Tiểu luận Vai trò và sự phát triển của các loại hình bảo hiểm chủ yếu ở Việt Nam, vai trò cho việc an sinh xã hội và phát triển kinh tế?

Trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh, dù đã luôn chú ý ngăn ngừa đề phòng nhưng con người vẫn luôn luôn phải đối mặt với nguy cơ rủi ro trong mọi lĩnh vực. Các rủi ro xảy ra có thể do nhiều nguyên nhân như môi trường, thiên nhiên, xã hội như: bão lụt, hạn hán, bệnh dịch, tai nạn Tất cả mọi rủi ro đó đều đe dọa đến khả năng tài chính của mỗi cá nhân, những con người không may gặp tai nạn. Để ngăn ngừa, khắc phục những rủi ro đó người ta nghĩ đến việc đoàn kết cộng đồng, liên hợp nhiều người lại để chia sẻ mất mát với những con người kém may mắn đó. Như vậy, xét trên diện rộng là cả cộng đồng thì hoạt động này tận dụng được tối đa mọi nguồn lực xã hội và lợi ích xã hội thu được là rất lớn. Do vậy, các công ty bảo hiểm xuất hiện.

Ngày nay khi nền kinh tế hàng hóa – tiền tệ ngày càng phát triển thi người ta còn biết đến bảo hiểm như các tổ chức phi ngân hàng mà trong đó nó thực hiện chức năng như một trung gian tài chính, tức là góp phần giải quyết hiện tượng thiếu thừa vốn diễn ra thường xuyên trong nền kinh tế, đảm bảo cho quá trình tuần hoàn vốn được diễn ra trôi chảy và nhanh chóng Qua vài điều sơ lược trên ta nhận thấy bảo hiểm có vai trò quan trọng đối với con người, xã hội, nền kinh tế.

Để biết cụ thể hơn về bảo hiểm cũng như vai trò và sự phát triển của bảo hiểm ở nước ta, các bạn hãy cùng với chúng tôi tìm hiểu về đề tài: “Vai trò và sự phát triển của các loại hình bảo hiểm chủ yếu ở nước ta. Vai trò của các loại hình bảo hiểm cho việc an sinh xã hội và phát triển kinh tế”

 

doc24 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1191 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tiểu luận Vai trò và sự phát triển của các loại hình bảo hiểm chủ yếu ở Việt Nam, vai trò cho việc an sinh xã hội và phát triển kinh tế?, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài 5: Vai trò và sự phát triển của các loại hình bảo hiểm chủ yếu ở Việt Nam, vai trò cho việc an sinh xã hội và phát triển kinh tế? A, Mở đầu: Trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh, dù đã luôn chú ý ngăn ngừa đề phòng nhưng con người vẫn luôn luôn phải đối mặt với nguy cơ rủi ro trong mọi lĩnh vực. Các rủi ro xảy ra có thể do nhiều nguyên nhân như môi trường, thiên nhiên, xã hội như: bão lụt, hạn hán, bệnh dịch, tai nạn … Tất cả mọi rủi ro đó đều đe dọa đến khả năng tài chính của mỗi cá nhân, những con người không may gặp tai nạn. Để ngăn ngừa, khắc phục những rủi ro đó người ta nghĩ đến việc đoàn kết cộng đồng, liên hợp nhiều người lại để chia sẻ mất mát với những con người kém may mắn đó. Như vậy, xét trên diện rộng là cả cộng đồng thì hoạt động này tận dụng được tối đa mọi nguồn lực xã hội và lợi ích xã hội thu được là rất lớn. Do vậy, các công ty bảo hiểm xuất hiện. Ngày nay khi nền kinh tế hàng hóa – tiền tệ ngày càng phát triển thi người ta còn biết đến bảo hiểm như các tổ chức phi ngân hàng mà trong đó nó thực hiện chức năng như một trung gian tài chính, tức là góp phần giải quyết hiện tượng thiếu thừa vốn diễn ra thường xuyên trong nền kinh tế, đảm bảo cho quá trình tuần hoàn vốn được diễn ra trôi chảy và nhanh chóng Qua vài điều sơ lược trên ta nhận thấy bảo hiểm có vai trò quan trọng đối với con người, xã hội, nền kinh tế. Để biết cụ thể hơn về