sâu, nhưng quy mô đầu tư nhỏ, vốn không lớn, nên hiệu quả chưa cao, chi phí quản lý chiếm tỷ trọng cao trong tổng chi phí đầu tư. Nhìn từ góc độ toàn ngành, việc đầu tư thường trùng lặp, dẫn đến cạnh tranh sản phẩm trên thị trường rất gay gắt, làm giảm hiệu quả đầu tư. Nhà nước đã có nhiều biện pháp tích cực hỗ trợ cho ngành Nhựa phát triển, nhưng đồng thời, DN cũng phải có sự hợp tác chặt chẽ thì mới mong đạt được hiệu quả như mong muốn. Hy vọng với sự phấn đấu lâu dài đó, ngành Nhựa Việt Nam sẽ vững bước trên đường hội nhập.     1.4 Một số giải pháp chủ yếu để ngành Nhựa Việt Nam tiếp tục phát triển với tốc độ cao, phù hợp với xu thế hội nhập: • Thứ nhất, tập trung nguồn vốn đầu tư cho các lĩnh vực theo chiến lược phát triển ngành Nhựa giai đoạn 2006 - 2010. Với mục tiêu để ngành Nhựa trở thành một ngành mũi nhọn, cần phải tập trung đầu tư vào các lĩnh vực như: sản xuất nguyên liệu, chú trọng sản xuất các loại nguyên liệu mà trong nước có nhu cầu lớn và Việt Nam có lợi thế. Đẩy mạnh đầu tư vào các dự án sản xuất khuôn mẫu, trục in, thiết bị, phụ tùng có nhu cầu cao, chất lượng tốt, phục vụ cho việc sản xuất hàng nhựa cao cấp và các sản phẩm nhựa xuất khẩu. Đối với việc đầu tư sản xuất sản phẩm chất lượng cao thay thế hàng nhập khẩu, cần chuyển dịch mạnh cơ cấu đầu tư sản phẩm, đó là tập trung vào các loại sản phẩm nhựa kỹ thuật và vật liệu xây dựng, đây là những sản phẩm có nhu cầu rất lớn trên thị trường. • Thứ hai, triển khai thực nghiệm gắn với ứng dụng khoa học và công nghệ vào thực tế sản xuất. Đây là yêu cầu thực tế để đáp ứng mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài của sự phát triển của các doanh nghiệp nhựa Việt Nam. Ngoài ra, để phát triển bền vững, cần phải sớm tập trung đầu tư vào các doanh nghiệp thu gom, phân loại phế thải nhựa, xử lý để tái sử dụng, hình thành hệ thống doanh nghiệp sản xuất, chế biến nhựa tái sinh và sử dụng nhựa tái sinh, góp phần vào việc sử dụng tiết kiệm nguyên, nhiên vật liệu, giảm giá đầu vào. • Thứ ba, cần nâng cao chất lượng lập, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư làm cơ sở nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho phát triển ngành Nhựa. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn đầu tư và lựa chọn hình thức huy động vốn đầu tư thích hợp. Thứ tư, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển của ngành Nhựa. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, các doanh nghiệp nhựa Việt Nam cần liên kết với các cơ sở đào tạo, nghiên cứu để đào tạo lại lực lượng lao động hiện có. Đồng thời, doanh nghiệp phải có chính sách tuyển chọn, bố trí, sử dụng, đãi ngộ hợp lý đối với lao động có trình độ 3. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG TY NHỰA BÌNH MINH Theo Quyết định số 1488/QĐ-UB ngày 16 tháng 11 năm 1977 của Uỷ Ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh chấp nhận hai Công ty ống nhựa hoá học Việt Nam (Kepivi) và Công ty Nhựa Kiều Tinh công tư hợp doanh với Nhà nước lấy tên là “Nhà máy Công tư Hợp doanh Nhựa Bình Minh” trực thuộc Tổng Công ty Công nghệ phẩm – Bộ Công nghiệp nhẹ. Sản phẩm chủ yếu của nhà máy là sản xuất hàng nhựa gia dụng như thau, xô, chậu…. Nhà máy phải vượt qua những khó khăn của thời bao cấp khi không có nguồn cung cấp nguyên vật liệu. Đến năm 1986, Nhà máy chạy những mét ống UNICEF đầu tiên, làm tiền đề cho việc chuyển thành Công ty chuyên sản xuất ống nhựa sau này. Ngày 08 tháng 02 năm 1990 