Vai trò của con người trong đời sống xã hội, đặc biệt trong quá trình sản xuất xã hội - Vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam

. Quan điểm về bản chất con người của các nhà triết học trước Mac

Trong lịch sử triết học khi nghiên cứu về con người đã có rất nhiều quan điểm khác nhau xoay quanh nguồn gốc và bản chất con người .Với quan niệm tôn giáo cho rằng con người là sự kết hợp linh hồn và thể xác .Với quan niêm duy tâm thì cho rằng bản chất con người chỉ là phương tiện là sự thể hiện của một ý niệm .Heghen coi ý niệm tuyệt đối là cái sinh ra giới tự nhiên xã hội và con người ,còn tôn giáo thì đều coi thần thánh thượng đế sinh ra con người ,cuộc sống con người do đấng tối cao an bài sắp đặt .Phoiơbăc thì quan niệm bản chất con người là một thực thể tự nhiên sinh vật thuần tuý ,cường độ yếu tố sinh vật ở cn người mà không thấy được mặt ý thức xã hội của con người .Với triết học Trung Hoa tiêu biểu như Mạnh Tử coi bản chất con người là tính thiện còn Tôn Tử coi đó là tính ác vì việc giải quyết nhu cầu của người này lại xâm phạm nhu cầu của người khác .Cac quan niệm này đều phản ánh chưa hoàn toàn đúng ,phiến diện về bản chất con người .

2. Quan điểm về bản chất con người của triết học Mac

Kế thừa và phát huy một cách có phê phán Cac Mac và Anghen đã khắc phục quan niệm xem xét con người một cách trừu tượng tuyệt đối hoá .Bằng việc xác lập quan điểm khoa học xem xét con người hiện thực trong lịch sử phát triển của nó .Cac Mac đã chỉ ra:” bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt .Trong tính hiện thực của nó ,bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” .Bản chất con người không phải là cái gì tự nhiên,có sẵn ,hay cái gì nhất thành bất biến ,mà là cái được bộc lộ trong cược sống hiện thực của nó ;nghĩa là phải xem xét bản chất con người trong tính hiện thực của nó.Trong cuộc sống trong hoạt động của mình con người chịu sự tác động của các quan hệ xã hội ,như vậy con người gia nhập vào các quan hệ đó góp phần củng cố và phát triển các quan hệ đó.Tồn tại khách quan tác động vào con người thông qua các quan hệ như :quan hệ sản xuất, quan hê chính trị quan hệ giai cấp ,quan hệ cộng đồng . ngươc lại con người tác động trở lại tồn tại khách quan ,tác động đến môi trường sống môi trường tự nhiên ,môi trường gia đình .

Theo triết học Mac con người là sản phẩm cao nhất trong quá trình phát triển lâu dài của vật chất .Con người là một thưc thể thống nhất giữa mặt sinh học với mặt xã hội .Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học tính loài .Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người .Con người là bộ phận của tự nhiên .Mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất con người .đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là mặt xã hội .Trong mỗi con người mặt sinh vật và mặt xã hội không tồn tại cô lập mà chúng liên hệ chặt chẽ với nhau tác động lẫn nhau .Con người tuy tồn tại với tư cách cá nhân riêng rẽ ,song bao giờ nhữngcá nhân riêng rẽ đó cũng ở trong sự tác động lẫn nhau.Do vậy trình độ phát triển của đời sống xã hội ảnh hưởng đến trình độ phát triển của con người.Khi đời sống kinh tế xã hội càng phát triển thì yếu tố xã hội càng phát triển càng tách rời khỏi yếu tố sinh vật .Con người là chủ thể là sản phẩm của lịch sử. Với tư cách là thực thể xã hội, con người với hoạt động thực tiễn tác động vào tự nhiên cải biến giới tự nhiên đồng thời thúc đẩy sự vận

 

docx13 trang | Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1237 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Vai trò của con người trong đời sống xã hội, đặc biệt trong quá trình sản xuất xã hội - Vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
