Văn hóa với tiềm năng hoạt động sáng tạo của con người -2

Mỗi nền văn hoá đều có những hình mẫu nền tảng xác định đặc điểm của sự

nhìn nhận, sự suy tư và phương thức thâm nhập vào hiện tượng cũng như

bản chất sự vật. Trong mỗi thời đại, các hình mẫu đó lại có những đặc điểm

khác nhau. Do quen tiếp nhận những hình mẫu và phong cách chiếm hữu thế

giới bằng con mắt của văn hoá hiện đại, với bộ máy tư duy phát triển, với

phương thức nhận thức khoa học tinh tế, với sự phân tích tâm lý chính xác,

chúng ta thấy dường như những hình thức văn hoá trước đó là thiếu hoàn

thiện. Nhưng trên thực tế, khi chưa có phương thức thâm nhập thế giới với

bộ máy tư duy hoàn thiện, văn hoá Trung Hoa cổ đại hay văn hoá châu âu

trung cổ đã đạt tới những đỉnh cao trong các lĩnh vực toán học, thơ ca và

những hệ thống triết học sâu sắc. Đương nhiên, chúng ta khó có thể bác bỏ

một sự thật là, sự hiểu biết thế giới vật chất trong vật lý học Châu Âu thế kỷ

XX sâu sắc hơn vật lý học cổ đại Hy Lạp. Sự khám phá các phản ứng hạt

nhân trong vật lý học cổ đại Hy Lạp là điều không thể có được. Nhưng điều

đó chỉ nói lên rằng, khả năng của khoa học -kỹ thuật trong thời đó là có hạn.

Ý chí sáng tạo và nỗ lực trí tuệ phi thường của con người trong khát vọng

khám phá thế giới không thể khắc phục đượchạn chế của khoa học -kỹ

thuật ở các nền văn hoá đó. Lui đơ Brôi khi nêu lên đặc tính phát triển của tư

tưởng khoa học trước thế kỷ XVIII đã viết: ".Khi không hiểu khái niệm

vector, không hiểu các phương pháp đại số học và lượng giác thì người ta

khôngthể có khả năng phân tích những vật thể vô cùng nhỏ bé, những yếu

tố như những phương tiện, nền móng cho sự quan sát và thực nghiệm để tìm

ra những chân lý sơ đẳng, để cuối cùng người ta cải tạo quan niệm của mình

về thế giới và toàn bộ nền sản xuất”.

