Tổng hợp các cách tăng tốc Window XP toàn diện

. Tinh chỉnh BIOS:

 

a. Thay đổi thứ tự ổ đĩa khởi động:

Hầu hết các máy tính đều được thiết lập mặc định khởi động từ các ổ đĩa mềm hay đĩa tháo lắp khác trước khi tìm hệ điều hành trên đĩa cứng. Điều này rất mất thời gian đặc biệt khi bạn sử dụng nhiều ổ đĩa. Việc chỉ định chính xác ổ đĩa cứng chứa Windows sẽ giúp rút ngắn đáng kể thời gian khởi động toàn hệ thống. Thao tác cụ thể như sau:

+ Trong màn hình POST, bạn nhấn phím cần thiết để vào BIOS.

+ Tìm đến mục Boot Sequence hoặc Boot Device Selection (có thể nằm trong phần Advance BIOS Features đối với một số model bo mạch chủ).

+ Nếu như màn hình của bạn có các giá trị tương tự như trong hình bên thì chứng tỏ bạn đã tìm đúng chỗ. Hãy chỉ định ổ đĩa khởi động đầu tiên bằng cách di chuyển nó lên trên cùng hoặc đánh dấu nó tùy BIOS thông qua phím Pgup hoặc Pgdn.

+ Sau khi xong bạn nhấn F10 rồi trả lời xác nhận để thoát khỏi BIOS.

b. Sử dụng tính năng khởi động nhanh của BIOS:

Mọi hệ thống đều có quy trình khởi động tương tự như nhau. Trong quá trình POST đã đề cập ở trên, BIOS sẽ kiểm tra những linh kiện đang sử dụng và đếm dung lượng bộ nhớ RAM. Những công việc này có thể ngốn khá nhiều thời gian đặc biệt trên những máy tính cao cấp có dung lượng bộ nhớ lớn. Lấy ví dụ, một máy tính với 512MB có thể mất 3 giây để kiểm tra hết RAM và như vậy nếu bạn có 2GB, thời gian khởi động của bạn nghiễm nhiên sẽ bị tăng lên tới 12s. Tất nhiên những phép kiểm tra này không thật sự cần thiết phải thực hiện mỗi lần khởi động máy tính và bạn có thể vô hiệu hóa chúng để tiết kiệm thời gian. Tất cả các BIOS đều có hỗ trợ một tùy chọn mang tên Quick Boot. Nó cho phép bỏ qua các quy trình kiểm tra hoặc thực hiện chúng một cách sơ lược. Bạn có thể kích hoạt Quick Boot bằng cách:

+ Mở bios thông qua phím nóng ở màn hình POST.

+ Sau khi đã vào BIOS, bạn tìm đến phần Advanced (BIOS Features) và thiết lập Quick Boot thành Enable.

+ Thoát BIOS ở chế độ Save Settings and Exit (F10).

 