     Con người là một vấn đề luôn luôn được quan tâm nhất là hiện nay đất nước ta đang bước vào thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá còn gặp rất nhiều khó khăn.Con người là nội dung không thể thiếu trong công cuôc xây dưng và phát triển kinh tế xã hội .”Con người là vốn qúy báu nhất là nhân tố giữ vai trò quyết định sự thành bại của mọi hoạt động là sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam”.Chỉ có con ngươì với vai trò là chủ thể xã hội mới giúp cho đất nước Việt Nam trở nên dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.Đi nghiên cứu vấn đề con người trong quá trình công nghiệp hoá,hiện đại hoá ở nước ta hiện nay giúp chúng ta hiểu sâu sắc vai trò quan trọng của con người Việt Nam và ảnh hưỏng của con người đối với sự nghiệp đất nước . Noi dung I. Cơ sở của đề tài          1.Cơ sở lý luận  1.        Quan điểm về bản chất con người của các nhà triết học trước Mac      Trong lịch sử triết học khi nghiên cứu về con người đã có rất nhiều quan điểm khác nhau xoay quanh nguồn gốc và bản chất con người .Với quan niệm tôn giáo cho rằng con người là sự kết hợp linh hồn và thể xác .Với quan niêm duy tâm thì cho rằng bản chất con người chỉ là phương tiện là sự thể hiện của một ý niệm .Heghen coi ý niệm tuyệt đối là cái sinh ra giới tự nhiên xã hội và con người ,còn tôn giáo thì đều coi thần thánh thượng đế sinh ra con người ,cuộc sống con người do đấng tối cao an bài sắp đặt .Phoiơbăc thì quan niệm bản chất con người là một thực thể tự nhiên sinh vật thuần tuý ,cường độ yếu tố sinh vật ở cn người mà không thấy được mặt ý thức xã hội của con người .Với triết học Trung Hoa tiêu biểu như Mạnh Tử coi bản chất con người là tính thiện còn Tôn Tử coi đó là tính ác vì việc giải quyết nhu cầu của người này lại xâm phạm nhu cầu của người khác .Cac quan niệm này đều phản ánh chưa hoàn toàn đúng ,phiến diện về bản chất con người . 2.        Quan điểm về bản chất con người của triết học Mac      Kế thừa và phát huy một cách có phê phán Cac Mac và Anghen đã khắc phục quan niệm xem xét con người một cách trừu tượng tuyệt đối hoá .Bằng việc xác lập quan điểm khoa học xem xét con người hiện thực trong lịch sử phát triển của nó .Cac Mac đã chỉ ra:” bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt .Trong tính hiện thực của nó ,bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” .Bản chất con người không phải là cái gì tự nhiên,có sẵn ,hay cái gì nhất thành bất biến ,mà là cái được bộc lộ trong cược sống hiện thực của nó ;nghĩa là phải xem xét bản chất con người trong tính hiện thực của nó.Trong cuộc sống trong hoạt động của mình con người chịu sự tác động của các quan hệ xã hội ,như vậy con người gia nhập vào các quan hệ đó góp phần củng cố và phát triển các quan hệ đó.Tồn tại khách quan tác động vào con người thông qua các quan hệ như :quan hệ sản xuất, quan hê chính trị quan hệ giai cấp ,quan hệ cộng đồng ... ngươc lại con người tác động trở lại tồn tại khách quan ,tác động đến môi trường sống môi trường tự nhiên ,môi trường gia đình ... Theo triết học Mac con người là sản phẩm cao nhất trong quá trình phát triển lâu dài của vật chất .Con người là một thưc thể thống nhất giữa mặt sinh học với mặt xã hội .Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học tính loài .Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người .Con người là bộ phận của tự nhiên .Mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất con người .đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là mặt xã hội .Trong mỗi con người mặt sinh vật và mặt xã hội không tồn tại cô lập mà chúng liên hệ chặt chẽ với nhau tác động lẫn nhau .Con người tuy tồn tại với tư cách cá nhân riêng rẽ ,song bao giờ nhữngcá nhân riêng rẽ đó cũng ở trong sự tác động lẫn nhau.Do vậy trình độ phát triển của đời sống xã hội ảnh hưởng đến trình độ phát triển của con người.Khi đời sống kinh tế xã hội càng phát triển thì yếu tố xã hội càng phát triển càng tách rời khỏi yếu tố sinh vật .Con người là chủ thể là sản phẩm của lịch sử. Với tư cách là thực thể xã hội, con người với hoạt động thực tiễn tác động vào tự nhiên cải biến giới tự nhiên đồng thời thúc đẩy sự vận TLT122 - Vai trò của con người trong đời sống xã hội, đặc biệt trong quá trình sản xuất xã hội. Vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam Lời nói đầu tính cấp thiết của đề tài Tại sao lại phải nghiên cứu về phạm trù con người và vấn đề về con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong khi thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng khoa học kỹ thuậtluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Kỹ thuật vĩ đại và trên thế giới đã có rất nhiều, rất nhiều nước đã trở thàmh những nước công nghiệp lớn. Phải chăng đó là vì công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phương thức duy nhất để phát triển nền kinh tếluận văn báo cáo chuyên ngành kinh tế thế giới và bất kỳ một quốc gia nào bỏ qua quá trình này đều sẽ trở nên quá chậm, quá lạc hậu so với bước đi của thế giới? Và phải chăng giống như các quốc gia khác, Việt NamThư Viện Điện Tử Trực Tuyến Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luậtluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Luật chung đó? Nhưng quan trọng hơn cả, phải chăng con người là chủ thể, là mấu chốt, là điểm khởi đầu cũng như là cái đích của quá trình lâu dài này? Đúng là trên thực tế ở nhiều quốc gia công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã tạo ra nhiều thành tựu khoa học không thể phủ nhận được. Chẳng hạn việc sử dụng năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời đã làm giảm sự phụ thuộc của con người vào nguồn năng lượng khoáng sản; sự ra đời của các vật liệu tổng hợp không những giúp con người giảm phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên không tái sinh được mà cung cấp cho con người nguồn vật liệu mới có tính năng ưu việt hơn và tái sinh được. Nhờ phát minh con người sử dụng nguồn vật liệu mới này mà con người đã có thể thu nhỏ máy tính điện tử xuống hàng vạn lần về thể tích đồng thời tăng hiệu năng của nó lên hàng chục vạn lần so với ba chục năm trước. Sự ra đời và xuất hiện các loại vật liệu mới đang ngày càng trở thành nhân tố vô cùng quan trọng của sự phát triển sức sản xuất xã hộiluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Xã hội và tiến bộ khoa học công nghệluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Công Nghệ. Cùng với quá trình tự động hoá, tiến bộ khoa học công nghệ cho thấy khả năng loài người sẽ tiến tới một xã hội của cải tuôn ra rào rạt. Còn ở Việt Nam thì sao? Cho đến nay,Việt Nam vẫn thuộc loại những nước nghèo nhất thế giới, nền kinh tế vẫn ở tình trạng lạc hậu, còn mang tính chất tự cấp, tự túc, đất nước chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, lạm phát còn ở mức cao, sản xuất chưa ổn định, tình hình mất cân đối vẫn nghiêm trọng, bội chi ngân sáchThư viện Sách, Mỗi Ngày Một Cuốn Sách còn lớn, tốc độ tăng dân số cao, lao độngluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Lao Động Học thất nghiệp hoặc không đủ việc làm ngày càng tăng (7% dân số thành thị thất nghiệp), đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn; tổng sản phẩm quốc dân (GDP) tính theo đầu người thuộc loại thấp nhất thế giới: 220$ (tại thời điểm tháng 9 năm 1993), thấp hơn Lào, Bangladesh, chỉ bằng 1/9 của Thái Lan, bằng 1/4 của Malaysia, 1/45 của Đài Loan; tốc độ tăng bình quân chậm hơn nhiều nước trong khu vực. Gắn liền với nền kinh tế đó là lối làm ăn tản mạn và tuỳ tiện của sản xuất nhỏ. Cùng với những thuyền thống tốt đẹp mà chúng ta đang kế thừa cũng có những truyền thống lạc hậu của người đã chết đang đè nặng lên vai người đang sống... Vì vậy muốn không bị tụt hậu xa hơn nữa, muốn ổn định mọi mặt để đi lên và phát triển thì tất yếu phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khoá VII (từ 24/11/1993 đến 1/12/1993) và Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (20-25/1/1994) đã xác định tới đây nước ta “chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhằm tạo thêm nhiều công ăn việc làm, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đây là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới.” Song dựa vào đâu để đảm bảo việc thực hiện nó cho thật hiệu quả và không phải trả giá quá đắt thì lại không dễ dàng; bởi vì từ chỗ thấy được tính tất yếu nếu không cẩn thận lại dễ sa vào duy ý chí như đã từng xảy ra trước đây hoặc trái lại nếu chỉ thấy khó khăn, bất lợi, thiếu điều kiện rồi cam chịu tụt hậu thì lại là một tai họa. Như vậy cũng có nghĩa là chúng