pdf7 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1134 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Văn hóa với tiềm năng hoạt động sáng tạo của con người -2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Văn hóa với tiềm năng hoạt động sáng tạo của con người -2 Mỗi nền văn hoá đều có những hình mẫu nền tảng xác định đặc điểm của sự nhìn nhận, sự suy tư và phương thức thâm nhập vào hiện tượng cũng như bản chất sự vật. Trong mỗi thời đại, các hình mẫu đó lại có những đặc điểm khác nhau. Do quen tiếp nhận những hình mẫu và phong cách chiếm hữu thế giới bằng con mắt của văn hoá hiện đại, với bộ máy tư duy phát triển, với phương thức nhận thức khoa học tinh tế, với sự phân tích tâm lý chính xác, chúng ta thấy dường như những hình thức văn hoá trước đó là thiếu hoàn thiện. Nhưng trên thực tế, khi chưa có phương thức thâm nhập thế giới với bộ máy tư duy hoàn thiện, văn hoá Trung Hoa cổ đại hay văn hoá châu âu trung cổ đã đạt tới những đỉnh cao trong các lĩnh vực toán học, thơ ca và những hệ thống triết học sâu sắc. Đương nhiên, chúng ta khó có thể bác bỏ một sự thật là, sự hiểu biết thế giới vật chất trong vật lý học Châu Âu thế kỷ XX sâu sắc hơn vật lý học cổ đại Hy Lạp. Sự khám phá các phản ứng hạt nhân trong vật lý học cổ đại Hy Lạp là điều không thể có được. Nhưng điều đó chỉ nói lên rằng, khả năng của khoa học - kỹ thuật trong thời đó là có hạn. Ý chí sáng tạo và nỗ lực trí tuệ phi thường của con người trong khát vọng khám phá thế giới không thể khắc phục được hạn chế của khoa học - kỹ thuật ở các nền văn hoá đó. Lui đơ Brôi khi nêu lên đặc tính phát triển của tư tưởng khoa học trước thế kỷ XVIII đã viết: "...Khi không hiểu khái niệm vector, không hiểu các phương pháp đại số học và lượng giác thì người ta không thể có khả năng phân tích những vật thể vô cùng nhỏ bé, những yếu tố như những phương tiện, nền móng cho sự quan sát và thực nghiệm để tìm ra những chân lý sơ đẳng, để cuối cùng người ta cải tạo quan niệm của mình về thế giới và toàn bộ nền sản xuất”. Chúng ta không thể trách cứ các nhà khoa học, các nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại rằng họ không biết phân tích vi vật thể và do đó, họ không làm được những gì lớn hơn điều họ cần làm. Bởi trình độ khoa học và do đó, thế giới quan của họ được xây dựng trên trình độ và đặc điểm văn hoá thời đó. Sẽ là vô nghĩa nếu nói rằng, lý thuyết của Arixtốt về sự rơi tự do của vật thể là đúng đắn, còn lý thuyết của ông về sự bay lên của vật nhẹ là sai lầm. Những tri thức về thế giới mả người Hy Lạp tổng kết được đã phản ánh trực tiếp hình thức văn hoá và trình độ cảm nhận thế giới một cách độc đáo của văn hoá cổ đại Hy Lạp. "Đó là một thế giới luôn thay đổi, A.C.Lôxép viết: có thể sờ mó được, nó tồn tại như một cơ thể sống, nó ảnh hưởng tới bất cứ một sự tồn tại nào khác về sau. Đó không phải gì khác ngoài vũ trụ vật chất, cảm giác và vũ trụ sống, là vật thể luân hồi vĩnh cửu, nó nảy sinh từ cái hỗn mang rồi chuyển thành cái hài hòa, cái độ, nhịp điệu, trở thành đại lượng phát triển lên, hoà lặng rồi lại đi tới tan vở, phá đi cái kết cấu hài hoà ban đầu để rồi lại đi đến thế hỗn mang". Với cảm quan vũ trụ như vậy, triết học Hy Lạp cổ đại đã vẽ nên bức tranh thế giới mà ở đó, lửa là sự sống chân chính, sự hình thành nên thế giới đó cũng là sự lắng đọng của lừa như là yếu tố đầu tiên thống nhất, như cái toàn vẹn vũ trụ, ở đó không hề có ranh giới giữa các chu kỳ tự nhiên và con người, giữa thế giới vĩ mô và vi mô, ở đó tất cả do một nhịp điệu thống nhất điều chỉnh, một sự hài hoà tồn tại thông qua các mâu thuẫn vĩnh hằng. Phép biện chứng đã được sinh ra trên nguyên tắc đó như một phương pháp tư duy mới. Và điều đó dẫn Đêmôcrít tới tư tưởng về tính đa trị của các cá thể trong thế giới, tới quan niệm về tính hỗn mang, tính ngẫu nhiên của tất cả những gì tự sinh ra và tự diệt vong, và cuối cùng là thuyết nguyên tử và chân không. Mỗi nền văn hoá cũng hình thành nên tri thức về quan hệ giữa các sự vật trong thế giới. Nhờ sự quan sát trực tiếp các mối quan hệ trong thế giới sự vật, nên lối tư duy trong văn hoá Hy Lạp cổ đại là hết sức mềm dẻo, nó có sự hỗ trợ của trực