Tiến bộ xã hội

Đứng trước những vấn đề mang tính toàn cầu của thời đại như nguy cơ chiến tranh hạt

nhân, sự phá hủy môi trường sống, nạn cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên do sự“tác động

ngược” của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ, một số học giả phương

Tây lâu nay đang nói đến "sựtận cùng của lịch sử", "buổi hoàng hôn, ngày tàn của thế

giới", "sự cáo chung của nhân loại". Một trong những quan niệm đặc biệt bi quan về

tiến bộ xã hội là quan niệm của một sốnhà lý luận trong "Câu lạc bộ Rôma". Họcho

rằng mọi sự phát triển của sản xuất đều có giới hạn và điều đó dẫn đến khủng hoảng,

do đó cần phải đưa sự phát triển của lực lượng sản xuất xuống mức thấp nhất. Theo

họ, tái sản xuất giản đơn ra con người và của cải là phương sách giúp cho nhân loại

thoát khỏi thảm họa của ngày tận thế. Trong các báo cáo "Giới hạn của sự phát triển",

khi khẳng định tình trạng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản, họ đã chứng minh rằng

tiến bộ của khoa học, kỹ thuật không trùng hợp với tiến bộ xã hội, rằng chính điều đó

đã dẫn đến sự suy thoái về mặt xã hội

22

.