bảo hiểm cũng như vai trò và sự phát triển của bảo hiểm ở nước ta, các bạn hãy cùng với chúng tôi tìm hiểu về đề tài: “Vai trò và sự phát triển của các loại hình bảo hiểm chủ yếu ở nước ta. Vai trò của các loại hình bảo hiểm cho việc an sinh xã hội và phát triển kinh tế” B, Nội dung: I, Giới thiệu chung về bảo hiểm: 1,Sự cần thiết của các dịch vụ bảo hiểm: Thực tiễn cho thấy, tai nạn gây ra nhiều tổn thất về tài chính, tinh thần thậm chí là cả tính mạng cho chính bản thân và gia đình của những người không may gặp. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Ngân hàng thế giới (WB) thì mỗi năm, thế giới có hơn 1,2 triệu người chết vì tai nạn giao thông đường bộ, khoảng 50 triệu người khác bị thương trong các tai nạn đó. Hiện nay nguy cơ chiến tranh và nguy cơ khủng bố, nội chiến sắc tộc ở các nước châu Phi, tranh chấp lãnh thổ giữa một số quốc gia vùng trung và nam châu Á,...vẫn luôn thường trực xảy ra, đe doạ sự an toàn của tất cả mọi người. Vẫn đang từng ngày cướp đi sinh mạng, tiền của của rất nhiều người. Đặc biệt trận động đất và sóng thần kinh hoàng xảy ra ở Nhật Bản vừa qua đã cướp đi sinh mạng của hàng ngàn người,nhiều thành phố bị xoá sổ,gây thiệt hại ước tính khoảng 180 tỷ đô la. Ở Việt Nam cũng có rất nhiều nguy cơ có thể ảnh hưởng tới cuộc sống ổn định của con người. Theo báo cáo sơ bộ, trong mười một tháng năm 2010, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 12,6 nghìn vụ tai nạn giao thông, làm chết 10,4 nghìn người và làm bị thương 9,2 nghìn người. Thiên tai xảy ra trong năm 2010 đã làm 355 người chết và mất tích; gần 600 người bị thương; hơn 2,6 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi; hơn 579 nghìn ngôi nhà bị sạt lở, tốc mái, ngập nước; 30 nghìn ha lúa và hoa màu bị mất trắng; trên 100 km đê, kè và gần 1,9 nghìn km đường giao thông cơ giới bị vỡ, sạt lở và cuốn trôi; hơn 11 nghìn cột điện bị gãy, đổ. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong năm 2010 ước tính 11,7 nghìn tỷ đồng. Sự ổn định cuộc sống của mỗi con người đang bị đe doạ nghiêm trọng. Trong khi đó, thu nhập của họ đang được nâng lên đáng kể, nhu cầu tiết kiệm để đảm bảo cuộc sống trong tương lai rất được chú trọng. Do vậy các hoạt động bảo hiểm lại là sự lựa chọn an toàn của những người tham bảo hiểm. Đó chính là những đòi hỏi khách quan cho sự ra đời,tồn tại và phát triển của  các loại hình dịch vụ bảo hiểm 2, Định nghĩa và bản chất của bảo hiểm: a, Định nghĩa: Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về bảo hiểm được xây dựng dựa trên từng góc độ nghiên cứu xã hội, pháp lý, kinh tế…. - Theo Dennis Kessler: Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít. - Theo Monique Gaullier: Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là người được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện mong muốn để cho mình hoặc để cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra rủi ro sẽ nhận được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là người bảo hiểm. Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê. - Tập đoàn bảo hiểm AIG của Mỹ định nghĩa: Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này, một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho công ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm. - Luật Kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam (2000): Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. b, Bản chất: Bản chất của bảo hiểm: Là việc phân chia tổn thất của một hoặc một số người cho tất cả những người tham gia bảo hiểm cùng chịu. Bảo hiểm hoạt động dựa trên Quy luật số đông (the law of large numbers). 