giác, của tư duy hình học và của sự khám phá cơ chế bên trong, do đó trong hội họa, nguyên tắc phối cảnh đường thẳng chiếm ưu thế. Không phải ngẫu nhiên mà Averinxép nói rằng, thuật xem tướng dựa vào hình dạng và sụ thể hiện nét mặt để biết tính cách và số phận con người trở thành khoa học phổ biến thời cổ đại và trung đại, giống như vật lý học Niutơn trong thời đại ánh sáng. Sự nhìn nhận sự vật qua những hình ảnh độc đáo, qua những lực đấu tranh với nhau, thậm chí qua các nguyên tử đó là đặc điểm của hình thức văn hoá, thể hiện khả năng sáng tạo phi thường của con người thời đại đó. Tri thức Châu Âu Thời mới, về nguyên tắc, được hình thành trên sự quan sát thực nghiệm của các mối quan hệ nhân quả để từ đó khẳng định bản chất sự vật. Sự vật được nhìn nhận như sự giao thoa giữa nguyên nhân và kết quả, giữa cấu trúc bên trong bí ẩn và hình thức sống động bên ngoài, như là biểu tượng và cuối cùng là sự thể hiện một trật tự thế giới bậc cao, sự thể hiện bản thân tồn tại. Trong văn hoá Thời mới xuất hiện khái niệm "hình thức không gian thuần tuý của sự vật như là hình ảnh có giới mặn mà đó, tính tư tưởng thuần tuý vượt qua tính tương đối của các ấn tượng chủ quan. Cái thực tiễn thuần tuý tư tưởng của khoa học giờ đầy được gia tăng thêm tính thực tiễn hiện thực. Trong cái thực tiễn đó, khoa học đạt tới độ chính xác, bởi nó có khả năng xác định các hình ảnh về sự vật trong tính đồng nhất tuyệt đối. Điều đó mở ra khả năng tái tạo những giá trị có ý nghĩa phổ quát từ các phương pháp cảm nhận đơn nghĩa. Từ cái đa dạng không xác định của các hình ảnh trực quan có tính thực nghiệm, khoa học vẽ nên bức tranh thế giới khách quan trong nghĩa rộng của nó. Sự định lượng các phẩm chất chủ quan, như nhiệt độ, âm thanh, màu sắc... được hình thành và trở thành đối tượng nghiên cứu. Với tri thức khoa học mới đồ hệ thống nhận thức cảm tính truyền thống bị phá vỡ và được thay thế bằng các phương pháp tính toán vật lý, hoá học lý tưởng. Thời hiện đại đem lại một thế giới tri thức khoa học với nhiều nét khác biệt. Vật chất ở đây không còn "mỉm cười" với con người bằng ánh mắt lấp lánh của nó nữa, không còn cái nhìn thuần tuý cảm tính đối với thế giới sự vật, cũng không còn những hình ảnh trực quan đầy kinh ngạc về thế giới nhiều màu sắc. M.Born viết: " Thực chất của khoa học nằm trong sự thiết lập các mối quan hệ khách quan giữa những kết quả do kinh nghiệm của hai hay nhiều loại cảm giác khác nhau tạo ra và đặc biệt là mối tương quan của sự cân bằng. Những mối tương quan đó có thể được các nhà thực nghiệm ở nhiều lĩnh vực khác nhau khái quát và kiểm tra. Chỉ sử dụng những khẳng định có ý nghĩa, chúng ta cũng có thể có được bức tranh khách quan về thế giới, dù đó là bức tranh không màu sắc. Trong bức tranh đó luôn chứa đựng đặc tính của một phương pháp khoa học". Với phương pháp khoa học đó, khi bỏ đi màu sắc trực quan, chúng ta sẽ có được những thành tựu khoa học vĩ đại, nhất là những khám phá to lớn trong khoa học tự nhiên và tiến tới đỉnh khải hoàn của tinh thần nhân loại chân chính. Những khám phá vĩ đại ngày càng nhiều và chúng tạo ra những bước nhảy khổng lồ trong sự phát triển kỹ thuật, công nghệ, tiến tới sự chiếm lĩnh cái mới, mở ra những chân trời tri thức mới. Những hình thức và phương pháp nhận thức, thuộc tính của một hình thức văn hoá nhất định, chín muồi và được kết tinh lại, những truyền thống trở thành sức mạnh tiềm tàng trong hoạt động sáng tạo và do vậy, trong cùng một lúc nó có thể thức tỉnh nhiều nhà sáng tạo cùng hình thành một tư tưởng lớn. Các lĩnh vực văn hoá thâm nhập vào nhau, phụ thuộc lẫn nhau và chính sự chiếm lĩnh các kết quả tiềm ẩn của chúng đã đem lại hiệu quả lớn trong hoạt động sáng tạo. Tất cả những tư tưởng độc đáo, những giả thuyết được hình thành trong một hình thức văn hoá nhất định sẽ không bao giờ mất hết dấu vết. Trong tâm thức nhà khoa học, nhà nghệ thuật, nhiều hình thức văn hoá bị lắng xuống thì giờ đây, lại bừng lên và thôi thúc tính tích cực sáng tạo. Tư tưởng của Hêgen về "chân lý vô tận" hầu như đã bị lãng quên hàng trăm năm lại bừng lên trong giả thuyết "không gian cong" của Anhxtanh, tư tưởng "nhiều tầng lớp, lớp này nằm trong