pdf22 trang | Chia sẻ: thienmai908 | Lượt xem: 1336 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tiến bộ xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
r.889. 18 C.Mác, Ph.ăngghen. Toàn tập, t. 3, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995. tr. 126. 19 V.I.Lênin. Toàn tập, t. 30 Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1981. tr. 8. HOSIQUY9/2003 CH. VIII. GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC. TẬP II. PHÂN VIỆN HÀ NỘI, HVCTQG HCM. NXB CTQG, 2003. TR. 227-270. nhận chức năng thể hiện nhu cầu vĩnh hằng của loài người - nhu cầu phải luôn luôn tiến về phía trước, mà sự tiến bộ xã hội đã và sẽ mãi mãi là một vấn đề tồn tại song hành với đời sống con người. Song ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, ở mỗi hoàn cảnh riêng biệt của đời sống xã hội, tiến bộ xã hội có những nét đặc thù riêng của nó. Làm rõ những nét đặc thù đó chính là nhiệm vụ của triết học. III. TIÊU CHUẨN CỦA TIẾN BỘ XÃ HỘI III.1. Vấn đề tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội Phân tích triết học về tiến bộ xã hội không thể không bàn đến vấn đề cần phải lấy những thước đo nào để đanh giá một xã hội cụ thể xem có được gọi là tiến bộ hay không; tức là vấn đề tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội. Do tiến bộ xã hội bao giờ cũng là vấn đề giá trị học, nên bất kỳ tiêu chuẩn nào của tiến bộ xã hội bao giờ cũng chứa trong nó yếu tố chủ quan. Nó gắn chặt với các quan điểm, lập trường, đường lối, chủ trương... của các nhà nước, các tổ chức xã hội khi đánh giá các hiện tượng và các quá trình lịch sử. Mỗi một cộng đồng, đoàn thể, chính đảng, quốc gia... đều có thể xác định tiêu chuẩn riêng cho hoạt động của mình để đạt tới tiến bộ. Như ta đã biết, các hiện tượng xã hội được coi là tiến bộ dù theo tiêu chuẩn nào chăng nữa, cũng đều không hoàn toàn tuyệt đối: cái được coi là tiến bộ lúc này, ở nơi này thì vào lúc khác, ở nơi khác có thể lại là không tiến bộ. Cái đóng vai trò là tiến bộ tuyệt đối ở mặt này, thì ở mặt khác lại có thể không phải là tiến bộ... Khó có thể tìm thấy tiêu chuẩn nào đóng vai trò tích cực một cách tuyệt đối trong mọi hoàn cảnh và ở mọi đối tượng. Nói cách khác, tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội luôn luôn mang tính lịch sử và cụ thể; mỗi tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội thường thường đều có phạm vi ứng dụng xác định, dành riêng cho những hiện tượng xã hội nhất định. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội không mang tính khách quan. Dù có bị chi phối bởi ý muốn chủ quan của người đánh giá đến đâu chăng nữa, những tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội, nếu muốn được thừa nhận, nếu muốn đóng vai trò định hướng đối với sự tiến bộ vẫn phải đảm bảo tính khách quan ở mức độ cần thiết. Điều này do bản thân đối tượng được đánh giá quy định. Trong lịch sử tư tưởng nói chung, một khi các nhà tư tưởng thừa nhận tính chất tiến bộ của sự vận động xã hội thì thông thường họ cũng nêu ra và khẳng định những quan điểm riêng của mình về tiêu chuẩn của sự tiến bộ. Vì thế, tham vọng về một quan điểm toàn diện và tổng quát đối với tiến bộ xã hội là cái rất khó đạt tới. Tiêu chuẩn phổ quát của tiến bộ xã hội theo quan điểm triết học, bao giờ cũng là một thang đo có tính chất định tính cho sự đánh giá các qúa trình xã hội. Những tiêu chuẩn cụ thể của tiến bộ xã hội, những tiêu chuẩn định lượng rạch ròi thường đóng vai trò là căn cứ cho sự xác định tiêu chuẩn phổ quát, song dẫu sao những căn cứ đó cũng không phải là những chỉ báo có tính chất quyết định. 16HOSIQUY9/2003 CH. VIII. GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC. TẬP