Vai trò của việc phát triển kinh tế nông thôn trong phát triển kinh tế quốc dân

Công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn là quá trình vô cùng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, nhất là những nước đang phát triển như nước ta hiện nay. Một đất nước bị chiến tranh tàn phá, có cơ sở vật chất nghèo nàn lạc hậu vì vậy mục tiêu chính được Đảng và Nhà nước đề ra và thực hiện cho bằng được đó là phải công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Muốn vậy trước hết phải công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn bởi 80% người dân Việt Nam sống bằng nông nghiệp. Trong giai đoạn hiện nay chúng ta phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy nguồn lực con người bởi nguồn lực con người đóng vai trò quan trọng chủ chốt trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Con người sáng tạo ra máy móc quản lý và sử dụng hợp lý máy móc hiện đại để phục vụ và làm cho cuộc sống con người thoải mái hơn, thoả mãn các nhu cầu tự nhiên của con người. Ngoài ra phải thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thị trường để sản xuất hàng hoá quy mô lớn với chất lượng và hiệu quả cao. Dần dần xoá bỏ mô hình sản xuất nhỏ lẻ vừa tốn kém vừa không hiệu quả thay thế vào đó là những mô hình sản xuất phù hợp hơn mang lại năng suất cao hơn. Bên cạnh phát triển khoa học cũng phải chú ý bảo vệ môi trường phòng chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên tai từ đó phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững, đưa nền kinh tế của đất nước phát triển đi lên sánh vai cùng các nước trên thế giới. Từng bước đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển trong khu vực trên thế giới.

 

 

docx28 trang | Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1025 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Vai trò của việc phát triển kinh tế nông thôn trong phát triển kinh tế quốc dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. LỜI MỞ ĐẦU Công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn là quá trình vô cùng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, nhất là những nước đang phát triển như nước ta hiện nay. Một đất nước bị chiến tranh tàn phá, có cơ sở vật chất nghèo nàn lạc hậu vì vậy mục tiêu chính được Đảng và Nhà nước đề ra và thực hiện cho bằng được đó là phải công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Muốn vậy trước hết phải công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn bởi 80% người dân Việt Nam sống bằng nông nghiệp. Trong giai đoạn hiện nay chúng ta phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy nguồn lực con người bởi nguồn lực con người đóng vai trò quan trọng chủ chốt trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Con người sáng tạo ra máy móc quản lý và sử dụng hợp lý máy móc hiện đại để phục vụ và làm cho cuộc sống con người thoải mái hơn, thoả mãn các nhu cầu tự nhiên của con người. Ngoài ra phải thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thị trường để sản xuất hàng hoá quy mô lớn với chất lượng và hiệu quả cao. Dần dần xoá bỏ mô hình sản xuất nhỏ lẻ vừa tốn kém vừa không hiệu quả thay thế vào đó là những mô hình sản xuất phù hợp hơn mang lại năng suất cao hơn. Bên cạnh phát triển khoa học cũng phải chú ý bảo vệ môi trường phòng chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên tai từ đó phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững, đưa nền kinh tế của đất nước phát triển đi lên sánh vai cùng các nước trên thế giới. Từng bước đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển trong khu vực trên thế giới. II. NỘI DUNG I. VAI TRÒ CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG THÔN TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ QUỐC DÂN 1. Quan niệm về nông nghiệp, nông thôn - Nông thôn: Là khái niệm dùng để chỉ một địa bàn mà ở đó sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, nông thôn có thể được xem xét trên nhiều góc độ về kinh tế, chính trị, văn hoá…Nông thôn không đơn thuần là khu vực xã hội mà cũng là khu vực kinh tế - kinh tế nông thôn trong địa bàn nông thôn ngoài nông nghiệp cũng có công nghiệp dịch vụ thường gọi là các hoạt động phi nông nghiệp.Việc phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn đồng thời cũng là tăng tỷ lệ hoạt động phi nông nghiệp. - Kinh tế nông thôn: là một khu vực của nền kinh tế gắn liền với địa bàn nông thôn, kinh tế nông thôn vừa mang những đặc trưng chung của nền kinh tế về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, về cơ chế kinh tế… vừa có những đặc điểm riêng gắn liền với nông nghiệp và nông thôn. Xét về mặt kinh tế nông thôn có thể bao gồm nhiều ngành: nông nghiệp, lâm nghiệp, tiêu thụ công nghiệp,dịch vụ...nhưng nếu xét về mặt kinh tế xã hội kinh tế nông thôn cung bao gồm nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế hộ gia đình, kinh tế tập thể …xét về không gian lãnh thổ bao gồm các vùng chuyên canh và vùng độc canh… -Nông nghiệp: Theo nghĩa hẹp nó là ngành sản xuất ra của cải vật chất mà con người phải dựa vào quy luật sinh trưởng của cây trồng vật nuôi đã rạo ra sản phẩm như lương thực, thực phẩm. Nông nghiệp theo nghĩa rộng còn bao gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp. Như vậy: Nông nghiệp là ngành sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào tư nhiên. Nông nghiệp cũng là ngành sản xuất có năng suất lao động thấp, là ngành sản xuất mà việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ còn gặp nhiều khó khăn vì thế nông nghiệp cần được nhà nước quan tâm hơn nữa để không còn hiện tượng đựơc mùa mà thu nhập của nông dân không tăng. Nêu trường hợp này vẫn bị xảy ra liên tục trong nhiều mùa sẽ làm mất đi động lực phat triển của nông nghiệp. 2. Vai trò của nông nghiệp, nông thôn - Cung cấp lương thực, thực phẩm cho xã hội. Đây là một nhu cầu thiết yếu của con người không thể thiếu lương thực, thực phẩm.sự phỏt triển của nông nghiệp có ý nghĩa quam trọng là cơ sở phát triển các mặt khác của đời sống xã hội. - Cung cấp nguyên liệu đi phát triển công nghiệp nhẹ Nhưng ngành công nghiệp nhẹ: chế biến lương thực, thực phẩm, công nghiệp dệt.Tăng trưởng của các nganh công nghiệp nhẹ phụ thuộc vào tăng trưởng của số lượng nguyên liệu. - Cung cấp một phần vốn để công nghiệp hoá. Vốn có vai trò cực kì quan trọng trong việc đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước. Là một nước nông nghiệp do vậy phat triển kinh tế nông thôn sẽ gúp phần tăng thêm đồng vốn cho đất nước. -Nông nghiệp, nông thôn là thị trường quan trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ. Nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu nông nghiệp, nông thôn phần lớn tập trung lao động, dân cư do đó đây là thị trường quan trọng của công nghiệp và dịch vụ. Nông nghiệp nông thôn càng phát triển thì nhu cầu về hàng hoá, tư liệu sản xuất như: thiết bị nông nghiệp, điện năng, phân bón… càng tăng. Mặt khác sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn làm cho mức sống, mức thu nhập của dân cư nông thôn càng tăng lên. Nhu cầu về sản phẩm công nghiệp ti vi, tủ lạnh, xe máy… và nhu cầu dịch vụ, văn hoá, y tế, giáo dục… cũng tăng hơn. - Phát triển nông nghiệp, nông thôn là cơ sở ổn định kinh tế, chính trị, xã hội. Phát triển kinh tế nông thôn là cơ sở ổn định để phát triển nền kinh tế quốc dân. Thực tiễn phát triển kinh tế từ tình trạng lạc hậu đến văn minh và tiến bộ ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đã cho thấy: Kinh tế nông thôn với nội dung kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp bao gồm: trồng trọt, chăn nuôi, nghề rừng và thuỷ sản ở giai đoạn đầu khi công nghiệp và đô thị còn chưa phát triển đã giữ vị trí bao trùm. Song cùng với sự gia tăng mức độ công nghiệp hoá và đô thị hoá nền kinh tế, kinh tế nông thôn dần thu hẹp cả về nội dung sản xuất nông nghiệp và không gian lãnh thổ. Hoạt động nông nghiệp dã có hàng nghìn năm kể từ khi con người từ bỏ săn bắn hái lượm tự nhiên để kiế sống. Vì vậy lịch sử phát triển sản xuất nông nghiệp là lâu đời, chứa đựng nhiều yếu tố truyền thống, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ với các điều kiện tự nhiên như: đất dai, môi trường sinh thái và đặc điểm sinh học của cây trồng, vật nuôi. Tuy nhiên, các điều kiên này lại rất khác nhau giữa các vùng, làm cho tính chất của sản xuất vừa có điểm giống nhau lại vừa có điểm rất khác nhau giữa các vùng lãnh thổ. Đặc điểm trên đây giải thích tại sao kinh tế nông thôn mang tính bảo tồn rất cao, khó thay đổi những phương pháp sản xuất truyền thống mặc dù trong những điều kiện nhất định đã tự thể hiện tính lỗi thời. Lý luận và thực tế đã chứng minh rằng nông nghiệp đóng vai trò to lớn trong phát triển kinh tế. Trừ một vài ngoại lệ có tính đặc thù rất cao, hầu hết các nước đã phải dựa vào sản xuất nông nghiệp để tạo ra một sản lượng lương thực cần thiết, đủ nuôi sống dân tộc mình vào tạo nền tảng cho các ngành các hoạt động kinh tế khác phát triển. Từ những chứng minh trên ta đã có thể thấy rõ sự quan trọng của việc phát triển kinh tế nông thôn mỗi quốc gia, đặc biệt là với một nước nông nghiệp như Việt Nam thì việc thúc đẩy kinh tế nông thôn càng quan trọng hơn nó quyết định sự phát triển kinh tế, sự giàu mạnh của đất nước. II. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NÔNG THÔN Trong quản lí nhà nước, quản lí nhà nước giữ về kinh tế quan trọng, bởi vì lịch sử phát triển kinh tế thế giới đó khẳng định rằng không khi nào và không ở đâu có nhà nước phi kinh tế, đứng bên trên hay bên ngoài kinh tế. Các hoạt động của nhà nước đều hoặc tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm sự vận động của nền kinh tế: mặt khác bất cứ nhà nước nào cũng có vai trò quản lí nền kinh tế quốc dân thông qua các công cụ quản lí và can thiệp bằng hệ thống thể chế, chính sách để điều khiển nền kinh tế sao cho nền kinh tế tự thân vận động nhằm đạt tới mục tiêu mong muốn và theo quỹ đạo đó lựa chọn. Điều khác nhau cơ bản giữa các quốc gia là nhà nước quản lý nền kinh tế như thế nào về hình thức, mức độ can thiệp, điều tiết ra sao, và đến đều là hợp lý và thoả mãn được các yêu cầu để đạt tới mục tiêu đã đặt ra. Thực tiễn cũng đã chứng minh rằng không có một mô hình quản lí nào đúng cho mọi quốc gia, vì vây mỗi nước phải căn cứ vào các điều kiện cụ thể về kinh tế, chính trị xã hội, điều kiện cụ thể về các nguồn lực để lựa chọn các giải pháp phát triển hữu hiệu nhất cho nước mình va đua ra nhung chinh sỏch phu hop. 1. Những chính sách ruộng đất. Đối với nông nghiệp, nông thôn thì ruộng đất là quan trọng nhất đối với người dân. Vì vậy để phát triển được nông nghiệp, nông thôn thì Nhà nước cần phải có những chính sách khuyến khích nông dân thực hiện "dồn điền, dồn thửa" và tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất theo quy định của pháp luật. 2. Chính sách đầu tư Sản xuất trong nông nghiệp đạt hiệu quả cao thì cơ sở vật chất phục vụ cho quá trình sản xuất phải đầy đủ, mà đối với nông nghiệp nông thôn việc xây dựng công trình thuỷ lợi, hệ thống giao thông, hệ thống cung cấp điện… vượt ra ngoài khả năng do vậy Nhà nước nên có chính sách đầu tư hỗ trợ cho nông nghiệp, nông thôn nhằm phát triển một cách tổng thể. 3..Chính sách đào tạo cho lao động ở nông thôn Ngày nay là thời đại của khoa học công nghệ vì vậy để áp dụng được những biện pháp khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất buộc người lao động phải nâng cao trình độ khoa học kĩ thuât do vay nhà nước cần có nhưng chinh sách đào tạo lao động nhằm mục tiêu tăng năng suất lao động, 4.Chính sách phát triển thị trường nông thôn Bằng cách mở rông thị trường buôn bán ở nông thôn, tăng khả năng xuât khẩu lương thực thực phẩm, mở rông các thị trường buôn bán. 5. Chính sách cơ sở hạ tầng Xây dưng thêm các trung tâm buôn bán giao dịch phục vụ cho quá trình trao đổi hàng hóa của người dân trong và ngoài nước. Đông thời nâng cấp nhưng công trình đã lâu năm. 6. Chính sách khoa học - công nghệ Vì nước ta còn nghèo nên việc tiếp cận với khoa học công nghệ thông tin ứng dụng vào sản xuất phát triển nông nghiệp còn thấp. Do vậy phát triển nong nghiệp, nông thôn cần sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc đưa ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Những chính sách đó sao cho phù hợp với yêu cầu sản xuất từng vùng, địa phương ngoài ra còn phải xuất phát từ những nhu cầu thị trường thế giới 7. Chính sách xã hội Kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển tạo điều kiện phát triển văn hoá - xã hội đồng thời sự phát triển của cơ chế thị trường làm nảy sinh các vấn đề xã hội: dư thừa lao động, phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội… Do vậy Nhà nước cần phải có những chính sách hạn chế vấn đề xã hội,… Đẩy mạnh phát triển hoạt động văn hóa nông thôn, phát triển y tế, giáo dục. A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP, HOÁ HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN 1. Thế nào là công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn Công nghiệp hoá hiện đại hoá và nông thôn được thế giới định nghĩa theo nhiều cách khác nhau đó chính là một quá trình lâu dài cần được tiến hành theo cách tuần tự không thể nóng vội, không thể tuỳ tiện. Quá trình này được thực hiện không nhằm mục đích tự thân mà phục vụ các mục tiêu kinh tế xã hội của nông thông cũng như của cả nước. Nhưng đối với một nước khoa học công nghệ, kinh tế Nhà nước giữ vait rò chủ đạo thì Đảng và Nhà nước Việt Nam đã xác định: công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Khái niệm công nghiệp hoá này được Đảng ta xác định rộng hơn những quan niệm trước đó bao hàm cả về hoạt động sản xuất kinh doanh, cả về dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội, được sử dụng bằng các phương tiện và các phương pháp tiên tiến hiện đại cùng với kỹ thuật và công nghệ cao. Như vậy công nghiệp hoá mới teo tư tưởng mới không bó hẹp trong phạm vi trình độ các lực lượng sản xuất đơn thuần kỹ thuật đơn thuần để chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí như quan niệm trước đây. Theo tinh thần của nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và Hội nghị Trung ương lần thứ VII công nghiệp hoá nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với việc đổi mới căn bản về công nghệ và kỹ thuật ở nông thôn, tạo nền tảng cho việc phát triển nhanh, bền vững theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế ở nông thôn, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế quốc dân với tốc độ cao. Công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là quá trình phức tạp không đơn giản, vì vậy Đảng và Nhà nước phải đưa ra những chiến lược bước đi cụ thể và hiệu quả. Bước đầu tiên của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phải đưa phương pháp sản xuất công nghiệp, máy móc thiết bị vào sử dụng trong nông nghiệp và sản xuất ở nông thôn để thay thế lao động thủ công. Nông thôn Việt Nam luôn mang nặng tính thủ công trong sản xuất nông nghiệp vì vậy để thay đổi tập quán, cách làm của nông dân là bước đi vô cùng khó, phải thực hiện theo từng bước đi từ từ chậm chạp. Đưa dần phương pháp sản xuất bằng máy móc để con người dần tiếp nhận phương pháp sản xuất này.Không thể đột ngột thay thế phương pháp sản xuất