Bộ Công nghiệp nhẹ ra Quyết định số 86/CNn-TCLĐ về việc thành lập “Xí nghiệp Khoa học Sản xuất Nhựa Bình Minh” trên cơ sở thành lập lại “Nhà máy Công tư Hợp doanh Nhựa Bình Minh”. Xí nghiệp là đơn vị thành viên trực thuộc Liên hiệp Sản xuất – Xuất Nhập khẩu nhựa – Bộ Công nghiệp nhẹ (tiền thân của Tổng Công ty Nhựa Việt Nam – VINAPLAST) với nhiệm vụ chủ yếu là nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật mới vào ngành gia công chất dẻo, tổ chức sản xuất thực nghiệm các loại sản phẩm mới. Ngày 24 tháng 03 năm 1994 Ủy Ban Nhân dân TP. Hồ Chí Minh ra quyết định số 842/QĐ-UB-CN về việc quốc hữu hoá Xí nghiệp Khoa học Sản xuất Nhựa Bình Minh và chuyển đổi thành Doanh nghiệp Nhà nước. Ngày 03 tháng 11 năm 1994 Bộ Công nghiệp nhẹ ra Quyết định số 1434/CNn-TCLĐ về việc thành lập Doanh nghiệp Nhà nước là “Công ty Nhựa Bình Minh”, trực thuộc Tổng Công ty Nhựa Việt Nam với ngành nghề kinh doanh là sản xuất các sản phẩm chính là ống nhựa, bình phun thuốc trừ sâu, dụng cụ y tế, các sản phẩm nhựa kỹ thuật. Đến giai đoạn này Nhựa Bình Minh đã được thị trường biết đến như một doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực ống nhựa tại thị trường Việt Nam. Ngày 04/12/2003 Bộ Công nghiệp ra Quyết định số 209/2003/QĐ-BCN về việc chuyển Công ty Nhựa Bình Minh thành Công ty Cổ phần Nhựa Bình Minh. Ngày 26/12/2003 Công ty tiến hành Đại hội cổ đông lần đầu tiên thành lập Công ty Cổ phần Nhựa Bình Minh và đến ngày 02/01/2004 “Công ty Cổ phần Nhựa Bình Minh” đã chính thức đăng ký kinh doanh và đi vào hoạt động dưới hình thức Công ty cổ phần . Ngày 11/07/2006 Công ty Cổ phần Nhựa Bình Minh chính thức niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Công ty cổ phần Nhựa Bình Minh đã trở thành một trong những doanh nghiệp nhựa hàng đầu và có uy tín lớn trong ngành công nghiệp nhựa Việt Nam,là doanh nghiệp nhựa hàng đầu tại Việt Nam chuyên sản xuất các sản phẩm ống PVC cứng, PEHD(ống gân và ống trơn), phụ tùng ống, bình phun thuốc trừ sâu, nón bảo hộ lao động và các sản phẩm nhựa kỹ thuật khác. Các sản phẩm nhựa được sản xuất theo tiêu chuẩn ISO 4427 : 1996, TCVN 7305 : 2003 , BS 3505:1968, AS/NZS 1477:1996,... trên các dây chuyền thiết bị hiện đại của các hãng nổi tiếng như KraussMaffei, Cincinnati, Corma,... Với hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001 : 2000 và đội ngũ cán bộ nhân viên lành nghề, có trình độ, có tâm huyết đang là ưu thế cạnh tranh đáng kể của Nhựa Bình Minh trên thương trường. Nhựa Bình Minh đã đạt được sự tín nhiệm cao của khách hàng trong và ngoài nước. Nhựa Bình Minh đã đạt nhiều giải thưởng trong nước, quốc tế và giải thưởng “Sao Vàng Đất Việt” dành cho thương hiệu “Nhựa Bình Minh”. Sản phẩm Nhựa Bình Minh liên tục được bình chọn “Hàng Việt Nam Chất Lượng Cao” từ năm 1996 đến nay. 3.1 Môi trường vĩ mô – vi mô : 3.1.1– Môi trường vĩ mô: Môi trường vĩ mô bao gồm các yếu tố, các lực lượng mang tính chất xã hội rộng lớn, chúng có tác động ảnh hưởng tới toàn bộ môi trường vi mô và tới các quyết định của doanh nghiệp. Môi trường vĩ mô là tập hợp tất cả các yếu tố mà từng doanh nghiệp không thể kiểm soát và thay đổi được, đó là các yếu tố: kinh tế, xã hội, dân số, chính trị và chính phủ, tự nhiên. a, Các yếu tố thể chế - luật pháp Đây là yếu tố có tầm ảnh hưởng tới tất cả các ngành kinh doanh trên một lãnh thổ, các yếu tố thể chế, luật pháp có thể uy hiếp đến khả năng tồn tại và phát triển của bất cứ ngành nào. Khi