II. PHÂN VIỆN HÀ NỘI, HVCTQG HCM. NXB CTQG, 2003. TR. 227-270. Có thể thấy, bên cạnh quan niệm cho rằng, tiêu chuẩn chung của tiến bộ xã hội, trước hết, là tiêu chuẩn khách quan, nên cần phải tìm nó trong lĩnh vực sản xuất vật chất, trong lĩnh vực kinh tế... còn có quan niệm cho rằng tiến bộ xã hội không có tiêu chuẩn khách quan, thống nhất và do vậy, cần phải tìm nó trong lĩnh vực tinh thần, ý thức, trong lĩnh vực tư tưởng. Những người theo quan điểm phủ nhận tiêu chuẩn khách quan, thống nhất của tiến bộ xã hội cho rằng, tiến bộ xã hội là thước đo chủ quan đặc trưng riêng cho mỗi cộng đồng của lịch sử xã hội loài người. Mỗi giai cấp, mỗi tập đoàn người, mỗi cá nhân luôn đứng trên một lập trường nào đó, theo đuổi một mục đích nhất định nhằm mưu cầu lợi ích cho riêng mình vì thế khi đánh giá về sự tiến bộ của xã hội, mỗi chủ thể thường dựa vào nhận thức chủ quan của mình, theo ý muốn chủ quan của mình hoặc cho rằng chỉ có tiêu chuẩn riêng cho từng lĩnh vực trong đời sống xã hội chứ không có tiêu chuẩn chung để đánh giá tiến bộ xã hội. Hiện nay, khi nghe "tiếng chuông cảnh tỉnh" về sự cạn kiệt tài nguyên, về nguy cơ của chủ nghĩa khủng bố, về tình trạng phân hoá giàu nghèo hoặc về tình trạng ô nhiễm môi trường trên khắp hành tinh... thật dễ hiểu, tại sao đã có nhiều tư tưởng đã đề nghị cộng đồng thế giới phải thông qua những thước đo phổ quát, nhân đạo về tiến bộ xã hội. Hơn thế nữa, vấn đề tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội lại càng phức tạp hơn khi mà cùng xuất phát từ một lập trường, một quan điểm nào đó, kể cả khi xuất phát từ quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tiến bộ xã hội, người ta vẫn đưa ra những đánh giá, nhận định khác nhau. Sự thật thì ngay từ thời cổ đại, khi tư tưởng về tiến bộ xã hội mới hình thành, các nhà tư tưởng của thời đại đó đã nói đến tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội. Song, do những hạn chế có tính chất thời đại, có lúc, người ta đã lấy một xã hội cụ thể, một vương triều cụ thể và coi là xã hội kiểu mẫu, là vương triều lý tưởng để đánh giá xã hội mà mình đang sống là tiến bộ hay thoái bộ. Những mô hình kiểu như "thế kỷ vàng son" hay "xã hội đại đồng" Nghiêu - Thuấn... được xây dựng trên một cách nhìn như vậy. Trong suốt thời kỳ của "những đêm dài Trung cổ", các nhà tư tưởng ở thời kỳ này do chịu ảnh hưởng nặng nề của thế giới quan thần học và những tín điều của nhà thờ Kitô giáo, cái được coi là điểm xuất phát của mọi tư duy, nên đối với họ sự tồn tại của một xã hội nào đó là do ý Chúa và bởi vậy mà vấn đề có hay không có tiêu chuẩn để đánh giá sự tiến bộ của xã hội - đó là cái do Chúa sắp đặt. Vấn đề tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội chỉ thực sự trở thành vấn đề bàn cãi ở thời kỳ Phục hưng, khi những quan niệm về tiến bộ lịch sử đã trở thành cơ sở lý luận, thành ngọn cờ tư tưởng của giai cấp tư sản đang hình thành trong cuộc đấu tranh nhằm xóa bỏ chế độ phong kiến suy tàn. Với sức mạnh của khoa học thực nghiệm lúc bấy giờ, các nhà tư tưởng tư sản nhìn nhận chế độ phong kiến là một sản phẩm phi lý của lịch sử, vì thế, theo họ, chế độ phong kiến phải được thay bằng một xã hội lấy sự phát triển của trí tuệ con người, sự sáng suốt của lý tính làm nền tảng. Với quan niệm đó, họ thừa nhận chỉ có sự phát triển theo hướng đi lên của lý tính con người mới được coi là tiêu chuẩn để đánh giá sự tiến bộ của xã hội. 17HOSIQUY9/2003 CH. VIII. GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC. TẬP II. PHÂN VIỆN HÀ NỘI, HVCTQG HCM. NXB CTQG, 2003. TR. 227-270. J.Vicô, khi coi sự phát triển của mỗi dân tộc đều diễn ra theo một vòng tròn khép kín để rồi từ đó lại đi lên