ta đã để lại cho thế hệ tương lai một cái gánh quá nặng và sẽ có tội rất lớn đối với những ai đã hy sinh xương máu cho sự nghiệp giải phóng dân tộcluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Dân Tộc Học bảo vệ đất nước. Nhưng nếu chỉ có như vậy thì tại sao lại phải đề cập đến vấn đề con người? Liệu có phải con người đang giữ một vai trò gì đó trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, và hơn thế nữa phải chăng đó là một vai trò quan trọng, quyết định sự thành bại của sự nghiệp đổi mới này? Trước hết có thể nói rằng xã hội loài người tồn tại và phát triển dựa vào hai nguồn tài nguyên là: thiên nhiên và con người. Cái quý nhất trong nguồn tài nguyên con người là trí tuệ. Theo quan niêm cổ điển, mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên đều có hạn và đều có thể bị khai thác cạn kiệt. Song, sự hiểu biết của con người đã, đang và sẽ không bao giờ chịu dừng lại, nghĩa là nguồn tài nguyên trí tuệ không có giới hạn. Tính vô tận của nguồn tiềm năng trí tuệ là nền tảng để con người nhận thức tính vô tận của thế giới vật chất, tiếp tục nghiên cứu những nguồn tài nguyên thiên nhiên còn vô tận nhưng chưa được khai thác và sử dụng, phát hiện ra những tính năng mới của những dạng tài nguyên đang sử dụng hoặc sáng tạo ra những nguồn tài nguyên mới vốn không có sẵn trong tự nhiên, nhằm phục vụ cho sự phát triển của xã hội trong những điều kiện mới. Bởi vậy có thể nói, trí tuệ con người là nguồn lực vô tận của sự phát triển xã hội. Đồng thời, nguồn lực phát triển của xã hội, trước hết và quan trọng hơn cả cũng chính là con người- nguồn tiềm năng sức lao động. Con người đã làm nên lịch sửluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Lịch Sử của chính mình bằng lao động được định hướng bởi trí tuệ đó. Ta đã biết rằng, “tất cả cái gì thúc đẩy con người hoạt động đều tất nhiên phải thông qua đầu óc của họ”(1), tức là phải thông qua trí tuệ của họ. Trước tiên, những nhu cầu về sinh tồn đã thúc đẩy con người hoạt động theo bản năng như bất kỳ một động vật nào khác. Nhưng rồi “bản thân con người bắt đầu tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình- đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định” (2). Sự khác biệt căn bản về mặt “tổ chức cơ thể” giữa con người và con vật chính là bộ óc và đôi bàn tay. Bộ óc điều khiển đôi bàn tay, nghĩa là bằng trí tuệ (bộ óc) và lao động (đôi bàn tay) con người đã tiến hành hoạt động biến đổi tự nhiên làm nên lịch sử xã hội, đồng thời trong quá trình đó đã biến đổi cả bản thân mình. Cho đến khi lực lượng sản xuất phát triển, đánh dấu bởi những phát minh khoa học, những công nghệ hiện đại thì trí tuệ con người vẫn có sức mạnh áp đảo. Những tư duy máy móc, trí tuệ nhân tạo... dù rộng lớn đến đâu, dù dưới hình thức hoàn hảo nhất cũng chỉ là một mảng cực nhỏ, một sự phản ánh rất tinh tế thế giới nội tại của con người, chỉ là kết quả của quá trình phát triển khoa học kinh tế, của hoạt động trí tuệ của con người. Mọi máy móc dù hoàn thiện, dù thông minh đến đâu cũng chỉ là kẻ trung gian cho hoạt động của con người. Do đó con người luôn luôn đã và vẫn là chủ thể duy nhất của mọi hoạt động trong xã hội. Thực tiễn ngày nay càng khẳng định tính đúng đắn trong quan niệm của Mác về vị trí vai trò không gì thay thế được của con người trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, của xã hội loài người. Bản thân sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà chúng ta đang từng bước thực hiện với những thành công bước đầu của nó cũng ngày càng đòi hỏi mỗi chúng ta phải nhận thức sâu sắc “những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người”, thấy rõ vai trò của con người trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội trên thực tế và trong quan niệm của mỗi chúng ta, con người ngày càng thể hiện rõ vai trò là “chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của các quốc gia” (3). Bởi vậy để đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN và đưa sự nghiệp cách mạng lớn lao đó đến thành công ở một nước vẫn còn trong tình trạng lạc hậu như nước ta, chúng ta không thể không phát triển con người Việt Nam, nâng cao đội ngũ những người lao động nước ta lên một tầm cao chất lượng mới. Nhận định này đã được khẳng định trong nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Một lần nữa ta có thể khẳng định tính cấp thiết và ý nghĩa quan trọng của việc nghiên cứu đề tài này. Qua đó, triết họcluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu môn Triết Học Mác LêNin tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của mình trong đời sống xã hội và trong công cuộc đổi mới đất nước. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta được tiến hành như thế nào, quy mô và nhịp độ của nó ra sao, điều đó một phần tuỳ thuộc vào sự đóng góp của triết học. Thông tin chi tiết                                    LỜI MỞ ĐẦU Dân tộc mình là dân tộc nghèo, một đất nước đang phát triển ở mức thấp, chúng ta vẫn sử dụng lao động thủ công là chính. Điều đó cho thấy lực lượng sản xuất chúng ta vẫn còn yếu kém, khoa học kỹ thuật công nghệ còn lạc hậu. Chúng ta nhận biết được điều đó vì vậy chúng ta quyết tâm không để sự thấp kém đó tồn tại. Chính phủ và nhà nước đã lập ra nhiều chiến lược phát triển nền kinh tế trong đó có chiến lược mang tầm vóc lớn và có ý nghĩa thực tế với thực trạng kinh tế nước ta hiện nay đó là chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Chiến lược đưa ra với mục đích rất rõ ràng là chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại để tạo ra năng suất lao động cao. Tất cả những chiến lược định hướng đó đều có thể tạo ra sự đột biến trong nền kinh tế sản xuất của nước ta, song để thực hiện được nó thì yếu tố không thể thiếu và có thể nói là quan trọng hàng đầu là con người, nguồn nhân lực là bộ phận tác động trực tiếp, quyết định sự thành bại của sự nghiệp. Chúng ta đều biết lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và con người, để lực lượng sản xuất phát triển thì con người phải thể hiện được trình độ, khả năng đối với tư liệu sản xuất. Cũng như vậy công nghiệp hoá - hiện đại hoá mà muốn thành công, phát triển thì con người lực lượng lao động phải biết sử dụng máy móc, khoa học công nghệ thể hiện trình độ càng cao thì công nghiệp hoá - hiện đại hoá sẽ càng phát triển hiện đại hơn. Như vậy có thể thấy một đất nước phát triển đòi hỏi nguồn nhân lực phải dồi dào, phải có đầy đủ sức mạnh cả về thể lực và trí lực. Nói cách khác đất nước đó phải là đất nước của một xã hội học tập, đất nước của những con người yêu nước, đất nước của những con người có trí tuệ, lòng hăng say học tập và lao động cần cù. Tất cả những điều đó xét về đất nước ta thì chúng ta không thiếu, có thể thấy được điều đó qua các cuộc kháng chiến giữ nước và các lớp trẻ của chúng ta khi tham gia Olympic. Mặc dù chúng ta có tiềm lực như vậy song để phát huy tiềm lực đó không phải đơn giản, muốn làm được vấn đề này chính là điểm yếu của đất nước ta. Chúng ta chưa sử dụng một cách hợp lý nguồn nhân lực vào các chiến lược kinh tế mà chính phủ nhà nước đã đặt ra. Việc sử dụng không hợp lý đó có rất nhiều các nguyên nhân song trong bất cứ một chiến lược cần phát triển nào đó thì chúng ta cần phải đi nghiên cứu vào thực trạng của nó sau đó đưa ra các giải pháp để phát triển. Có như vậy thì mới có thể tạo ra được sự phù hợp, đồng nhất để phát triển, mới có thể phát huy được điểm mạnh và khắc phục hạn chế điểm yếu. Mặt khác chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay lại là một vấn đề càng phải quan tâm, nghiên cứu một cách chính xác chặt chẽ thì mới có thể thành công trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Bởi lẽ chúng ta là một nước nghèo xuất phát điểm là một nước nông nghiệp mà muốn thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì rõ ràng là điều không đơn giản. Chúng ta cần phải nghiên cứu thực trạng một cách chính xác để đè ra giải pháp hợp lý, để làm sao nâng cao hiệu quả nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đây là vấn đề hết sức quan trọng đối với nước ta hiện nay, do đó em chọn đề tài "Vai trò của nguồn lực con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Liên hệ với Việt Nam". Em tin rằng con người Việt Nam sẽ đạt được điều này, đưa đất nước ta sánh vai cùng các cường quốc năm châu. I. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát triển của các nước trên thế giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục tiêu "Xã hội công bằng văn minh, dân giàu nước mạnh" công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà chính là quá trình biến đổi cách mạng sâu sắc với lĩnh vực đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, khoa học của con người…) làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Sự thành công của quá tình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi ngoài mới trường chính trị ổn định, phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn lực này quan hệ chặt chẽ với nhau. Cùng tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng mức độ tác động vào vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá không giống nhau, tỏng đó nguồn nhân lực phải đủ về số lượng mạnh về chất lượng. Nói cách khác nguồn nhân lực phải trở thành động lực phát triển. Nguồn nhân lực phát triển thì tất yếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải tién hành để đáp ứng nhu cầu đó. Theo các nhà kinh điều của chủ nghĩa Mác - Lênin, con người vừa là điểm khởi đầu vừa là sự kết thúc, đồng thời lại vừa là trung tâm của sự biến đổi lịch sử, nói cách khác con người là chủ thể chân chính của các quá trình xã hội. Trước đây tỏng sách báo con người được xem xét trên phương diện "con người tập thể" "con người giai cấp" con người xã hội. Ở đây tính tích cực của con người với tư cách là chủ thể được tập trung chú ý khai thác và bồi dưỡng chủ yếu ở những phẩm chất cần cù, trung thành, nhiệt tình, quyết tâm với cách mạng. Một quan niệm và một cách làm như vậy đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Tuy nhiên quan niệm và cách làm này cũng bộc lộ những hạn chế nhất định trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện. Trong xã hội con người không chỉ tạo ra các hệ thống và các quá trình khác nhau của xã hội (giai cấp, đảng phía, nhà nước, sản xuất, văn hoá), mà họ còn làm người, chính họ đã in đậm dấu ấn của tiến trình lịch sử. Lịch sử (suy đến cùng) cũng chính là lịch sử phát triển cá nhân của con người, dù họ có nhận thức được điều đó hay không. Từ đây cho phép tách ra một bình diện đặc biệt trong việc xem xét "con người chủ thể" bình diện " con người cá nhân" có nghĩa là nâng nhận thứac lên một trình độ mới - quan niệm "cái cá nhân" là sự thể hiện (hiện thân) một cách cụ thể sinh động của "cái xã hội" khi con người trở thành chủ thể của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường con người không chỉ nhận được sự tích cực, mà còn cả những tác động tiêu cực của nó trước con người không chỉ có những thời cơ và những triển vọng tươi sáng mà còn chứa đựng những thách thức, nguy cơ, thậm chí là cả những tai hoạ khủng khiếp. (Thất nghiệp, ô nhiễm môi trường, bệnh tật và những tệ nạn xã hội). Vì vậy trong mỗi con người luôn có những "giằng xé" bởi những cực "chủ tớ" giầu nghèo, thiện ác, … trong điều keịen này cần xem xét con người chủ thể với những phẩm chất nghề nghiệp chuyên môn cụ thể trong những hoàn cảnh cụ thể của họ. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình biến đổi căn bản và sâu sắc toàn bộ đời sống xã hội, nó đòi hỏi vật chất cao với người "chủ thể", ở đây chỉ cần sự cần cù, trung thành, nhiệt tình quyết tâm cách mạng chưa đủ mà điều quan trọng hơn là trí tuệ khoa học, ý chí chiến thắng cái nghèo nàn lạc hậu, tính năng động luôn thích ứng với hoàn cảnh, ý thức kỷ luật, bản lĩnh lãnh đạo, nghệ thuật quản lý, kỹ thuật kinh doanh… Như vậy trong điều kiện mới cần xem xét đánh giá bồi dưỡng "con người chủ thể" không chỉ trên bình diện "con người - xã hội" mà còn trên cả bình diện "con người cá nhân". Hơn nữa là "con người - chuyên môn nghề nghiệp" nhất định (như nhà lãnh đạo, quản lý, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp công nhân…). Bởi vì ấn dấu đằng sau những chủ thể cụ thể này là lợi ích tương ứng với chúng. Chỉ có quan niệm và cách