kinh doanh trên một đơn vị hành chính, các doanh nghiệp sẽ phải bắt buộc tuân theo các yếu tố thể chế luật pháp tại khu vực đó. - Sự bình ổn : Việt Nam được thế giói biết đến là một đất nước hòa bình, ổn định, không có xung đột đảng phái, chính trị. Do đó Việt Nam được đánh giá là điểm đến an toàn cho các nhà đầu tư . - Các chính sách thuế: Để bảo hộ cho các doanh nghiệp trong nước trước sức cạnh tranh mạnh mẽ từ nước ngoài khi VN gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO,nhà nước đã tiến hành nhiều biện pháp ưu đãi về thuế quan và hạn nghạch, cụ thể mức thuế suất được áp dụng đối với nguyên vật liệu là 0%. Thế nhưng cũng phải thừa nhận một điều rằng chính sách thuế của chúng ta vẫn còn rất nhiều bất cập, đó là Việc tăng thuế thu nhập của DN FDI từ 25% lên 28% bắt đầu từ 1/1/2004 và cách khấu trừ thuế thu nhập phức tạp cùng 1 số chi phí hợp lý về tiếp thị, quảng cáo, khuyến mại bị hạn chế ở mức từ 7% - 10%. VN là QG duy nhất trong khu vực không cho khấu trừ toàn bộ các chi phí tiếp thị, quảng cáo, khuyến mãi đồng thời còn không tính nhiều loại chi phí hợp lý khác, điều đó đã đẩy mức thuế thu nhập lên tới 40%, cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực: Quốc gia Trung quốc Inđônêxia Philippin Malaysia Singapo Thuế suất 33% 30% 32% 29% 22% Thủ tục hoàn thuế thu nhập cho tái đầu tư quá phức tạp gây khó khăn cho nhà đầu tư và hạn chế tái đầu tư. Cách đánh thuế thu nhập cá nhân theo phương pháp lũy tiến đã làm cho VN trở thành quốc gia có mức thuế sát phạt nhất trong khu vực (từ 10% - 65%), trong khi đó : Quốc gia Trung Quốc Indonexia Malayxia Singapore Thuế suất 5% - 45% 5% - 35% 1% - 29% 5% - 22% Như vậy cũng đồng nghĩa với việc chi phí trả cho LĐ VN cao hơn nhiều nước nên không hấp dẫn các nhà đầu tư. Luật đầu tư chung (ĐTC) là một trong hai luật kinh doanh quan trọng (cùng với Luật DN thống nhất) để đẩy nhanh tốc độ phát triển khu vực kinh tế tư nhân cũng như đầu tư nước ngoài và góp phần kích thích tăng trưởng kinh tế. Quyền tự do đầu tư được mở rộng. Nên đã thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài, nâng cao sức cạnh tranh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có cơ hội học tập hoàn thiện bản than hợn Luật đã hủy bỏ các ưu đãi cũng như các ngăn cấm vi phạm hiệp định về trợ cấp chính phủ phù hợp với cam kết quốc tế. Điều này là phù hợp, bởi chúng ta đã tham gia vào sân chơi thương mại quốc tế thì các doanh nghiệp trong nước phải tạo ra lợi thế, phải tự đứng vững trên đôi chân của chính mình, DN nào không đủ khả năng sẽ tự động bị thị trường đào thải. Công ty nhựa Bình Minh đã đứng vững và tiếp tục đi lên tạo được hình ảnh riêng cho mình. Các DN hiện nay còn phải chịu sức ép từ các đơn vị thanh tra như: tài chính, thuế, môi trường, xây dựng, sử dụng đất đai, lao động, hình sự, thống kê…ngoài ra, còn có các cơ quan thanh tra chuyên ngành về chứng khoán, bảo hiểm, ngân hàng, hàng hải, bưu chính viễn thông, vệ sinh an toàn thực phẩm… b, Các yếu tố về kinh tế Việt Nam được thế giới biết đến là một nước đang trên đà tăng trưởng, năm 2007 tỉ lệ tăng trưởng GDP đạt 8.4%, kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh ( tăng 22% - cao nhất từ trước tới nay). Việt Nam đã được xếp vào 1 trong 15 nước phát triển năng động nhất trên thế giới, vị thế đất nước ta ngày càng khẳng định và nâng cao trên trường quốc tế về cả hai phương diện chính trị cũng như kinh tế. Tuy nhiên, đi cùng với tăng trưởng