theo sự quay của một vòng tuần hoàn mới, đã lấy sự phát triển theo hướng đi lên của lý tính con người làm thước đo trình độ phát triển của một dân tộc20. C.Henvetiuyt, J.Côngđoócxê, khi khẳng định tiến bộ xã hội tuân theo những quy luật chung của nó, đã coi lý tính con người là tiêu chuẩn chung, tiêu chuẩn tối cao để đánh giá sự tiến bộ của xã hội. J.Côngđoócxê khẳng định, sớm hay muộn nhân loại cũng sẽ đạt tới một chế độ xã hội mà ở đó không còn "bạo chúa và nô lệ", ở đó chỉ toàn là "những người tự do”, do vậy, ngoài "lý tính" không còn gì để có thể coi là tiêu chuẩn để đánh giá tiến bộ xã hội 21. A.Tuyếcgô, khi đánh giá cao vai trò của sự tăng trưởng kinh tế, của sự tiến bộ về khoa học, kỹ thuật đã cho rằng giữa sự phát triển xã hội và sự thay đổi những hình thức của đời sống kinh tế có mối liên hệ chặt chẽ. ông coi tăng trưởng kinh tế và tiến bộ khoa học, kỹ thuật là thước đo trình độ phát triển của xã hội. J.Hécđe, khi xuất phát từ quan niệm coi tính đặc thù trong văn hóa tinh thần của các dân tộc là cái có ý nghĩa tuyệt đối, quyết định sự phát triển của xã hội, đã khẳng định trình độ phát triển của nền văn hóa tinh thần chính là thước đo sự phát triển xã hội. Hêgen đã lý giải sự tiến bộ xã hội một cách sâu sắc về phương diện triết học. Mặc dù bị hạn chế bởi quan điểm duy tâm, song ông đã xem xét lịch sử nhân loại như một quá trình thống nhất và hợp quy luật. Tuy đề cao tính đặc thù của mỗi thời đại, ông vẫn khẳng định rằng mỗi thời đại là một giai đoạn tất yếu trong tiến trình phát triển chung của nhân loại. Với niềm tin vững chắc vào sức mạnh và khả năng của lý tính con người, ông coi tiến bộ xã hội như là quá trình tự vận động của "ý niệm tuyệt đối", theo ông, “sự phát triển của ý thức về tự do” là tiêu chuẩn của tiến bộ lịch sử. Xanh Ximông, ôoen và Phuriê, khi đưa ra những quan niệm của mình về tiến bộ xã hội đều luận chứng cho tính tất yếu lịch sử của việc thiết lập một chế độ xã hội mới như kết quả của sự phát triển hợp quy luật của lịch sử. Với tư tưởng về tính khách quan của tiến bộ xã hội, các ông khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là một bước tiến trong lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, khi đề cập đến tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội thì ở các ông lại có sự khác nhau. Xanh Ximông coi sự phát triển của tri thức khoa học, của đạo đức và tôn giáo là động lực phát triển của xã hội, là tiêu chuẩn khách quan để đánh giá sự phát triển của xã hội. ôoen coi quá trình tiến bộ từng bước trong sự tự nhận thức của con người là tiêu chuẩn để đánh giá tiến bộ xã hội. Bởi thế ông rất đề cao vai trò của giáo dục đối với sự phát triển toàn diện của cá nhân. Còn Phuriê thì coi năng suất lao động xã hội là thước đo trình độ phát triển của xã hội và, trình độ giải phóng phụ nữ cũng được ông coi là thước đo trình độ phát triển của xã hội. 18 20 Философский энциклопедический словарь. 2. Издание, Советская Энциклопедия, Москва, 1989. tr. 90. 21 Философский энциклопедический словарь. 2. Издание, Советская Энциклопедия, Москва, 1989. tr. 273. HOSIQUY9/2003 CH. VIII. GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC. TẬP II. PHÂN VIỆN HÀ NỘI, HVCTQG HCM. NXB CTQG, 2003. TR. 227-270. ô.Côngtơ với quan niệm coi sự tiến hóa của lịch sử nhân loại được kết thúc ở chủ nghĩa tư bản, đã lấy yếu tố thực chứng làm thước đo sự tiến hóa về mặt trí tuệ và đó cũng là thước đo trình độ tiến bộ của xã hội. Vâybơ, với quan niệm văn hóa là một "cấu trúc xã hội có bề sâu", quy định sự biến động của các cấu trúc trên bề mặt xã hội, đã coi văn hoá là cái quyết định tiến bộ xã hội. Quan niệm này của M.Vâybơ đã có ảnh hưởng lớn đến các