Tìm hiểu cây Thốt Nốt

Trong y học cổ truyền, cuống cụm hoa, cây non và rễ thốt nốt được

dùng làm thuốc. Cuống cụm hoa khi còn non dùng làm thuốc giải nhiệt, lợi

tiểu khi bị sốt rét cao và lách bị to. Nước vắt cuống cụm hoa sau khi nướng

lên dùng để tẩy giun. Cây thốt nốt non hoặc rễ sắc lên, uống nước chữa vàng

da, kiết lỵ, tiểu tiện khó khăn. Nước sắc rễ thốt nốt còn dùng chữa đau dạ

dày, trị viêm gan (kinh nghiệm ở Vân Nam, Trung Quốc). Nước sắc vỏ, cho

thêm ít muối làm nước xúc miệng tốt và chặt chân răng.

pdf5 trang | Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1255 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tìm hiểu cây Thốt Nốt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thốt Nốt Công dụng: Trong y học cổ truyền, cuống cụm hoa, cây non và rễ thốt nốt được dùng làm thuốc. Cuống cụm hoa khi còn non dùng làm thuốc giải nhiệt, lợi tiểu khi bị sốt rét cao và lách bị to. Nước vắt cuống cụm hoa sau khi nướng lên dùng để tẩy giun. Cây thốt nốt non hoặc rễ sắc lên, uống nước chữa vàng da, kiết lỵ, tiểu tiện khó khăn. Nước sắc rễ thốt nốt còn dùng chữa đau dạ dày, trị viêm gan (kinh nghiệm ở Vân Nam, Trung Quốc). Nước sắc vỏ, cho thêm ít muối làm nước xúc miệng tốt và chặt chân răng. Nhựa cây thốt nốt chứa acid succinic; quả thốt nốt có polysaccharid. Thịt quả chứa các chất đắng flabeliferin 1 và 11. Vị đắng có thể loại bỏ do tác dụng của naringinase. Dịch cuống cụm hoa chứa 17-20% chất khô; trong 1 lít dịch với pH 6,7-6,9(7,5); thường chứa protein và amino acid (360mg N); 13-18% sucrose; 110mg P;1900mg K; 60mg Ca; 30mg Mg; 3,91U Vitamin B và 132mg Vitamin C. Trong 1 1ít dịch cũng chứa 4,5g chất tro. Một quả tươi có thể nặng đến 2.790g. Trong đó các thuỳ bao hoa nặng 175g (6,3%); vỏ quả ngoài 120g (4,3%); khối sợi vỏ quả giữa 66g (2,4%); phần cùi ăn được 1.425g (51,0%) và 3 hạt 1.004g (36%). Hạt gồm vỏ 394g, nội nhũ 609g và phôi nặng 1g. Hình thái: Thân cột hoá gỗ cứng, hình trụ, đơn độc, mọc thẳng đứng, cao 20- 30m, đường kính 60cm hay hơn và thường có nhiều vòng do vết cuống lá để lại. Gốc hơi phình to. Lá mọc cách, xếp xoắn ốc, tập trung phía ngọn, thường 20-30 lá xoè rộng, cuống dài, có gai, phiến lá chất da, gần hình mắt chim đến hình quạt, đường kính 1-1,5m; xẻ chân vịt thành 60- 80 thuỳ hình, thuôn dài, rộng 3cm, mép dính trên 1/2 chiều dài và có gai nhỏ; cuống lá non có gốc phình rộng thành bẹ ôm lấy thân; gốc cuống lá già là hình tam giác rộng; hoá gỗ cứng, dài 60- 120cm, mép có gai thô. Cây đơn tính khác gốc, cụm hoa mọc trong tán lá, có cuống ngắn hơn chiều dài của lá. Hoa đực và cái có hình dạng khác nhau: Cụm hoa đực lớn, dài đến 2m, gồm khoảng 8 nhánh hoa; mỗi nhánh mang 3 chùm hoa hình bông, nạc, dài 30-45cm, nhiều lá bắc xếp xoắn ốc và lợp lên nhau; mỗi bông chứa khoảng 30 hoa. Hoa mẫu 3, với 6 