làm như vậy chúng ta mới biết tác động vào đâu và tác động như thế nào để nâng cao tích cực của chủ thể hành động. Nói đến nguồn nhân lực tức là nói đến chủ thể tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên nó không phải là chủ thể biệ lập riêng rẽ, mà là chủ thể được tổ chức thành lực lượng thống nhất về tư tưởng hành động. Nói cách khác công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tổng hợp những chủ thể với những phẩm chất nhất định tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhưng cần phải hiểu rằng tổng hợp những chủ thể này không phải là tập hợp giản đơn số lượng người mà nó là sức mạnh tổng hợp của chỉnh thể người trong hành động. Sức mạnh này bắt nguồn trước hết là những phẩm chất vốn có bên trong của mỗi chủ thể và nó được nhân lên gấp đôi trong hoạt động thực tiễn. Động lực công nghiệp hoá, hiện đại hoá là những gì thúc đẩy quá trình vận động và phát triển. Vì vậy khi nói "nguồn lực với tính cách là động lực của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá" là chủ yếu nói đến những phẩm chất tích cực của tổng hợp những chủ thể được bộc lộ trong quá trinfh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và thúc đẩy quá trình này vận động phát triển và thể hiện mặt tích cực, đồng thời hạn chế mặt tiêu cực tối đa của mình. Mặt khác để xem xét vai trò nguồn lực của con người, cần đặt nó trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác và ở mức độ chi phối của nó đến sự thành bại của công cuộc đổi mới đất nước. Khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghiệp hiện đại phát triển mạnh mẽ, lao động trí tuệ ngày càng gia tăng và trở thành xu thế phổ biến của nhân loại. Khi công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá mà thực chất là hiện đại hoá lực lượng sản xuất với cách tiếp cận như vậy vai trò quyết định nguồn lực của con người được biểu hiện ở những điểm như sau: Trước hết các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý… tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng chúng chỉ có tác dụng và có ý thức của con người. Bởi lẽ con người là ngùn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí biết lợi dụng, các nguồn lực khác gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp cũng tác động vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. các nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo, khai thác của con người và nói đúng thì chúng đều phục vụ nhu cầu, lợi ích của con người nên con người biết cách tác động và chi phối. Vì thế trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố quan trọng nhất. Thứ hai: Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị cạn kiệt khi khai thác. Trong khi đó nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực vô tận. Tính vô tận, trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ nó có khả năng không chỉ tái sinh mà còn tự sản sinh về mặt sinh học mà còn đổi mới không ngừng phát triển về chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Đó là cơ sở làm cho năng lực và nhận thức hoạt động thực tiễn của con người phát triển như một quá trình vô tận. Xét trên bình diện cộng đồng nhân loại. Nhờ vậy con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, khám phá ra những tài nguyên mới và sáng tạo ra những tài nguyên vốn không có sẵn trong tự nhiên. Với bản chất hoạt động có mục đích sáng tạo ra những hệ thống công cụ sản xuất mới đã tác động vào tự nhiên một cách dễ dàng hơn. Chính sự phát triển không ngừng của công cụ sản xuất từ thủ công đến cơ khí và ngày nay là tự động hoá được xã hội loài người chuyển qua các nền văn minh từ thấp đến cao, từ đó nói lên trình độ vô tận của con người. Thứ ba: Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hoá, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo này của Mác đã và đang trở thành hiện thực. Sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại đang dẫn các nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động đến nền kin

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxCon ng4327901i l m7897t v7845n 2737873 lun lun 273432.docx