3, Lịch sử phát triển của bảo hiểm: Trước lợi nhuận mà ngành thương mại hàng hải mang lại cũng như các mức độ và số lượng rủi ro phải ứng phó, các chủ tàu, các nhà buôn bán, những người vận tải luôn luôn tìm kiếm những hình thức bảo đảm an toàn cho quyền lợi của mình. Đầu tiên vào thế kỷ thứ V trước công nguyên, người ta đã tìm cách giảm nhẹ tổn thất toàn bộ lô hàng bằng cách san nhỏ lô hàng của mình ra làm nhiều chuyến hàng. Đây là cách phân tán rủi ro, tổn thất và có thể coi đó là hình thức nguyên khai của bảo hiểm. Vào thế kỷ XIV, ở Floren Genoa nước Ý đã xuất hiện các hợp đồng bảo hiểm hàng hải đầu tiên mà theo đó một người bảo hiểm cam kết với người được bảo hiểm sẽ bồi thường những thiệt hại về tài sản mà người được bảo hiểm phải gánh chịu khi có thiệt hại xảy ra trên biển, đồng thời với việc nhận một khoản phí. Hợp đồng bảo hiểm cổ xưa nhất mà người ta tìm thấy có ghi ngày 22/04/1329 hiện còn được lưu giữ tại Floren. Sau đó cùng với việc phát hiện ra Ấn Độ dương và tìm ra Châu Mỹ, ngành hàng hải nói chung và bảo hiểm hàng hải nói riêng đã phát triển rất nhanh. Về cơ sở pháp lý có thể coi chiếu dụ Barcelona năm 1435 là văn bản pháp luật đầu tiên trong ngành bảo hiểm. Sau đó là sắc lệnh của Philippe de Bourgogne năm 1458, những sắc lệnh của Brugos năm 1537, Fiville năm 1552 và ở Amsterdam năm 1558. Ngoài ra còn có sắc lệnh của Phần Lan năm 1563 liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hóa. Đến cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII cùng với sự ra đời của phương thức sản xuất TBCN thì hoạt động bảo hiểm mới phát triển rộng rãi và ngày càng đi sâu vào nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội. Sau bảo hiểm hàng hải là sự xuất hiện của bảo hiểm hỏa hoạn, đánh dấu bằng vụ cháy thảm khốc ở Luân Đôn nước Anh ngày 2/9/1666 hủy diệt 13.000 căn hộ trong đó có hơn 100 nhà thờ trong 4 ngày để lại một sự thiệt hại quá lớn không thể cứu trợ được, sau đó những nhà kinh doanh ở nước Anh đã nghĩ ra việc cộng đồng chia sẻ rủi ro hỏa hoạn bằng cách đứng ra thành lập những công ty hỏa hoạn: Fire Office(1667), Hand and Hand(1696)…Lúc đó công ty bảo hiểm Lloyds đã ra đời nhưng chỉ hoạt động trong lĩnh vực hàng hải mãi đến thế kỷ XX mới chuyển sang hoạt động cả lĩnh vực nội địa và tái bảo hiểm Ở Việt Nam, chưa có tài liệu nào chứng minh một cách chính xác bảo hiểm xuất hiện ở Việt Nam khi nào mà chỉ phỏng đoán là vào năm 1880 do hội bảo hiểm ngoại quốc như: Anh, Pháp, Thụy Sĩ… đã để ý đến Đông Dương. Vào năm 1926, chi nhánh đầu tiên của công ty Franco-Asietique đã được mở tại Việt Nam. Đến năm 1929 mới có Công ty Việt Nam đặt trụ sở tại Sài Gòn, đó là Việt Nam Bảo hiểm Công ty, nhưng chỉ hoạt động về bảo hiểm xe ô tô. Từ năm 1952 về sau, hoạt động bảo hiểm mới được mở rộng dưới những hình thức phong phú với sự hoạt động của nhiều Công ty bảo hiểm trong nước và nước ngoài. Ở miền Bắc Việt Nam, ngày 15/01/1965 công ty Bảo hiểm Việt Nam (gọi tắt là Bảo Việt) mới chính thức đi vào hoạt động. Trong những năm đầu, Bảo Việt chỉ tiến hành các nghiệp vụ về hàng hải như bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo hiểm tàu viễn dương… II, Vai trò và sự phát triển của các loại hình bảo hiểm ở Việt Nam: 1, Một số loại hình bảo hiểm ở Việt Nam: 1.1. Bảo hiểm xã hội: 1.1.1. Khái niệm và bản chất của BHXH: a, Khái niệm : BHXH là việc tạo ra nguồn thu nhập thay thế trong trường hợp nguồn thu nhập bình thường bị gián đoạn đột ngột hoặc mất hẳn, bảo vệ cho những người lao động làm công ăn lương trong xã hội đó. Trong các cơ chế của các hệ thống an sinh xã hội thì BHXH là trụ cột quan trọng nhất. b Bản chất: Bản chất của BHXH là sự bảo đảm bù đắp một phần hoặc thay thế thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết trên cơ sở đóng góp vào quỹ BHXH do Nhà nước tổ chức thực hiện. 1.1.2. Vai trò của BHXH: BHXH được coi là mạng lưới đầu tiên và quan trọng nhất trong hệ thống an sinh xã hội (ASXH), BHXH là 1 trụ cột trong hệ thông ASXH, do vậy sự vững chắc của hệ thống ASXH của 1 quốc gia được phản ánh qua chính sách BHXH của quốc gia đó. BHXH điều tiết các chính sách trong hệ thống ASXH, BHXH,ưu đãi xã hội,cứu trợ xã hội là những nội dung của chính sách ASXH,do đó đều là những chính sách xã hội quan trọng của mỗi quốc gia. Chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,cùng bổ sung và hộ trợ cho nhau, tất cả đều góp phần ổn định cuộc sống cho mỗi người trong xã hội, từ đó góp phần làm ổn định xã hội. 1.2. Bảo hiểm y tế: 1.2.1. Khái niệm, đối tượng, phạm vi của BHYT: a, Khái niệm: BHYT là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhằm đảm bảo chi trả một phần hoặc toàn bộ chi phí khám chữa bệnh cho nhưng người tham gia BHYT khi họ ốm đau bệnh tật bằng nguồn qũy BHYT do sự đóng góp theo chu kỳ của người sử dụng lao động, các tổ chức và cá nhân. BHYT là các quan hệ kinh tế gắn liền với việc huy động các nguồn tài lực từ sự đóng góp của những người tham gia bảo hiểm để hình thành quỹ bảo hiểm, và sử dụng quỹ để thanh toán các chi phí khám chữa bệnh cho người được bảo hiểm khi ốm đau.. b Đối tượng: Theo Điều lệ Bảo hiểm y tế ban hành kèm theo Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày 16-5-2005 của Chính phủ, bảo hiểm y tế (BHYT) bắt buộc được áp dụng với những đối tượng sau: - Người lao động Việt Nam làm việc theo hợp đồng lao động (HĐLĐ) có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên và HĐLĐ không xác định thời hạn trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, các cơ quan, đơn vị sự nghiệp, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang - Cán bộ, công chức, viên chức theo Pháp lệnh Cán bộ, công chức. - Người đang hưởng chế độ hưu trí, hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội (BHXH) hằng tháng. - Người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật. - Người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam đang hưởng trợ cấp hằng tháng. - Đại biểu Quốc hội đương nhiệm không thuộc biên chế Nhà nước và biên chế của các tổ chức chính trị - xã hội; đại biểu Hội đồng nhân dân đương nhiệm các cấp không thuộc biên chế Nhà nước hoặc không hưởng chế độ BHXH hằng tháng. - Cán bộ xã, phường, thị trấn đã nghỉ việc đang hưởng trợ cấp BHXH hằng tháng và cán bộ xã già yếu nghỉ việc đang hưởng phụ cấp hằng tháng từ nguồn ngân sách Nhà nước. - Thân nhân sĩ quan quân đội nhân dân đang tại ngũ; thân nhân sĩ quan nghiệp vụ đang công tác trong lực lượng Công an nhân dân. - Các đối tượng bảo trợ xã hội được hưởng trợ cấp hằng tháng. - Người cao tuổi từ 90 tuổi trở lên và người cao tuổi được ưu đãi theo Pháp lệnh Người cao