doc14 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1061 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tổng hợp các cách tăng tốc Window XP toàn diện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngoài cách tắt các dịch vụ của Windows trong sevice thì còn có những cách sau để Windows của bạn khởi động nhanh hơn: 1. Tinh chỉnh BIOS: a. Thay đổi thứ tự ổ đĩa khởi động: Hầu hết các máy tính đều được thiết lập mặc định khởi động từ các ổ đĩa mềm hay đĩa tháo lắp khác trước khi tìm hệ điều hành trên đĩa cứng. Điều này rất mất thời gian đặc biệt khi bạn sử dụng nhiều ổ đĩa. Việc chỉ định chính xác ổ đĩa cứng chứa Windows sẽ giúp rút ngắn đáng kể thời gian khởi động toàn hệ thống. Thao tác cụ thể như sau: + Trong màn hình POST, bạn nhấn phím cần thiết để vào BIOS. + Tìm đến mục Boot Sequence hoặc Boot Device Selection (có thể nằm trong phần Advance BIOS Features đối với một số model bo mạch chủ). + Nếu như màn hình của bạn có các giá trị tương tự như trong hình bên thì chứng tỏ bạn đã tìm đúng chỗ. Hãy chỉ định ổ đĩa khởi động đầu tiên bằng cách di chuyển nó lên trên cùng hoặc đánh dấu nó tùy BIOS thông qua phím Pgup hoặc Pgdn. + Sau khi xong bạn nhấn F10 rồi trả lời xác nhận để thoát khỏi BIOS. b. Sử dụng tính năng khởi động nhanh của BIOS: Mọi hệ thống đều có quy trình khởi động tương tự như nhau. Trong quá trình POST đã đề cập ở trên, BIOS sẽ kiểm tra những linh kiện đang sử dụng và đếm dung lượng bộ nhớ RAM. Những công việc này có thể ngốn khá nhiều thời gian đặc biệt trên những máy tính cao cấp có dung lượng bộ nhớ lớn. Lấy ví dụ, một máy tính với 512MB có thể mất 3 giây để kiểm tra hết RAM và như vậy nếu bạn có 2GB, thời gian khởi động của bạn nghiễm nhiên sẽ bị tăng lên tới 12s. Tất nhiên những phép kiểm tra này không thật sự cần thiết phải thực hiện mỗi lần khởi động máy tính và bạn có thể vô hiệu hóa chúng để tiết kiệm thời gian. Tất cả các BIOS đều có hỗ trợ một tùy chọn mang tên Quick Boot. Nó cho phép bỏ qua các quy trình kiểm tra hoặc thực hiện chúng một cách sơ lược. Bạn có thể kích hoạt Quick Boot bằng cách: + Mở bios thông qua phím nóng ở màn hình POST. + Sau khi đã vào BIOS, bạn tìm đến phần Advanced (BIOS Features) và thiết lập Quick Boot thành Enable. + Thoát BIOS ở chế độ Save Settings and Exit (F10). 2. Thay đổi các giá trị khởi động của Windows XP: a. Hạ thấp giá trị thời gian đếm ngược: Nếu bạn sử dụng nhiều hệ điều hành song song trên máy tính của mình, bạn sẽ phải thao tác với một menu có tên là OS Selector nhằm chọn lựa đúng hệ điều hành cần thiết mà mình muốn dùng. Mặc định menu này sẽ đếm ngược 30 giây trước khi tự động chọn hệ điều hành đầu tiên trong bảng danh sách. Cách duy nhất để tránh phải chờ hêt 30s là bạn phải chọn lựa bằng tay. Nếu như bạn chỉ thường xuyên sử dụng một hệ điều hành thì việc cho nó lên đầu bảng danh sách OS Selector kèm theo giảm thời gian đếm ngược xuống sẽ phần nào rút gọn quá trình khởi động hệ thống. Công việc này rất đơn giản bất kể đối với Windows XP phiên bản Professional hay Home: + Từ menu Start, bạn chọn RUN và nhập vào MSCONFIG rồi nhấn Enter. + Truy cập vào Tab BOOT.INI. + Tìm đoạn kí tự Timeout và thay giá trị 30 giây mặc định bằng 10 giây hay thậm chí là 1 hoặc 2 giây tùy ý bạn. Chú ý thời gian này không phải xác định khoảng bạn có để chọn hệ điều hành mà là từ lúc OS Selector hiện ra cho tới khi bạn nhấn một phím bất kì rồi sau đó mới chọn lựa. Chính vì vậy mà bạn không cần phải lo lắng khi để giá trị quá nhỏ. + Sau khi thay đổi xong, bạn nhấn OK là xong. b. Chọn hệ điều hành mặc định: Nếu hệ điều hành chính của bạn không phải là hệ điều hành mặc định