luôn là yếu tố lạm phát, 2007 lạm phát của chúng ta là 12% đạt mức lạm phát phi mã, điều đó đã đẩy giá của các hàng hóa lên cao, làm mức sống của người dân giảm di một cách tương đối. Để đảm bảo chất lượng cuộc sống cho người lao động thì buộc các doanh nghiệp phải tăng lương cho công nhân, diều này làm tăng chi phí sảnơ xuất. Trên thế giới, nền kinh tế Mỹ đi vào khủng hoảng nên đồng USD giảm giá so với các đồng tiền khác.Việt Nam cũng không nằm trong ngoại lệ, tỷ giá VND/USD Điều này sẽ có hai tác động. Thứ nhất, do các hợp đồng nhập khẩu của chúng ta chủ yếu đã được ký trước và đều được thanh toán bằng USD nên khi tỷ giá giảm như vậy chúng ta sẽ được hưởng chênh lệch giá. Thứ hai, xét về dài hạn các nhà cung cấp nguyên liệu cho ngành nhựa nói chung và cho Bình Minh nói riêng đều từ các quốc gia có nền kinh tế phát triển(OPEC) nên đồng tiền của họ mạnh hơn so với VND, và do đó sau này họ sẽ yêu cầu chúng ta thanh toán bằng đồng tiền của họ. Thêm vào đó do hiện tượng thiếu tiền đồng nên các NHTM Việt Nam đua nhau tăng lãi suất để thu hút vốn và hạn chế, thắt chặt cho vay. Ngoài ra, để kiềm chế lạm phát NHTW đã tăng dự trữ bắt buộc điều này sẽ làm tăng chi phí huy động. Như chúng ta dã biết: Ls cho vay = Ls huy động+ phần bù rủi ro+ %cf hđ+LNdự kiến Như vậy là chi phí của DN sẽ tăng lên rất nhanh làm cho giá thành tăng lên. Nhưng DN không thể tăng giá bán cùng với tốc độ tăng giá thành được bởi như vậy sẽ làm giảm tính cạnh tranh trên thị trường và khó có thể được người tiêu dùng chấp nhận. c, Yếu tố văn hóa – xã hội Cùng với sự phát triển kinh tế chất lượng cuộc sống của người dân không ngừng được tăng lên, trình độ nhận thức, học vấn ngày càng được cải thiện, khuynh hướng tiêu dùng cũng đã thay đổi. Nếu trước kia quan niệm sống là ăn no mặc ấm thì nay phải là ăn ngon mặc đẹp. Do đó các DN cần phải nghiên cứu kỹ thị trường để có thể sản xuất được những sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đẹp. Ngoài ra DN cũng phải có kế hoạch PR phù hợp. d, Yếu tố công nghệ Chúng ta đang sống trong giai đoạn nền kinh tế tri thức, khoa học công nghệ phát triển như vũ bão. Do đó nếu chúng ta không theo kịp thì sẽ bị đào thải nhanh chóng. Bình Minh đã làm tốt công tác này: Từ khi ra đời Bình Minh luôn chú trọng công tác này nên các sản phẩm của công ty luôn được người tiêu dung đón nhận. Đặc biệt trong diều kiện hội nhập hiện nay, khi mà sức cạnh tranh ngày càng lớn, để có thể tồn tại được ngay trên chính sân nhà và có cơ hội tìm kiếm thị trường quốc tế.Bình Minh đã đầu tư Các sản phẩm nhựa được sản xuất theo tiêu chuẩn ISO 4427 : 1996, TCVN 7305 : 2003 , BS 3505:1968, AS/NZS 1477:1996,... trên các dây chuyền thiết bị hiện đại của các hãng nổi tiếng như KraussMaffei, Cincinnati, Corma,... Do đó các sản phẩm của công ty luôn có chỗ đứng trên thị trường. e, Yếu tố tự nhiên Khoa học kỹ thuật phát triển nên có rất nhiều nguyên liệu được tìm ra để thay thế cho các nguyên liệu tự nhiên đang ngày càng cạn kiệt. Nguyên liệu của ngành nhựa chủ yếu được nhập khẩu, trong nước chua nghiên cứu tìm được nguyên liệu . Đây là vấn đề cần quan tâm nhất hiện nay. 3.1.2 Môi trường vi mô Bao gồm các yếu tố liên quan chặt chẽ đến doanh nghiệp và nó ảnh hưởng đến khả năng kinh doanh của DN. Đó là các yếu tố nội tại của DN: nhà cung cấp, khách hàng, đối thủ cạnh tranh tiềm tang, đối thủ cạnh tranh trong ngành, sản phẩm thay thế, bản than doanh nghiệp. Thay vì việc không thể tác