tuổi. - Người nghèo theo quy định của Chính phủ. - Cựu chiến binh thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ. - Lưu học sinh nước ngoài đang học tập tại Việt Nam được Nhà nước Việt Nam cấp học bổng. - Người lao động làm việc tại các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức đã nêu trên làm việc theo HĐLĐ có thời hạn dưới 3 tháng, khi hết hạn HĐLĐ mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc hoặc giao kết HĐLĐ mới đối với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đó thì phải tham gia BHYT bắt buộc. BHYT tự nguyện được áp dụng đối với mọi đối tượng có nhu cầu tự nguyện tham gia BHYT, kể cả đối tượng tham gia BHYT bắt buộc nhưng muốn tham gia BHYT tự nguyện để hưởng mức dịch vụ BHYT cao hơn đối với người tham gia BHYT bắt buộc. c Phạm vi BHYT: - Bảo hiểm y tế là một chính sách xã hội của mọi quốc gia trên thế giới do chính phủ tổ chức thực hiện, nhằm huy động sự đóng góp của mọi tầng lớp trong xã hội để thanh toán chi phí y tế cho người tham gia bảo hiểm; - Người tham gia bảo hiểm y tế khi gặp rủi ro về sức khỏe được thanh toán chi phí khám chữa bệnh với nhiều mức khác nhau tại các cơ sở y tế; - Một số loại bệnh mà người đến khám bệnh được ngân sách nhà nước đài thọ theo quy định; cơ quan bảo hiểm y tế không phải chi trả trong trường hợp này. 1.2.2 Vai trò của BHYT: - BHYT giúp ổn định cuộc sống cho người lao động lúc ốm đau,tại nạn…sớm khỏe trở lại và cũng như sớm có việc làm. - BHYT là 1 công cụ đắc lực của Nhà nước góp phần vào việc phân phối lại thu nhập quốc dân 1 cách công bằng, hợp lý giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời giảm ngân sách Nhà nước bảo đảm ASXH bền vững. 1.3. Bảo hiểm thất nghiệp: 1.3.1,Vài nét về bảo hiểm thất nghiệp: a, Sự ra đời và phát triển của BHTN: Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường và bước vào hội nhập với kinh tế thế giới, bên cạnh những thành tựu đạt được về kinh tế - xã hội, thì tình trạng thất nghiệp đang là một trong những vấn đề nan giải và hết sức bức xúc. Hàng năm có từ 1,1 đến 1,2 triệu người bước vào tuổi lao động, nhưng khả năng thu hút lao động của nền kinh tế lại có hạn. Bên cạnh đó, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước, một bộ phận không nhỏ lao động do nhiều nguyên nhân khác nhau bị mất việc làm, đời sống rất khó khăn, ảnh hưởng đến trật tự an sinh xã hội. Bảo hiểm thất nghiệp ra đời sẽ góp phần ổn định đời sống và hỗ trợ cho người lao động được học nghề và tìm việc làm, sớm đưa họ trở lại làm việc. Bên cạnh đó bảo hiểm thất nghiệp còn giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước và doanh nghiệp. Có thể khẳng định, bảo hiểm thất nghiệp là một biện pháp hỗ trợ người lao động trong nền kinh tế thị trường. Bên cạnh việc hỗ trợ một khoản tài chính đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động trong thời gian mất việc thì mục đích chính của bảo hiểm thất nghiệp là thông qua các hoạt động đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm, sớm đưa những lao động thất nghiệp tìm được một việc làm mới thích hợp và ổn định. b, Đối tượng của BHTN: Theo dự thảo Nghị định bảo hiểm thất nghiệp, người lao động là công dân Việt Nam làm việc trong cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể; làm việc cho cơ quan, tổ chức, cho cá nhân nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ và sử dụng lao động Việt Nam..., có hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 12-36 tháng, đều thuộc diện tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Theo dự thảo, loại hình bảo hiểm thất nghiệp này có sự tham gia của 3 bên là Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. c, Phạm vi bảo hiểm của BHTN (ĐK hưởng trợ cấp thất nghiệp) Người thất nghiệp được hưởng các chế độ Bảo hiểm thất nghiệp khi có đủ 3 điều kiện sau: + Đã đóng BHTN đủ 12 tháng trở lên trong vòng 24 tháng trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của Pháp luật lao động hoặc chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của Pháp luật về cán bộ, công chức ; + Đã đăng ký với Trung tâm GTVL thuộc Sở LĐ TBXH khi bị mất việc làm, chấm dứt HĐLĐ hoặc hợp đồng làm việc ; + Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày đăng ký thất nghiệp với Trung tâm GTVL thuộc Sở LĐ TBXH theo quy định. d, Nguồn quỹ và mức trợ cấp thất nghiệp: * Nguồn quỹ: - Người lao động đóng bằng 1% tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp. - Người sử dụng lao động đóng bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của những người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp. - Hàng tháng, Nhà nước hỗ trợ từ ngân sách bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của những người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp và mỗi năm chuyển một lần. - Tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ. - Các nguồn thu hợp pháp khác * Mức trợ cấp: Mức trợ cấp thất nghiệp quy định tại khoản 2 Điều 16 của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP được hướng dẫn thực hiện như sau: - Mức trợ cấp thất nghiệp hàng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng liền kề trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. - Trưòng hợp những tháng cuối cùng trước khi thất nghiệp, người lao động có thời gian gián đoạn đóng bảo hiểm thất nghiệp do không thuộc đối tượng đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định thì 6 tháng liền kề để tính mức trợ cấp thất nghiệp là bình quân của 6 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp trước khi người lao động mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật lao động hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. * Thời gian hưởng trợ cấp BHTN: - Ba tháng, nếu có từ đủ mười hai tháng đến dưới ba mươi sáu tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp; - Sáu tháng, nếu có từ đủ ba mươi sáu tháng đến dưới bảy mươi hai tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp; - Chín tháng, nếu có từ đủ bảy mươi hai tháng đến dưới một trăm bốn mươi bốn tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp; -  Mười hai tháng, nếu có từ đủ một trăm bốn mươi bốn tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp trở lên. 1.3.2. Tình hình thất nghiệp ở Việt Nam và sự cần thiết của BHTN: a, Tình hình thất nghiệp ở Việt Nam. Tỷ lệ thất nghiệp tính chung cho lực lượng lao động ở nước ta trong thời gian qua là thấp.Tỷ lệ thất nghiệp năm 2003 là 2,25%, 3 năm tiếp theo có xu hướng giảm đi nhưng không dáng kể, và đến năm 2007 tăng lên 2,52%.Tại cuộc họp báo ngày 31/12/2010, Tổng cục thống kê cho biết, lực lượng lao động trong độ tuổi của nước ta năm 2010 khoảng 46,21 triệu người, tăng 2,12% so với năm 2009. Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp năm 2010 là 2,88% Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị năm 2010 là 4,43%, giảm 0,17%. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực nông thôn là 2,27%, tăng 0,02% so với năm ngoái. Bên cạnh tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ thiếu việc làm năm 2010 của lao động trong độ tuổi là 4,5%, giảm 1,11% so với 2009. Trong đó, khu vực thành thị là 2,04%, giảm 1,29%, khu vực nông thôn là 5,47%, giảm 1,04% so với 2009. Sở dĩ tỷ lệ thất nghiệp chung của lực lượng lao động thấp, là do nước ta có tới khoảng 76% lực lượng lao động làm việc ở nông thôn. Phần lớn họ là nông dân và các hộ lao động cá thể nhỏ, nên hầu như ít có khả năng xảy ra thất nghiệp. Còn lại chỉ có khoảng 17% lao động làm việc trong khu vực làm công ăn lương là có khả năng xảy ra thất nghiệp. Chính vì vậy, xét về tỷ lệ thất nghiệp tính riêng cho khu vực thành thị và nông thôn,tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị cao hơn nhiều so với tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn. Thất nghiệp không chỉ là sự lãng phí mà còn làm cho thu nhập, sức mua có khả năng thanh toán của dân cư thấp, ảnh hưởng tới sự tăng trưởng kinh tế trong nước, cũng như việc “gọi” các nhà đầu tư nước ngoài. Thất nghiệp làm cho tỉ lệ nghèo cao và sự phân hóa giàu nghèo tiếp tục gia tăng. Thất nghiệp cũng làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội do “nhàn cư vi bất thiện”, trở thành vấn đề bức bối mà nhiều gia đình cũng như cộng đồng phải tốn nhiều tiền của, công sức để khắc phục. b, Sự cần thiết của BHTN: Khi người lao động bị mất việc làm thì họ bị mất nguồn thu nhập từ lao động. Vì vậy, một trong những giải pháp  tích cực là đầu tư để tạo ra chỗ làm việc mới. Tuy nhiên điều này không phải lúc nào cũng có thể làm được mà nhiều khi bơm thêm tiền vào nền kinh tế vốn đang không mạnh có thể lại dẫn đến lạm phát và khủng hoảng kinh tế, càng làm trầm trọng hơn tình trạng thất nghiệp. Có một giải pháp khác để bảo vệ  người lao động tránh được những hụt hẫng khi bị mất việc làm là xã hội cần tạo cho họ một khoản thu nhập bù đắp khoản thu nhập bị mất thông qua bảo hiểm thất nghiệp Bảo hiểm thất nghiệp ra đời sẽ giúp góp phần ổn định đời sống và hỗ trợ cho người lao động được học nghề và tìm việc làm, sớm đưa họ trở lại làm việc. Chỉ riêng trong năm 2010, ở Việt Nam mức thu bảo hiểm thất nghiệp đạt 4.800 tỷ đồng. Tổng số người lao động đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp là 6,6 triệu người. Ngoài ra, đang có tới 190.000 người tiếp tục đăng ký tham gia bảo hiểm thất nghiệp và 156.000 người đã có quyết định được hưởng bảo hiểm thất nghiệp. 1.4. Bảo hiểm thương mại: 1.4.1. Bảo hiểm tài sản: a,Khái niệm: Bảo hiểm tài sản là loại hình bảo hiểm mà đối tượng là giá trị tài sản. Bảo hiểm tài sản là loại hình bảo hiểm ra đời từ lâu, với mục đích bảo vệ tình hình tài chính của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khi không may tài sản của họ bị tổn thất, mất mát vì nhiều lý do khác nhau. b,Các sản phẩm bảo hiểm tài sản: (1) Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt: Là nghiệp vụ bảo hiểm những thiệt hại do cháy và các rủi ro tương tự khác hay các rủi ro đặc biệt như: động đất,sóng thần,núi lửa…gây ra cho các đối tượng bảo hiểm. * Đối tượng áp dụng: Bất động sản: Nhà cửa,máy móc,thiết bị…thuộc loại hình sản xuất kinh doanh hay công trình xây dựng. Các động sản : tài sản liên quan đến người được bảo hiểm và các tài sản,hàng hoá khác. (2) Bảo