sẽ được chọn sau khi thời gian đếm ngược của OS Selector hết thì bạn nên thay đổi lại bằng cách: + Khởi động phần mềm soạn thảo Notepad (StartMenu > All Programs > Accessories). + Mở File > Open rồi di chuyển tới ổ đĩa có cài Windows. + Nhập tên file BOOT.INI vào hộp Filename rồi nhấn Open. + Truy tìm mục [Operating Systems], bạn sẽ thấy danh sách các hệ điều hành nằm nối tiếp nhau từ trên xuống dưới thành các dòng riêng biệt. Mỗi đối tượng có kèm theo các khóa về phân vùng và thuộc tính khởi động. Việc bạn cần làm là sử dụng tổ hợp phím Copy (Ctrl+C) và Paste (Ctrl+V) để sắp xếp lại danh sách đó theo ý mình. + Sau khi đã xếp xong, bạn lưu lại file và đóng Notepad. Bạn cũng có thể thay đổi giá trị đếm ngược trong notepad hoặc chỉnh lại thứ tự hệ điều hành trong Msconfig, tùy vào tình huống mà bạn hãy chọn giải pháp phù hợp để tiết kiệm thời gian. c. Tắt màn hình khởi động: Bạn có thích nhìn màn hình khởi động của Windows XP với con sâu màu xanh chạy qua chạy lại mỗi lần hệ thống khởi động hay không ? Có thể là có nhưng nếu để ý kĩ, bạn sẽ thấy việc một ngày liệu có được bao nhiêu lần bạn ngồi nhìn hình ảnh này xuất hiện rồi biến mất ? Chắc chắn là không nhiều. Chính vì thế mà có thể bạn cũng muốn gỡ bỏ nó đi để tiết kiệm thời gian. Mặc dù việc vô hiệu hóa màn hình khởi động chỉ giúp bạn tăng tốc quá trình nạp Windows khoảng một giây nhưng hãy nhớ rằng, mỗi mảnh thời gian nhỏ đều có giá trị trong tổng thời gian cải thiện của hệ thống. Quy trình tắt màn hình khởi động giống hệt như ở mục đổi danh sách hệ điều hành ở phần b, bạn khởi động notepad rồi mở file boot.ini. Tuy nhien sau đó hãy thêm giá trị “/noguiboot” vào cuối dòng tương ứng hệ điều hành mà bạn sử dụng. Ví dụ như dưới đây: [boot loader] timeout=0 default=multi(0)disk(0)rdisk(0)partition(1)\WINDOW S [operating systems]multi(0)disk(0)rdisk(0)partition(1)\Windows=”Micro soft Windows XP Professional” /fastdetect /noguiboot Sau đó lưu file và đóng notepad. Trong những lần bật máy tính tiếp theo, màn hình khởi động sẽ không hiện ra nữa. 3. Vô hiệu hóa những thiết bị phần cứng không sử dụng: Mỗi lần bạn bật máy tính, nó sẽ nạp và kiểm tra mọi linh kiện phần cứng được gắn vào và không phải tất cả mọi thành phần của máy đều được bạn sử dụng. Nhiều thứ được nạp và kiểm tra “thừa” sẽ làm tăng thời gian khởi động hay thậm chí làm chậm tốc độ hoạt động của máy trong các ứng dụng. Những phiên bản Windows trước đây nạp trình điều khiển theo thứ tự nối tiếp nhau rất mất thời gian, đặc biệt là khi gặp phải những món “khó nuốt” như card mạng vì nó phải yêu cầu một địa chỉ IP từ máy chủ DHCP mỗi khi khởi động. Mặc dù Windows XP giờ đâu đã có cải tiến cách khởi động rất hiệu quả bằng cách nạp toàn bộ trình điều khiển cùng lúc nhưng việc có càng nhiều thứ nạp khi máy tính bật lên vẫn đem lại hệ quả tất yếu là ngốn càng nhiều thời gian hơn. Để quản lý danh sách các thiết bị phần cứng có trong hệ thống, bạn sẽ phải sử dụng Device Manager như hình bên. Các bước thực hiện như sau: + Mở Control Panel từ StartMenu. + Sau khi nhìn thấy danh sách các mục của Control Panel, bạn nhấn đúp chuột lên biểu tượng System. Nếu như bạn không thấy đối tượng này, có thể Control Panel đang được hiển thị dưới dạng nhom (Category View). Hãy nhìn vào danh sách bên trái rồi chọn Performance and Maintenance và System sẽ xuất hiện. + Khi cửa sổ System Properties hiện ra, bạn hãy chọn tab Hardware rồi nhấn tiếp vào Device Manager. + Trong danh sách phần cứng của máy, bạn hãy lướt qua và vô hiệu hóa những thứ không cần thiết bằng thao tác nhấn nút phải chuột rồi chọn Disable. Khi muốn kích hoạt lại, bạn cũng làm tương tự