lớp kia" trong "thuyết đơn tử" của Lépnít ngày nay lại trở thành vấn đề tranh luận của các nhà vật lý thiên văn nhằm làm rõ thêm cấu trúc của các siêu thiên hà. Từ thiên nhiên thứ hai, chúng ta sống, hoạt động, rồi lại nhìn thấy thế giới xung quanh qua khúc xạ của nó qua ngôn ngữ, hình thức và chuẩn mực tư duy, qua hoạt động thực tiễn và các phương thức, thủ pháp nhận thức khoa học. Những tầng lớp tri thức, tình cảm tạo thành tiềm năng trí tuệ, phương pháp tư duy, tiềm năng sáng tạo ăn sâu vào máu thịt của từng con người và chúng được đem lại dường như tự nhiên từ nhiều thế kỷ. Theo C.Mác, "không chỉ năm giác quan bên trong, mà còn cả những tình cảm tinh thần, cái mà ta gọi là ý chí và tình yêu... tóm lại, tình cảm của con người, tính người của tình cảm chỉ nẩy sinh nhờ sự hiện hữu của các đối tượng tương ứng, nhờ giới tự nhiên đã được người hoá". Rõ ràng, bản thân chúng ta, tri thức, trí tuệ, tư duy và tình cảm của chúng ta chính là sản phẩm của văn hoá, sản phẩm của toàn bộ tiềm năng sáng tạo kết tụ trong mỗi nền văn hoá và toàn bộ văn hoá loài người. Chiếm lĩnh văn hoá là con đường và phương pháp tối ưu trong chiến lược xây dựng và phát triển con người nói chung, phát triển năng lực hoạt động sáng tạo của cá nhân nói riêng đối với nền giáo dục đào tạo của chúng ta hiện nay. Chiếm lĩnh văn hoá không đơn thuần là nắm lấy toàn bộ tri thức, kinh nghiệm, phương thức hoạt động hay nguyên tắc tư duy. Vấn đề quan trọng là phải biến tri thức, kinh nghiệm văn hoá thành phẩm chất và sức mạnh bên trong, thành tính tích cực gợi mở và phát huy cách suy nghĩ cách hành động sáng tạo của mỗi con người trong cuộc sống. Sự nghiệp giáo dục đào tạo những con người tích cực và sáng tạo cần phải theo hướng vươn tới cái bên trong của văn hoá, tới sự thức tỉnh con người vươn tới khát vọng chiếm lĩnh nghề nghiệp và sự nghiệp đó có thể là sự tìm tòi khoa học trừu tượng, cũng có thể là công việc cụ thể trên cỗ máy, nhưng vấn đề là phải phù hợp với tính quy luật của văn hoá đối với sự phát triển con người, trong đó sự phát triển của từng cá nhân là đặc biệt quan trọng. Theo Ph.T. Mikhailốp, "trong tâm lý cá nhân không hề có một hiện tượng quyết định luận nào bởi tồn tại xã hội mà không đồng thời có tính quyết định sâu sắc của cá nhân". Vì vậy, về nguyên tắc, cá nhân chỉ có thể trở thành người có năng lực sáng tạo khi hình thức văn hoá trở thành cái tự xác định bên trong, trở thành phong cách sống và phương thức hoạt động của anh ta. Điều có ý nghĩa quan trọng đối với giáo dục - đào tạo là xây dựng được hệ thống và nội dung phù hợp, có khả năng tác động mạnh mẽ đến cội nguồn sâu xa nhất của thế giới bên trong con người. Vấn đề chiếm lĩnh văn hoá với tư cách là vấn đề giáo dục đào tạo nhầm trang bị năng lực sáng tạo gắn bó chặt chẽ với vấn đề phát triển cá nhân toàn năng. Theo yêu cầu hiện nay, mỗi cá nhân với tư cách chủ thể sáng tạo không chỉ là người có trình độ điêu luyện trong một lĩnh vực chuyên môn hẹp. Bất kỳ nhà sáng tạo nào cũng phải là một nhà chuyên môn tất, nhưng không phải bất cứ nhà chuyên môn tất nào cũng là nhà sáng tạo. Và do vậy, nhà sáng tạo khoa học, nghệ thuật cần phải là những cá nhân phát triển toàn năng, phải hiểu kết cấu, tri thức khoa học, ngôn ngữ của nghệ thuật, những đặc điểm kỹ nghệ, kết cấu các quan hệ không gian trong kiến trúc, phong cách, lối sống xã hội... Một phẩm chất toàn năng như vậy là điều cần thiết cho sự vươn tới thực hiện khát vọng của cá nhân trong bất kỳ hoạt động nào, tạo khả năng cho con người tìm tòi cách giải quyết năng động, hiệu quả những vấn đề mới lạ và mọi tình huống phức tạp trong cuộc sống. Sự phát triển chất toàn năng đó chỉ đạt kết quả thông qua sự chiếm lĩnh văn hoá toàn nhân loại, nơi chứa đựng mọi tri thức, trí thông minh, óc sáng tạo, các mô hình tư duy, mô hình sống hết sức sinh động và phong phú... Chiếm lĩnh văn hoá nhân loại, chuyển văn hoá nhân loại, kho tiềm năng sáng tạo loài người thành kho tiềm năng sáng tạo bên trong của mỗi cá nhân, đó là công việc hàng ngày và suất cả mỗi cuộc đời. Nguyễn Văn Huyên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfvan_hoa_voi_tiem_nang_hoat_dong_sang_tao_2_6512.pdf