động vào môi trườngvi mô thì: trong một chừng mực nhất định, DN có thể tác động để cải thiện môi trường vi mô để làm cho doanh nghiệp tốt hơn. a, Áp lực từ nhà cung cấp Bình Minh sử dụng khoảng 45% khối lượng nguyên vật liệu được mua từ các DN trong nước. Còn các nguyên liệu cơ bản như bột nhựa PVC, dầu DOP... được nhập khẩu từ Thái Lan, Hàn Quốc, Malaysia, Singgapore.... Hầu hết các nguyên liệu nhựa có nguồn gốc từ dầu mỏ và phần lớn (55%-65%) có xuất xứ từ các nước sản xuất dầu mỏ hàng đầu thế giới như Iran, Iraq, Kuwait, Ả Rập nên công ty cũng nhập nguyên liệu từ những nước này. Trong khi đó tình hình kinh tế - chính trị ở các nước này luôn biến động .Thêm vào đó giá dầu thế giới thời gian gần đây có rất nhiều biến động và đã có lúc tăng đến mức kỷ lục hơn 100USD/ thùng(đặc biệt là nó càng ngày càng có xu hướng tăng lên cao:150- 200$/thùng). Thêm nữa là tình hinh chính trị ở các nước khu vực Trung Đông này luôn biến động bất thường. Do đó việc dự báo được xu hướng biến động của nó là khó khăn vô cùng. Vì vậy công ty chịu ảnh hưởng nhiều từ các nhà cung cấp. Điều này là không có lợi cho công ty, và hoạt động kinh doanh của mình. Ngoài ra,nguyên liệu cơ bản được nhập khẩu từ nước ngoài chiếm đến75% giá vốn trong các mặt hang của Bình Minh.Nên sự biến động của nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả hàng hoá, lợi nhuận, khả năng thanh toán… của công ty. ( Trong năm 2007 vừa qua công ty đã có kế hoạch mua tăng thêm nguyên liệu đầu vào làm tăng hang tồn kho trong công ty, do đó làm nhu cầu VLĐ tăng cao hơn mức tăng của lợi nhuận- điều này không phải là không tốt vì nó có khả năng làm tăng lợi nhuận trong tương lai). Ngoài ra công ty nên thực hiện thêm nhiều biện pháp nữa như: thay đổi khoa học công nghệ hiện đại hơn làm tiết kiệm nguyên liệu,nâng cao năng suất lao động; tận dụng triệt để các nhựa phế liệu => tăng hiệu quả, giảm chi phí=> tăng lợi nhuận. b, Đối thủ cạnh tranh trong ngành Hiện nay nước ta đang trên đà phát triển nhanh, cùng với sự phát triển của đất nước thì nhựa Bình Minh cũng đạt được khá nhiều thành tựu:hệ thống nhà xưởng gần 60000m2, hệ thống trang thiết bị được xây dụng theo công nghệ tiên tiến nhất của Đức, Ý, Áo, Canada. Do đó nó giúp cho nhựa Bình Minh không chỉ phục vụ thị trường trong nước mà còn phục vụ thị trường nước ngoài. Tuy nhiên , trong xu thế hội nhập hiện nay, thị trường mở cửa thì cạnh tranh là điều tất yếu xảy ra. Nhựa Bình Minh không chỉ phải cạnh tranh với các công ty nhựa trong nước khác (công ty cổ phần nhựa Thiếu Niên Tiền Phong, CTCP nhựa Đà Nẵng, CTCP nhựa xây dựng Đồng Nai, CTCP bao bì Nhựa Tân Tiến…) mà còn cả công ty nước ngoài. Đối với các công ty nhựa trong nước thì nhựa Bình Minh là một trong các công ty nhựa hang đầu Việt Nam. Công ty nhựa lớn nhất Việt Nam kể cả về vốn điều lệ và thị phần là nhựa Tiền Phong. Tổng số vốn của công ty là 114,6 tỷ đồng( trong đó 37,1% là sở hữu nhà nước,60% là thị phần miền Bắc). Trong năm 2007 nhựa Tiền Phong đã được bầu là 1 trong 10 công ty tiêu biểu trên thị trường HASTC. Do đó nó là một đối thủ đáng gờm của nhựa Bình Minh. Ngoài ra thì phải kể đến công ty nhựa nước ngoài. Không nói đâu xa đó là những công ty của Trung Quốc( một đất nước đang có tốc độ phát triển cao trên thế giới). Trung Quốc nổi tiếng với sản phẩm rẻ, đẹp về kiểu dáng mẫu mã.Do đó Nhựa Bình Minh cần xây d

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docthao_luan_pttcdn1.doc