để bỏ đánh dấu Disable. Mẹo nhỏ: Để xác định nhanh trạng thái của một thiết bị, bạn hãy để ý biểu tượng nhỏ nằm ngay bên trái tên của nó. Tất cả những đối tượng bị vô hiệu hóa sẽ có dấu gạch chéo đỏ, dấu hỏi màu vàng cho biết việc cài đặt trình điều khiển có trục trặc hoặc phần cứng không làm việc chính xác. Ngoài ra, những đối tượng không nằm trong hai diện trên đều đang hoạt động bình thường. Bạn tất nhiên sẽ đưa ra câu hỏi “Tôi nên tắt những thứ nào đi ?” phải không ?. Câu trả lời như sau: Mỗi người dùng đều có thói quen sử dụng hoặc không sử dụng những thiết bị khác nhau tùy thuộc vào công việc hoặc nhu cầu của họ. Tuy nhiên những thành phần dưới đây thường xuyên có thể tắt đi nhất: + Card mạng (Network Adapter): Đặc biệt trên máy tính xách tay hoặc những bo mạch chủ thế hệ mới thường cho bạn nhiều thiết bị mạng khác nhau. Tắt đi những thứ không dùng sẽ cải thiện thời gian khởi động đáng kể. + FireWire IEEE1394: Thông thường có rất ít thiết bị sử dụng giao tiếp này ngoại trừ những máy quay số hoặc ổ đĩa lắp ngoài. Nếu bạn không có những món đồ chơi như thế, tắt FireWire là điều đáng làm. + Modems: Với điều kiện băng thông rộng ADSL phát triển tốc độ chóng mặt như hiện nay, modem quay số chậm chạp là điều không cần thiết. Nếu không có nhu cầu sử dụng fax hay gọi điện thoại qua máy tính thì bạn hãy tắt nó đi. Khi cần dùng bạn vẫn có thể bật lại rất nhanh chóng. + Multimedia Devices: Mỗi máy tính hiện đại thường có rất nhiều thiết bị đa phương tiện đi kèm. Danh sách những thành phần này nằm trong nhóm “Sound, video and game controllers”. Hãy duyệt qua một lượt và bạn sẽ thấy rất nhiều thành phần không cần thiết để loại trừ. Lấy ví dụ bản thân tôi không bao giờ sử dụng tơi Game Port hay MiDI Device nên chắc chắn sẽ tắt chúng đi. + PCMCIA: Phần này chỉ dành cho những người dùng laptop, một máy tính xách tay thường có khe cắm PCMCIA để bổ sung thêm những tính năng còn thiếu nhưng trong tình hình thông dụng như hiện nay của USB thì các khe PCMCIA càng ngày càng trở nên lạc lõng hơn. Bạn có thể tắt chúng đi khi không dùng thông qua mục PCMCIA Adapters. Chú ý: Tuyệt đối không tắt các thiết bị thuộc nhóm Disk Drives, Computer, Display Adapters, IDE Disk Controllers và System vì chúng là những thành phần tối cần thiết cho hoạt động của may tính. 4. Gỡ bỏ bớt các bộ font chữ: Mặc định Windows XP có khoảng 250 font chữ khác nhau cần phải nạp khi hệ thống khởi động. Tuy nhiên trên thực tế chỉ có một số font nhất định là được sử dụng trong khi hệ điều hành hoạt động cũng như công việc của bạn. Lõi (core) Windows XP sử dụng những bộ font Tahoma, Times New Roman, Arial, Verdana, Trebuchet và MS Sans Serif. Những nhóm font còn lại có thể loại trừ nếu không dùng đến. Đó là còn chưa tính đến những người dùng còn cài đặt thêm hàng trăm, thậm chí hàng ngàn bộ font chữ tùy biến riêng phục vụ cho công việc. Mỗi trong số chúng đều góp phần tăng thời gian khởi động lên. Chính vì vậy câu trả lời đơn giản để giải quyết vấn đề này chính là gỡ bỏ bớt font chữ khỏi thư mục Fonts của thư mục chính Windows XP. Chú ý: Cách tốt nhất để gỡ cài bỏ là bạn di chuyển (Move) chúng ra khỏi thư mục C:\Windows\Fonts chứ đừng xóa vì sau này khi cần tới, bạn chỉ việc copy vào vị trí cũ để khôi phục lại. Các bước thực hiện như sau: + Mở My Computer từ trên StartMenu hoặc Desktop rồi di chuyển tới thư mục cài Windows. Nếu mới vào lần đầu tiên, bạn sẽ thấy thông báo “This Folder Contains file that keep your system working properly; you should not modify its contents”. Hãy bỏ qua và nhấn “Show the contents of this folder”. + Mở tiếp một cửa sổ Explorer thứ hai và tạo một thư mục mang tên nào mà bạn thích (ví dụ Font Backup chẳng hạn). + Di chuyển tiếp vào thư mục Fonts rồi di chuyển những file không cần thiết ra thư mục mới tạo. Chú ý rằng một loại font có thể gồm nhiều file với các kiểu chữ khác nhau. Danh sách các font quan trọng cũng như chức năng của chúng được liệt kê trong bảng dưới đây: Tên Font chữ Chức năng Verdana Thường được dùng chính trong các trang web và ứng dụng. Arial Sử dụng trong những ứng dụng của Microsoft như Outlook Trebuchet Sử dụng trên giao diện của Windows XP ví dụ như thanh tiêu đề Times New Roman Font mặc định cho các trang web hoặc Microsoft Word. Tahoma Cực kì thông dụng không chỉ cho các cửa sổ Windows mà còn cả ứng dụng và web MS Sans Serif Dùng trong nhiều ứng dụng hệ thống 5. Tối ưu hóa vị trí các file khởi động quan trọng: Tốc độ truy xuất các file cần thiết cho quá trình khởi động phụ thuộc vào vị trí của chúng trên đĩa cứng. Ngoài ra nếu file bị phân mảnh thì thời gian tìm kiếm sẽ còn lâu hơn nữa. Sử dụng công cụ dồn đĩa kèm theo Windows hoặc của những hãng thứ ba sẽ làm tăng tốc đáng kể quá trình tìm kiếm và truy xuất file. a. Sử dụng Disk Defragmenter: Windows có kèm theo nó một phần mềm dồn các file khởi động. Tuy nhiên khá khó để bạn kích hoạt được nó bởi mặc định nó chỉ chạy ở chế độ nền và người dùng không thể ra lệnh cho nó làm việc được. Thông thường sau một khoảng thời gian máy tính bỏ không (Idle) từ 5 tới 30 phút, hệ điều hành sẽ kiểm tra thông tin ghi nhận quá trình khởi động (Prefetcher) và bắt đầu dồn các file cần thiết. Tất nhiên là có mẹo để bạn kích hoạt tính năng này như sau: - Để kiểm tra lần cuối cùng việc dồn file khởi động được thực hiện, bạn mở Regedit và tìm tới khóa “HKEY_LOCAL_MACHINE\SOFTWARE\Microsoft\Windows NT\CurrentVersion\Prefetcher” rồi xem giá trị của khóa “LastDiskLayoutTimeString”. - Khi quyết định dồn vị trí file trên đĩa cứng, bạn hãy mở Start Menu > Run rồi nhập vào chính xác Rundll32.exe advapi32.dll,ProcessIdleTasks. Thao tác này sẽ buộc Windows thực hiện những công việc mà nó phải làm khi hệ thống rỗi và dồn đĩa là một trong số đó. Chúc bạn thành công ! Tắt bớt các dịch vụ của windows để tăng tốc,đỡ tốn tài nguyên ram. Các dịch vụ của Windows (Services) là một trong những thành phần cốt lõi của mọi ứng dụng trên Windows. Với việc sử dụng hợp lý (đóng - ngắt hoặc tạm dừng) sẽ giúp bạn khai thác Windows một cách hiệu quả nhất. Ngoài ra sự hiểu biết các dịch vụ này sẽ giúp bạn tối ưu hóa Windows, tăng cường bảo mật và giảm thiểu virus khi mà các dịch vụ không cần thiết được loại bỏ. Những nguy cơ tiềm ẩn khả năng tấn công của máy tính thường nằm trong sự thiếu hiểu biết 1 phần nào đó của Windows mà bạn đã vô thức để cho hệ thống tự chạy. Hơn nữa hệ thống có thể sẽ nặng nhọc hơn khi mà phải "gồng mình" khởi động các dịch vụ này. Để truy cập vào các dịch vụ (Services) từ Start bạn chọn --> Control Panel --> Administrative Tools --> Services --> Kích phải chuột vào từng dịch vụ và chọn Properties bạn chọn General --> Startup Type sẽ có 03 lựa chọn Automatic (Sẽ tự khởi động theo mặc định Windows), Manual dùng trong trường hợp bạn tự cấu hình chạy hoặc không chạy mà không phụ thuộc vào cấu hình mặc định Windows, Disabled để đóng dịch vụ khi mà bạn không cần thiết dịch vụ này. Cũng trong General tab còn có các lựa chọn Start - Stop - Pause - Resume giúp bạn quyết định khởi động hay dừng nhưng bạn phải chú ý rằng khi bạn không lựa chọn Startup Type ở trên thì các chức năng này chỉ có tác dụng trong phiên làm việc hiện tại của Windows mà sau đó khi bạn khởi động lại máy hệ thống lại trả về trạng thái ban đầu vì vậy khi quyết định ngừng