nhị. Cụm hoa cái không phân nhánh, có các lá bắc dạng mo bao phủ, trục cụm hoá lớn, nạc, to hơn trục cụm hoa đực, mang nhiều lá bắc hình đấu; những lá bắc phía dưới thường không có hoa; những lá bắc sau mang hoa cái. Hoa cái to hơn hoa đực mẫu 3; bầu 3 ô. Quả hạch hình cầu hay gần hình cầu, đường kính 15-20cm, nặng khoảng 1,5-2,5(-3) kg/quả; khi non vỏ quả màu xanh, khi già màu tím sẫm hay đen; gốc có tồn tại, thường chứa 3 hạt hoá gỗ rất cứng; nội nhũ màu trắng, dạng cùi dừa, có vị ngọt. Phân bố: - Việt Nam: Thốt nốt phân bố ở các tỉnh miền tây và Đông Nam Bộ, giáp biên giới Campuchia từ Tây Ninh xuống đến Kiên Giang. Những tỉnh trồng nhiều thốt nốt là An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Long An và Tây Ninh. - Thế giới: Đây là loài cây thuộc vùng cổ nhiệt đới, mọc tự nhiên và được trồng nhiều ở Ấn Độ. Myanmar, Malaysia, Thái Lan, Campuchia, Lào. Cây còn phân bố ở New Guinea và Bắc Australia. Đặc biệt được trồng nhiều nhất ở Ấn Độ, Myanmar và Campuchia. Có ý kiến cho rằng thốt nốt có nguồn gốc từ loài thốt nốt ethiopi - Borassus aethiopium Mart, phân bố tự nhiên ở châu Phi. Đặc điểm sinh học: Thốt nốt là cây nhiệt đới điển hình, mọc chủ yếu ở các khu vực có khí hậu nhiệt đới, gió mùa, có mùa khô tương đối dài. Cây ưa sáng, chịu được khô hạn, có thể mọc sâu vào trong nội địa,nó chịu được khô hạn hơn cây dừa và có thể mọc trên nhiều loại đất khác nhau, nhưng thích hợp nhất là đất cát pha, giàu chất hữu cơ. Cây ưa địa hình bằng phẳng hay dốc nhẹ. Vùng đồng bằng ven biển, dọc sông suối là nơi thích hợp nhất để trồng và phát triển loài cây này.Tuy vậy cũng có thể trồng thốt nốt ở độ cao tới 800m trên mặt biển. Tính chịu khô của thốt nốt rất cao, nó có thể mọc ở nơi có lượng mưa rất thấp (500-900mm/năm). Nhưng ở những vùng lượng mưa rất cao: 4.000-5.000mm/năm cũng có thể trong thốt nốt. Tính chịu ngập của cây cũng khá cao. Cây thốt nốt là nơi trú ẩn của nhiều loài động vật nhỏ như: dơi, chim, chuột, sóc, khỉ.... Nhiều nơi đã dùng cây thốt nốt để nuôi dơi lấy phân. Thốt nốt sinh trưởng, phát triển thích hợp nhất ở điều kiện nhiệt độ trung bình năm 230C, nhưng cây cũng chịu được nhiệt độ rất cao (450C), hoặc rất thấp (O0C). Trước đây có nhiều ý kiến cho rằng khí hậu miền Bắc Việt Nam không thích hợp với việc trồng cây thốt nốt, nhưng căn cứ vào đặc điểm sinh học của thốt nốt, miền bắc Việt Nam vẫn có thể trong loài LSNG này. Cần thí nghiệm để đưa cây thốt nốt ra trồng ở nhiều vùng sinh thái của Việt Nam, đặc biệt là ở vùng ven biển Nam Trung Bộ. Thốt nốt ra hoa hàng năm, thụ phấn nhờ côn trùng hay gió. Hạt rất dễ nảy mầm khi được tiếp súc với đất ẩm Tuổi ra hoa của thốt nốt phụ thuộc vào độ cao phân bố. Ở độ cao ngang mặt biển cây ra hoa sớm hơn các cây trồng ở độ cao lớn hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf32_2673.pdf