nhà triết học, xã hội học tư sản phương Tây. Một vài người trong số đó, khi dựa vào quan niệm của M.Vâybơ đã phủ nhận học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của Mác nhằm biện hộ cho chủ nghĩa tư bản và coi nó là xã hội cuối cùng trong lịch sử nhân loại, là giới hạn của sự tiến bộ xã hội. O.Spengơle, P.Xôrôkin và A.Tôinbi với quan niệm về vòng tuần hoàn của quá trình lịch sử đã ít nhiều phủ nhận tiến bộ xã hội. Các ông coi lịch sử xã hội loài người là sự cùng tồn tại nhiều nền văn minh mà những nền văn minh đó chỉ khác nhau ở loại hình tôn giáo. Từ đó các ông lấy trình độ hòa hợp của các tôn giáo để đánh giá sự tiến bộ trong các nền văn minh khác nhau. Đứng trước những vấn đề mang tính toàn cầu của thời đại như nguy cơ chiến tranh hạt nhân, sự phá hủy môi trường sống, nạn cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên do sự “tác động ngược” của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ, một số học giả phương Tây lâu nay đang nói đến "sự tận cùng của lịch sử", "buổi hoàng hôn, ngày tàn của thế giới", "sự cáo chung của nhân loại". Một trong những quan niệm đặc biệt bi quan về tiến bộ xã hội là quan niệm của một số nhà lý luận trong "Câu lạc bộ Rôma". Họ cho rằng mọi sự phát triển của sản xuất đều có giới hạn và điều đó dẫn đến khủng hoảng, do đó cần phải đưa sự phát triển của lực lượng sản xuất xuống mức thấp nhất. Theo họ, tái sản xuất giản đơn ra con người và của cải là phương sách giúp cho nhân loại thoát khỏi thảm họa của ngày tận thế. Trong các báo cáo "Giới hạn của sự phát triển", khi khẳng định tình trạng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản, họ đã chứng minh rằng tiến bộ của khoa học, kỹ thuật không trùng hợp với tiến bộ xã hội, rằng chính điều đó đã dẫn đến sự suy thoái về mặt xã hội 22. Ngược lại, một số học giả khác, như R.Arôn, G.Can, I.Ganbraitơ, đặc biệt là nhà xã hội học Mỹ Rôxtâu lại đưa ra quan điểm về quyết định luận kỹ thuật (kỹ trị), coi kỹ thuật là yếu tố quyết định sự tiến bộ xã hội và lấy tiến bộ kỹ thuật làm tiêu chuẩn hàng đầu của tiến bộ xã hội. Quan niệm này được phổ biến rộng rãi ở nhiều nước Tây âu vào những năm 50 - 60 với học thuyết về xã hội hậu công nghiệp. Ngoài ra, trong đời sống tinh thần phương Tây hiện đại còn tồn tại một dạng quan niệm khác - quan niệm đối lập tiến bộ xã hội với tiến bộ khoa học, kỹ thuật. Những người theo quan niệm này cho rằng ngày nay khoa học, kỹ thuật đã trở thành một lực lượng khủng khiếp, đe dọa tiến bộ xã hội. Nếu khoa học cứ phát triển như tốc độ hiện nay thì rồi đây con người sẽ được thay thế bằng người máy và kỹ thuật do con người tạo ra sẽ quay lại thống trị con người. 19 22 Xem: Triết học phương Tây hiện đại. Từ điển. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996. tr. 77-79. HOSIQUY9/2003 CH. VIII. GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC. TẬP II. PHÂN VIỆN HÀ NỘI, HVCTQG HCM. NXB CTQG, 2003. TR. 227-270. III.2. Tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin Khắc phục tính chất duy tâm và siêu hình trong những quan niệm về tiến bộ xã hội của các bậc tiền bối, chỉ ra cách hiểu phiến diện, không đúng dựa trên cơ sở của sự nhận thức chủ quan và xuất phát từ mong muốn cá nhân ở họ, Mác và ăngghen đã vạch ra những tiêu chuẩn chung nhất, mang tính khách quan để xác định tiến bộ xã hội. Trên cơ sở thừa nhận tiêu chuẩn phổ quát về sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội, Mác và ăngghen đã xem xét sự phát triển con người trong đời sống xã hội, mà trước hết là trong hoạt động sản xuất vật chất - lĩnh vực hoạt động cơ bản của xã hội loài người, đánh giá tiến bộ xã hội. Mác và ăngghen viết: “Hoạt động sống của họ (những cá nhân con người - Sgk) biểu hiện đời sống của họ như thế nào thì họ là như thế ấy. Do đó họ là như thế nào, điều đó ăn khớp với sản xuất của họ, với cái mà họ sản xuất ra cũng như với cách họ sản xuất. Do đó những cá nhân là như thế nào, điều đó phụ thuộc vào những điều kiện vật chất của sự sản xuất của họ” 23. Con người - chủ thể của sản xuất, và là sản phẩm của hoàn cảnh - phát triển theo sự phát triển của điều kiện sống. Sự phát triển của cái mà con người sản xuất ra cũng như sự phát triển của cách mà con người sản xuất - chính là biểu hiện của sự phát triển của bản chất con người. “Sự phát triển phong phú của bản chất con người, coi như là một mục đích tự thân” 24; sự phát triển ấy đi theo hướng nhằm tới trình độ lý tưởng “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” 25 - trình độ phát triển con người trong chủ nghĩa cộng sản. Với quan niệm như vậy, có thể suy ra rằng, chủ nghĩa Mác coi con người, hạnh phúc của con người, hay là sự phát triển của con người về mọi phương diện, chính là thước đo trình độ phát triển của xã hội, là tiêu chuẩn tối cao của tiến bộ xã hội. Xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, từ mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã phác thảo những nét lớn, rất cơ bản về một xã hội tiến bộ ở nước ta. Người viết: "Đầu tiên là công việc đối với con người" 26... "Xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội, thay đổi cả thiên nhiên, làm cho xã hội không còn người bóc lột người, không còn đói rét, mọi người đều được ấm no và hạnh phúc” 27 - "ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Có thể thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về một xã hội không còn người bóc lột người, ở đó, mọi người đều được ấm no và hạnh phúc chính là tư tưởng thừa nhận tiêu chuẩn tối cao của tiến bộ xã hội là sự phát triển toàn diện của con người. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, con người, nhân tố con người đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng. Trong “Cương lĩnh xây dựng CNXH trong thời kỳ quá 20 23 C.Mác, Ph.ăngghen. Toàn tập, t.3. Nxb CTQG, Hà Nội, 1995. tr. 30. 24 C.Mác, Ph.ăngghen. Toàn tập, t.26. Nxb CTQG, Hà Nội, 1995. tr.168. 25 C.Mác, Ph.ăngghen. Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG. Hà Nội, 1995. tr.628. 26 Hồ Chí Minh. Di chúc. Toàn tập, t. , Nxb CTQG. Hà Nội, 2000. 27 Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.8, Nxb sự thật, Hà Nội, 1987. tr. 429, 645, 673. HOSIQUY9/2003 CH. VIII. GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC. TẬP II. PHÂN VIỆN HÀ NỘI, HVCTQG HCM. NXB CTQG, 2003. TR. 227-270. độ” (1991), Đảng ta xác định rõ: “Vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân” 28. Trong “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000”, tư tưởng coi con người là trung tâm của sự phát triển đã được Đảng ta chính thức ghi nhận. Văn kiện viết: “Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người. Chiến lược kinh tế - xã hội đặt con người vào vị trí trung tâm... Lợi ích của mỗi người, của từng tập thể và của toàn xã hội gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp” 29. Những tư tưởng này có ý nghĩa to lớn trong việc thúc đẩy những chuyển biến kinh tế - xã hội những năm gần đây và sẽ còn là quan điểm có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển đất nước mai sau. Bài học của các nước trong khu vực, đặc biệt các nước có trình độ phát triển tương tự như Việt Nam, tài nguyên không giàu, song bứt phá lên được do biết phát huy nhân tố con người, do biết chú trọng khai thác nguồn lực con người... đã làm cho việc đổi mới tư duy về nhân tố con người ở Việt Nam có thêm căn cứ thực tiễn. Hơn thế nữa, tư tưởng của Đảng ta về việc coi con người là mục tiêu và là động lực của sự phát triển kinh tế -xã hội là hoàn toàn phù hợp với tư tưởng tiến bộ nhất của tư duy nhân loại. Như đã biết, từ năm 1990 đến nay, để đánh giá đầy đủ và toàn diện hơn mức độ phát triển xã hội, Liên hợp quốc đưa ra chỉ số phát triển con người HDI (Human Development Index). Chỉ số phát triển con người là công cụ đánh giá tương đối sâu sắc và phong phú hơn so với bất kỳ chỉ số tổng hợp nào hoặc thậm chí còn hơn cả các chỉ tiêu thống kê chi tiết. Để đánh giá đầy đủ mức độ tiến bộ về sự phát triển con người, UNDP (Chương trình phát triển của Liên hợp quốc) đã xây dựng một công cụ đơn giản, dùng để đo các khả năng cơ bản nhất của con người: sống lâu, có kiến thức, có mức sống tốt. Do đó HDI là thước đo toàn diện hơn so với thước đo thu nhập tính theo đầu người. Quan điểm chỉ đạo của UNDP khi sử dụng tiêu chuẩn HDI là: thu nhập (GDP hoặc GNP) chỉ là phương tiện, chứ không phải là mục đích của sự phát triển; sự phát triển con người phong phú hơn nhiều so với sự biểu hiện của chỉ số GDP. Do vậy, việc sử dụng chỉ số HDI cho phép các quốc gia hình dung được một bức tranh toàn cảnh hơn về đời sống con người, bởi HDI là chỉ số tổng hợp của ba chỉ số cơ bản dưới đây: - Chỉ số thu nhập bình quân đầu người GDP (thu nhập thực tế bình quân đầu người (PPP)/ năm). - Chỉ số về giáo dục (gồm các chỉ số về tỉ lệ người lớn biết chữ, tỉ lệ người được hưởng nền giáo dục, v.v...). - Chỉ số về y tế (gồm các chỉ số về tuổi thọ bình quân, số người thọ trên 40 tuổi, chỉ số sử dụng nước sạch, v.v...). Chỉ số HDI đo đạc những khía cạnh cơ bản của năng lực con người. Việc tiêu chuẩn hoá giá trị HDI từ 0 (thấp nhất) đến 1 (cao nhất) cho phép mỗi nước thấy được khoảng 21 28 Đảng cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ. Nxb. Sự thật. Hà Nội, 1991. tr. 13. 29 Đảng cộng sản Việt Nam. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000. Nxb. Sự thật. Hà Nội, 1991. tr. 8. HOSIQUY9/2003 CH. VIII. GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC. TẬP II. PHÂN VIỆN HÀ NỘI, HVCTQG HCM. NXB CTQG, 2003. TR. 227-270. cách mà mình đã đạt được trên con đường tiến đến giá trị lý tưởng là 1. Độ chênh lệch HDI giữa các nước và khoảng cách giữa chỉ số mà mỗi nước đã đạt được so với chỉ số lý tưởng chính là căn cứ rất cụ thể cho phép mỗi nước hình dung được cái đích (tương đối) của sự tiến bộ còn ở phía trước bao xa. Theo những chỉ số này, Việt Nam năm 2001 xếp thứ 101 với chỉ số HDI là 0,682; chỉ số tuổi thọ là 0,71; chỉ số giáo dục 0,84 và chỉ số GDP là 0,49. Điều đáng lưu ý là ở chỗ, nhiều nước có thu nhập quốc dân đầu người cao hơn Việt Nam như Inđônesia (PPP, 1999:2857 USD / PPP Việt Nam,1999:1860 USD), Ai Cập (PPP, 1999: 3420 USD), Goatêmala (PPP, 1999: 3674 USD), Namibia (PPP, 1999: 5468 USD), Gabông (PPP, 1999: 6024 USD)... song do các chỉ số về tuổi thọ và giáo dục đều thấp nên đã bị xếp ở thứ hạng thấp hơn Việt Nam về phát triển con người. Nói tóm lại, trên cơ sở xem xét sự phát triển con người xã hội trong hoạt động sản xuất vật chất, trong sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin coi con người là trung tâm của sự phát triển, là yếu tố chiếm vị trí hàng đầu, quy định lực lượng sản xuất của nhân loại; sự phát triển của con người thể hiện đầy đủ nhất xã hội tiến bộ đến mức nào. Sự phát triển toàn diện của con người chính là thước đo trình độ phát triển của xã hội, là tiêu chuẩn tối cao của tiến bộ xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. 22HOSIQUY9/2003

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfiuydasgosidgp[aoyerpabkvdgoipa (3).pdf
Tài liệu liên quan