hoặc khởi động dịch vụ bạn phải chọn lựa Startup Type. Cảnh báo:Khi bạn đóng ngắt dịch vụ nào đó tức là bạn đã vô hiệu hóa chức năng bất kỳ trong Windows mà có thể bạn sẽ dùng sau này vì vậy chúng tôi đề nghị bạn đọc kỹ các tính năng trước khi ngắt bỏ (Disabled). Một số tính năng khi mà bạn ngắt bỏ có thể làm cho máy tính báo lỗi do hệ thống đang sử dụng nó cho các ứng dụng được bạn cài đặt [Only registered and activated users can see links. ] Alerter: Dịch vụ này giúp thông báo cho các máy tính và người dùng được chọn những sự cảnh báo mang tính chất hành chính. Bạn để nó nếu bạn cảm thấy nó cần thiết với bạn. Nếu không thì hãy tắt nó đi. Application Layer Gateway : Cần thiết nếu bạn muốn dùng Firewall trong Windows ( Internet Connection Firewall ) hoặc Chia sẻ thông tin mạng của Windows ( Windows Internet Connection Sharing ). Sẽ rất vô dụng nếu như bạn không dùng 2 ứng dụng trên. Application Management : Bạn không dùng chung 1 mạng với ai đó ? Bạn không không có ý định điều khiển 1 trình nào đó thông qua mạng ? Nếu không hãy vô tư mà Disable nó. Automatic Updates : Bạn muốn máy tự động cập nhật Windows. 1 số trường hợp quay số kết nối để cập nhật mà chủ nhân không biết. Trả tiền cước hàng triệu đồng... Nếu cập nhật mà không mấy hiệu quả thì không cần cập nhật, ngọai trừ các lổ hổng bảo mật lớn thì tự vào website microsoft cập nhật thôi. Background Intelligent Transfer : Hỗ trợ Windows Update, nếu bạn tắt Automatic Update ở trên thì vô hiệu hóa dịch vụ này nhằm giảm sức nặng hệ thống phần nào. Clipbook : Cho phép bạn xem những gì lưu trữ trong Clipboard, sắp xếp chúng có trật tự để có thể thi hành tác vụ những gì trong Clipbard. Bạn có thể không cần làm quan trọng mọi việc đến như vậy. Tắt nó đi sẽ giúp các lệnh Copy-Paste-Cut nhanh hơn. Bạn có thể xem nó họat động như thế nào qua cách đánh clipbrd.exe vào lệnh Run trong Start Menu. COM+ : Cả hai Event System và System Application Services giúp quản lý và nắm quyền Microsoft's Compoment Object Model. Nếu như bạn cần tìm hiểu về vấn đề này, chỉ Microsoft mới có câu trả lời tốt nhất tuy là bằng tiếng anh _www.microsoft.com/com/tech/complus.asp. Nói chung, có thể một phần mềm nào đó sẽ cần đến dịch vụ này để chạy, tốt nhất bạn thiết lập nó ở chế độ Manual +Computer Browser : Không hề liên quan gì đến trình duyệt web thân yêu của bạn. Ý nghĩa dịch vụ này là theo dõi những hệ thống khác kết nối vào máy bạn qua 1 mạng chia sẻ. ...Quyết định tùy bạn Cryptographic services: Dịch vụ chứng nhận - đánh giá trong WinXP. Cho dù bạn cảm thấy không cần thiết với nó, nhưng khuyên bạn nên để nó chạy vì vài tính năng khác của nó khá hữu ích như kiểm tra chứng nhận trình điều khiển các thiết bị của winxp. DHCP Client: Khi bạn lên mạng hoặc không, dịch vụ này sẽ lấy 1 địa chỉ IP cho bạn. Bạn có thể thử tắt nó. Nhưng nếu bạn bắt đầu gặp những vấn đề lỗi, hiệu hóa nó lại. (Ý kiền cá nhân: Nên tắt nó đi nếu bạn không dùng mạng hoặc bạn dùng mạng nhưng lại đặt IP tĩnh.) Distributed Link Tracking Client : Quản lý các Shortcut đến tập tin trên Server nào đó . Nếu bạn đã vô hiệu hóa 2 dịch vụ trên thì cũng nên bỏ luôn cái này. DNS Client: Dịch vụ này giải đáp và thiết lập một bộ đệm về tên miền để hỗ trợ cho máy tính bạn đang sử dụng. Nếu bạn không sử dụng Internet thì nên tắt dịch vụ này đi. Error Reporting : Tự động thông báo lỗi có thể là 1 tính năng khá tốt nhưng đôi khi lại quá làm phiền và vô dụng. Event Log : Bỏ. Nhiệm vụ của nó chỉ là ghi lại những báo cáo đôi khi khó hiểu. (Ý kiền cá nhân: Không nên tắt dịch vụ này vì nếu tắt không những không làm cho máy khởi động nhanh hơn mà còn làm cho máy khởi