hiểm mọi rủi ro tài sản: áp dụng với tài sản có trên và trong phạm vi thuộc quyền sở hữu, quản lý, trông nom,, kiểm soát của người được bảo hiểm (3) Bảo hiểm mọi rủi ro công nghiệp: Áp dụng với tài sản, thời gian gián đoạn kinh doanh do các thiệt hại về tài sản (4) Bảo hiểm hoả hoạn nhà tư nhân: Áp dụng với nhà ở tư nhân và mọi tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng, trông coi, kiểm soát của Người được Bảo hiểm. (5) Bảo hiểm tiền: * Đối tượng áp dụng Tiền mặt, ngân phiếu, các loại tiền tệ, giấy tờ có giá, séc, phiếu chuyển tiền, các loại tem thư hiện hành, thẻ tín dụng, hóa đơn bán hàng, tem thu nhập, công trái, hối phiếu, giấy hẹn trả tiền, tem và phiếu miễn thuế hoặc các chứng từ đền bù hoặc các công cụ có thể đổi thành tiền, tất cả thuộc sở hữu của Người được bảo hiểm hoặc được Người được bảo hiểm thừa nhận trách nhiệm. (6) Bảo hiểm trộm cướp: * Đối tượng áp dụng:Tài sản để trong nhà hoặc phần ngôi nhà. (7) Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau mọi rủi ro tài sản: * Đối tượng áp dụng: Các đơn vị sản xuất kinh doanh (8) Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau hoả hoạn và rủi ro đặc biệt: áp dụng với các đơn vị sản xuất kinh doanh (9) Bảo hiểm mọi rủi ro văn phòng: * Đối tượng áp dụng: Toà nhà và tài sản bên trong toà nhà 1.4.2. Bảo hiểm con người: a, Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm con người: Con người là yếu tố quyết định sự phát triển của xã hội, nhưng trong quá trình lao động sản xuất do tiến bộ khoa học hiện đại và tác động của môi trường làm việc, con người không tránh khỏi những rủi ro tai nạn ốm đau già yếu, mất việc làm … vẫn luôn tồn tại và tác động đến đời sống con người. Để khắc phục hậu quả của rủi ro nhằm đảm bảo cho cuộc sống con người, đă có nhiều biện pháp được áp dụng như: phòng tránh cứu trợ tiết kiệm … nhưng bảo hiểm luôn được đánh giá là một trong những biện pháp hiệu quả kịp thời giúp người lao động có thể góp phần đảm bảo cuộc sống của họ khi những rủi ro đó xảy ra. BHYT,BHXH thực chất cũng là bảo hiểm con người và đã xuất hiện từ lâu, song phạm vi đảm bảo cho các rủi ro vẫn còn quá hẹp.Con người vẫn luôn quan tâm đến những vấn đề khác nảy sinh trong cuộc sống. Chẳng hạn như :Xã hội ngày càng phát triển, đời sống con người ngày càng được nâng cao thì người ta càng có điều kiện để chăm lo cho bản thân và gia đình. Ngoài BHYT BHXH các dịch vụ bảo hiểm con người trong bảo hiểm thương mại ra đời là hết sức cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Bảo hiểm con người là một trong ba loại hình của BHTM, là hình thức bổ sung cho BHXH BHYT nhằm đảm bảo ổn định đời sống cho mọi thành viên trong xã hội những rủi ro tai nạn bất ngờ đối với than thển, tính mang, sự giảm sút hoặc mất thu nhập và đáp ứng một số nhu cầu khác của người tham gia .b) Tác dụng của bảo hiểm con người: Thứ nhất, góp phần ổn định đời sống nhân dân, là chỗ dựa tinh thần cho người được bảo hiểm.Tham gia bảo hiểm con người sẽ phần nào giải quyết được những khó khăn do rủi ro gây ra. Công ty bảo hiểm sử dụng quỹ bảo hiểm để trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia để họ ổn định tài chính và đời sống từ đó góp phần ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thứ hai, góp phần ổn định tài chính và sản xuất kinh doanh cho

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu_luan_vai_tro_va_su_phat_trien_cua_bao_hiem.doc