thủ công bằng phương pháp máy móc ngay được như thế sẽ gây ra sự lúng túng của người sử dụng cũng như người hướng dẫn sử dụng. Người cần sử dụng máy móc lại không biết cách sử dụng hoặc lúng túng trong cách sử dụng vì vậy gây nên sự lãng phí máy móc thiết bị. Sau khi đưa máy móc thiết bị vào sử dụng cũng cần phải có phương pháp quản lý hiện đại tương ứng với các loại công nghệ và thiết bị. Máy móc khoa học là những thành tựu sáng tạo của con người, chúng không tự bảo quản, không chống lại sự hao mòn vì vậy phải có bàn tay con người bảo quản cho nó. Ngoài ra quản lý, sử dụng máy móc sao cho hợp lý tiết kiệm tiền của, tránh lãng phí cũng cần phải học, phải có phương pháp khoa học hiện đại. Đó là cả một quá trình đào tạo chính quy và có quy mô. Nhưng khi có máy móc hiện đại, trang thiết bị được quản lý tốt mà cơ sở vật chất nghèo không phù hợp thì cũng không có hiệu quả. Vì vậy phải tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng thích hợp với việc đưa máy móc thiết bị mới vào nông thôn. Như vậy, công nghiệp hoá nông thôn không có nghĩa là chỉ phát triển công nghiệp ở nông thôn mà bao gồm cả việc phát triển toàn bộ các hoạt động, các lực lượng sản xuất dịch vụ và đời sống văn hoá tinh thần ở nông thôn và cả nước nói chung. Công nghiệp hoá nông nghiệp là một bộ phận của công nghiệp hoá nông thôn. Nội dung chủ yếu là đưa máy móc thiết bị, ứng dụng các phương pháp sản xuất kiểu công nghiệp, các phương pháp và hình thức tổ chức kiểu công nghiệp và các lĩnh vực của sản xuất nông nghiệp. Công nghiệp hoá nông thôn còn bao hàm cả việc tạo ra sự gắn bó chặt chẽ giữa sản xuất công nghiệp với sản xuất nông nghiệp nhằm khai thác triệt để lợi thế của nông nghiệp, nâng cao hàm lượng chế biến sản phẩm của nông nghiệp để tăng giá trị của chúng, mở rộng thị trường cho chúng. Hiện đại hoá là quá trình liên tục nâng cao trình độ khoa học, kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất và đời sống ở nông thôn, cải thiện tổ chức sản xuất và hoàn thiện đời sống ở nông thôn, tạo ra một nền sản xuất trình độ ngày càng cao, cuộc sống ngày càng văn minh, tiến bộ. Hiện đại hoá nông thôn không chỉ bao gồm công nghiệp hoá, nâng cao trình độ kỹ thuật - công nghệ và tổ chức trong các lĩnh vực khác của sản xuất vật chất ở nông thôn mà con bao gồm cả việc không ngừng nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội hệ thống giáo dục đào tạo y tế, các dịch vụ phục vụ đời sống khác ở nông thôn.Về bản chất, hiện đại hoá là quá trình phát triển toàn diện có kế thừa ở nông thôn. Hiện đại hoá hoàn toàn không có nghĩa là xoá bỏ toàn bộ những gì đã tạo dựng trong quá khứ cũng không có nghĩa là phải đưa toàn bộ công nghệ, thiết bị tiên tiến và hiện đại vào nông thôn ngay một lúc mà là tận dụng, cải tiến, hoàn thiện từng bước nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật - công nghệ, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp lên ngang tầm với trình độ thế giới. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá có liên quan mật thiết với nhau, chúng tương tác với nhau, sự khácnhau giữa chúng chỉ mang tính tương đối, vì chúng có nội dung đan xen vào nhau, bổ sung cho nhau để mục đích cuối cùng là đưa kinh tế nông thôn phát triển đi lên ngang tầm với thế giới. 2. Tại sao phải tiến hành công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn Nước ta đi từ xã hội phong keíen phát triển đi thẳng lên chế độ xã hội chủ nghĩa mà không qua chế độ tư bản chủ nghĩa vì vậy cơ sở vật chất còn nghèo nàn lạc hậu, phương thức quản lý lỏng lẻo yếu kém. Nhiệm vụ quan trọng nhất bức thiết được đặt ra là phải xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của xã hội chủ nghĩa trong đó có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ quan trọng nói trên nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hoá tức là chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế công nghiệp. Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời gian quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá ở nước ta trước hết là quá trình thực hiện mục tiêu xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đó là một quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp thành một xã hội công nghiệp gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát điểm là nền nông nghiệp lạc hậu, bình quân ruộng đất thấp, 80% dân cư có mức thu nhập thấp, nghèo đói, sức mua hạn chế nếu không muốn nói là không thể mua nối hàng hoá cho tiêu dùng.Một đất nước sống dựa chủ yếu vào nông nghiệp lạchậu, canh tác trên ruộng đất nghèo nàn, cơ sở vật chất thô sơ, tự chế tạo là chính. Đời sống phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, lại bị chiến tranh và xã hội phong kiến tàn phá, Đảng và Nhà nước như bước lên từ con số không. Vì vậy nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hoá để tạo ra những điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực. Để không ngừng tăng năng suất lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Nhân tố trung tâm của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chính là người lao động. Con người đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá con người sáng tạo ra máy móc, bảo quản máy móc, con người luôn muốn nâng cao trình độ của mình hay là nâng cao chất lượng của lực lượng sản xuất. Nhưng để biến đổi về chất lực lượng sản xuất là một điều vô cùng khó khăn mà không dễ gì thực hiẹn được, nhưng quá trình công nghiệp hoá lại tạo ra cơ sở vật chất để làm biến đổi căn bản lực lượng sản xuất, nâng cao vai trò của lực lượng sản xuất nhờ đó cũng làm nâng cao vai trò của người lao động. Cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công chính là khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức. Nhưng khối liên minh này cần phải được củng cố và phát triển đi lên chứ không thể chỉ là khối ô hợp. Nền kinh tế tăng trưởng và phát triển là nhờ thành tựu công nghiệp hoá mang lại, là cơ sở kinh tế để càng gia cố vững chắc thêm khối liên minh. Ngoài ra quá trình công nghiệp hoá đã góp phần tăng cường quyền lực, sức mạnh và hiệu quả của bộ máy quản lý kinh tế của Nhà nước. Quá trình công nghiệp hoá tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ vững mạnh trên cơ sở đó mà thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế. Sự công nghiệp hoá đất nước thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội phát triển, thúc đẩy quá trình quy hoạch vùng lãnh thổ hợp lý theo hướng chuyên canh tập trung làm cho quan hệ kinh tế giữa các vùng các miền trở lên thống nhất cao hơn. Công nghiệp hoá không những có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng phát triển cao mà còn tạo tiền đề vật chất để xây dựng, phát triển và hiện đại hoá nền quốc phòng an ninh. Sự nghiệp quốc phòng và an ninh gắn liền với sự nghiệp phát triển văn hoá, kinh tế, xã hội. Thành tựu công nghiệp hoá tạo ra tiền đề kinh tế cho sự phát triển đồng bộ về kinh tế - chính trị, văn hoá xã hội, quốc phòng và an ninh. Thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân là nhân tố quyết định sự thắng lợi của con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Chính vì vậy mà công nghiệp hoá kinh tế được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 3. Nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn nước ta Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, thực tiễn cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ trước hết là nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng hiệuq ủa, sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá trên thị trường. Ngoài ra công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp cũng chính là phát triển lực lượng sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.Trên cơ sở thực hiện cơ khí hoá nền sản xuất xã hội và áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết là quá trình cải biến lao động thủ công lạchậu thành lao động sử dụng máy móc tức là phải cơ khí hoá nền kinh tế quốc dân. Nền nông nghiệp với kỹ thuật thủ công, lao động chân tay thì không thể gọi là nền nông nghiệp phát triển được, nhất là nền nông nghiệp đó lại phải gánh trên vai cả một nền kinh tế. Nông nghiệp lạc hậu làm cho đời sống của nhân dân nghèo đói bởi kinh tế Việt Nam sống dựa chủ yếu vào nông nghiệp, 80% dân cư làm nông nghiệp đã khiến cho đất nước càng ngày càng thụt lùi không phát triển. Bởi vậy Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra mục tiêu là phải chuyển đổi căn bản từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp hoá. Nhưng cách mạng công nghiệp không chỉ là chuyển đổi cơ cấu thủ công sang cơ khí mà phải gắn liền với điện khí hoá và tự động hoá sản xuất từng nước và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Ngoài ra thị trường cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng trong lĩnh vực tiêu thụ hàng hoá nông sản phẩm. Vì vậy phải thúc đẩy hình thành và mở rộng các loại thị trường bao gồm thị trường sản phẩm, ngoài ra còn phải có các loại thị trường như thị trường vốn, lao động, công nghệ. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, xây dựng nền dân chủ công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ở nông thôn. Đất nước ta phần lớn là lao động trong nông nghiệp cơ cấu khu vực I quá lớn trong khi đó khu vực II lại quá nhỏ bé. Lao động trong nông nghiệp dư thừa thường không biết làm gì dẫn đến lãng phí tài nguyên con người. Vì vậy mục tiêu chính quan trọng nhất là phải thu hẹp lực lượng sản xuất trong nông nghiệp bằng cách đưa máy móc thiết bị vào thay thế một số vị trí lao động của con người. Máy móc hiện đại làm tốn ít nhân lực hơn, con người lao động cũng được giám bắt khối lượng công việc từ đó tăng nhanh lực lượng lao động của các ngành công nghiệp và dịch vụ. Các số liệu thực tiễn phản ánh tình hình thực tiễn CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn hiện nay. Nông nghiệp đã phát triển nhanh về sản lượng, đặc biệt là lương thực, nhưng chất lượng nông sản còn thấp, khả năng cạnh tranh yếu, hiệu quả thấp. Từ năm 1981 đến nay, nông nghiệp đã phát triển với nhịp độ bình quân 4,5% năm là tốc độ khá cao. Ngoài ra đã hình thành nên các vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh tập trung như: lúa, cao su, cà phê, điều, mía, rau quả, lợn, bò, tôm, cá nhưng nhìn chung sản xuất còn phân tán, quy mô sản xuất hộ gia đình còn nhỏ. Hiện nay cả nước có gần 10 triệu hộ gia đình nông sân với đất nông nghiệp bình quân 0,8 ha/hộ. Đến nay tốc độ tăng trưởng nông nghiệp vào khoảng 4,5% - 5% tốc độ phát triển kinh tế nông thôn từ10-12%, GDP bình quân đầu người 400 USD, lương thực 35-36 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu khoảng 10 tỷ USD, tạo việc làm hàng năm 800ng/người, số xã có đường ô tô đến xã 100, số xã có điện chiếm khoảng 90%, số xã có trạm xá 100%, số xã có trường học 100%, số hộ có nước sạch để tiêu dùng vào khoảng 90%, Để hoàn thành các công trình thuỷ lợi để đảm bảo tưới cho gần 6 triệu ha lúa, 1 triệu ha rau màu và cây công nghiệp, giải quyết cơ bản yêu cầu về nước tưới và thoát lũ cho vùng ngập lũ, ngọt hoá các vùng đất mặn ở đồng bằng sông Cửu Long. Đã duy tu và nâng cấp 6000 km đường cấp huyện, hỗ trợ nâng cấp gần 6000 km đường xã hiện có, xây dựng mới khoảng 6500 đường tới các trung tâm xã hiện có đường ô tô, xây dựng cải tạo 4000 cầu cống. Tỷ lệ cơ giới hoá các khâu nặng nhọc như làm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxKTCT30.docx
Tài liệu liên quan