động cực chầm.) Fast User Switching Compatibility : Nếu bạn không dùng máy chung với nhiều người thì vô hiệu hóa cái này tăng năng lực cho máy rất nhiều. Help and Support : Sự trợ giúp là 1 điều quý báu nhất là khi ta gặp khó khăn. Nhưng nếu bạn không rành Tiếng anh và không biết nó nói cái gì.... vậy thì nên tắt nó đi thì hơn. HTTP SSL: Kết nối từ client đến server được thực hiện bằng giao thức HTTPS (HTTP + SSL). Chỉ sử dụng dịch vụ này khi bạn chạy Web Server. Human Interface Device Access Service: Mở rộng và điều khiển những phím nóng trên các thiết bị nhập. Ví dụ những nút bấm trên bàn phím Play-Next-Internet-Search. Nếu bạn không thường dùng nó, tắt dịch vụ này đi và tận hưởng 0.85% hệ thống nhanh hơn. IIS Admin: Cho phép bạn quản lý dịch vụ Web và FTP thông qua dịch vụ Internet Information Services (IIS). Nếu bạn không dùng đến những dịch vụ trên thì hãy tắt nó. IMAPI CD-Burning COM Service :Thật sự ra dùng Nero ghi đĩa trực quan hơn dịch vụ có sẵn trong WinXP này. Indexing services: Tự động tra sóat thông tin trên ổ cứng nhằm giúp các ứng dụng như Search của Windows, Office XP chạy nhanh hơn. Tuy nhiên nó chiếm nhiều tài nguyên và thật sự không xứng đáng với tính năng nó họat động. IPSEC services: Nếu như máy tính của bạn thuộc vào lọai viễn thông và kết nối với máy khác bởi VPN thì Internet Protocol Security ( IPSEC ) có thể cần thiết. Tuy nhiên tôi không dám mơ tưởng máy mình dữ dội đến vậy. Tạm thời tắt nó đi. Logical Disk Manager : Nếu như bạn muốn quản lý đĩa cứng của mình ( bấm phải trên biểu tượng My Computer, chọn Manage rồi đến Disk Management ), thì dịch vụ này không thể bị vô hiệu hóa. Vì trình Disk Management phụ thuộc dịch vụ này để chạy. Tuy nhiên, có lẽ bạn không sài đến thường xuyên Disk Management , thiết lập nó sang Manual sẽ là tốt nhất. Messenger: Vào năm trước , những kẻ Spammer đã nhận ra 1 cách có thể gửi hàng triệu Spam đến người dùng WinXP thông qua Messenger này. Lọai bỏ dịch vụ này là lựa chọn sáng suốt MS Software Shadow Copy Provider/Volume Shadow Copy: Hỗ trợ Microsoft Backup hay các trình sao lưu ảnh đĩa khác. Một lần nữa, bạn có thể thử qua việc tắt nó, nếu có sai sót nào trong việc sao lưu thì khởi động lại nó sẽ giải quyết vấn đề. Net Logon:Hỗ trợ việc chứng thực để đăng nhập vào một máy tình thuộc miền. NetMeeting Remote Desktop Sharing : Không muốn chia sẻ với ai bất cứ cái gì trên máy bạn thông qua NetMeeting ? Không = Disable Network Connections: Quản lý những đối tượng trong kết nối mạng và kết nối mạng quay số, trong đó bạn có thể thấy được cả mạng cục bộ và những kết nối từ xa. Network DDE: Cung cấp việc truyền tải và an toàn mạng cho sự trao đổi dữ liệu động (Dynamic Data Exchange(DDE)). Cho những chương trình chạy trên cùng một máy tính hoặc trên những máy tính khác nhau. Network Location Awareness (NLA):Tập hợp và lưu trữ thông tin về cấu hình và vị trí mạng. Đưa ra thông báo khi những thông tin này thay đổi. Network Provisioning Service:Quản lý cấu hình của file XML trên một miền cơ sở cho mạng được cung cấp tự động. (XML được thiết kế để thực hiện lưu trữ dữ liệu và phát hành trên các Web site không chỉ dễ dàng quản lý hơn, mà còn có thể trình bày đẹp mắt hơn. XML cho phép những người phát triển Web định nghĩa nội dung của các tài liệu bằng cách tạo đuôi mở rộng theo ý người sử dụng) Plug and Play : Bạn cần dịch vụ này để nhận biết các thiết bị mới gắn vào Pc, bên trong hay bên ngòai, PCI hay USB, fire wire đều sẽ cần đến nó, hay chỉ đơn giản là WinXP cần giao tiếp tìm kiếm lại phần cứng nào đó trong 1 số lý do. Print Spooler: Nếu bạn không dùng máy in thì hãy tắt nó đi thì hơn. Remote Desktop Help Session Manager : Đừng để ai đó điều khiển máy bạn nếu bạn không muốn bị vậy Remote Procedure Call : Trong winXP, các ứng dụng được phân chia trong công thức Cá thể tiến trình. Không 1 trình nào ảnh hưởng đến trình nào. Khi 1 phần mềm bị đứng, treo hay không trả lời, nó sẽ không ảnh hưởng đến tòan bộ máy như Win98. Để quản lý hết tất cả những phần mềm này 1 cách thuận tiện, RPC là dịch vụ cần thiết sắp xếp phân vùng bộ nhớ phát cho từng ứng dụng. Nếu tắt nó sẽ gây ra lỗi hệ thống rất nghiêm trọng. Vì vậy bạn đừng làm điều đó. Remote Registry Service : Bạn có thích cho người dùng khác trên 1 mạng máy tính thay đỗi các thiết lập trong Registry, trái tim của hệ điều hành trên máy bạn ? Bạn sẽ không tìm ra được nguyên nhiên ngày nào đó WinXP bị..vỡ tim đâu. Dịch vụ này là 1 dạng của sự bất bảo mật cho máy. Security Accounts Manager: Dịch vụ Lưu trữ những thông tin bảo mật cho tài khoản của người dùng tại chỗ. Security Center: Theo dõi và quản lý những thiết lập và những cấu hình an toàn của hệ thống Server: Hỗ trợ file, máy in và tên dùng để chia sẻ thông tin qua mạng cho máy tính bạn đang sử dụng. Nếu bạn không dùng chung mạng với ai đó thì nên tắt nó đi. Smart Card và Smart Card Helper : Nếu bạn không dùng các thẻ nhớ thì bạn biết phải làm gì với dịch vụ này. SSDP Discovery : một thành phần của Universinal Plug and Play sắp nói đến. Cho dù bạn tắt hay mở nó, bạn cũng sẽ làm cùng chung 1 việc cho SSDP Discovery. System Restore : Mừng hết lớn khi có thể bay về quá khứ trước khi bạn cài đặt 1 driver lỗi hay phần mềm làm hại hệ thống là ví dụ thực tiễn cho bạn gợi ý nên tắt ứng dụng này hay không. Tuy nhiên vô hiệu hóa nó sẽ tiết kiệm cho bạn rất nhiều dung lượng đĩa. Lưu ý là nếu bạn đã chọn tắt nó thì tất cả những thiết lập sao lưu sẽ bị xóa hết. Task scheduler : Đôi khi không mấy hữu dụng đối với bạn, Có thể bạn sẽ không cần phải lập lịch dồn đĩa trong đêm, nhưng Task Scheduler có thể cần thiết với và người khác. Tắt nó hay không tùy vào yêu cầu của bạn có cần hoặc không. TCP/IP NetBIOS Helper :Là 1 đòi hỏi bình thường nếu hệ thống mạng nội bộ của bạn dùng NetBIOS bởi TCP/IP. Tắt nó nếu bạn cảm thấy không cần thiết. Tuy nhiên khởi động lại nếu như mạng nội bộ của bạn ( thậm chí mạng Internet ) có trục trặc liên quan đến việc tắt dịch vụ này. Telephony :Bạn vô cùng cần - nói cách khác không thể thiếu nó nếu bạn muốn vào Internet thông qua phương thức quay số = Modem. Nhưng nếu là kết nối ADSL, bạn thử thiết lập nó qua Manual để xem nếu có lỗi nào xảy ra vì có thể nó vẫn đòi hỏi dịch vụ này. Nếu không bạn đã giúp máy có thể tài nguyên hệ thống khá là không ít... Telnet : Cho phép người dùng máy khác dang nhập vào máy bạn và chạy các chương trình. Nếu như bạn có bao giờ nghe đến việc tấn công qua IP thì Telnet là 1 trong những kẻ 2 mặt tiếp tay cho giặc quậy phá thành của bạn. Tắt nó đi, trừ khi bạn cần nó cho 1 lý do nào đó Uninterruptible Power Supply :An tòan để vô hiệu hóa. Trừ khi bạn có cục UPS cho máy tính mình. Universinal Plug and Play : Tự hỏi bạn có muốn máy mình kiểm tra và tìm hiểu các thiết bị có trên máy người khác trong 1 mạng máy tính nội bộ ? Có thể nó cần thiết nếu như bạn xài Internet Connection Sharing và cho phép người ngòai hiệu chỉnh kết nối cho máy bạn. Dù sao đi nữa, nếu như thật sự không biết gì, bạn có thể tắt nó cũng được. Webclient : Theo sự mô tả, dịch vụ này cho phép bạn duyệt qua "Network Places" , thực chất đó là mạng Internet. Nó cho phép các tạo, xâm nhập và thiết lậ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctong_hop_cac_cach_tang_toc_xp_toan_dien.doc
Tài liệu liên quan