Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân

Một trong những đặc trưng của nhà nước là mối liên hệ mật thiết với pháp quyền.

pháp quyền là hình thức điều tiết hành vi của con người, là tổng thể những chuẩn

mực hành vi do nhà nước đặt ra và chuẩn y nhằm duy trì trật tự kinh tế, chính trị,

xã hội và những trật tự khác có trong xã hội, đó là ý chí của giai cấp thống trị được

nâng lên thành luật. Trong chế độ công xã nguyên thuỷ không có pháp quyền. Trật

tự đời sống xã hội thời kỳ này được duy trì bằng sức mạnh của tập quán, truyền

thống, uy tín, tinh thần của trưởng lão thị tộc đại diện cho lợi ích chung của các

thành viên. Khi xã hội phân chia thành giai cấp, những lợi ích đối lập nhau xuất

hiện, tập quán, truyền thống, uy tín không thể điều tiết được hành vi của con

người, mà chỉ có pháp quyền

pdf15 trang | Chia sẻ: maiphuongzn | Lượt xem: 1167 | Lượt tải: 3download
Nội dung tài liệu Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân 1. Pháp quyền và nhà nước pháp quyền Một trong những đặc trưng của nhà nước là mối liên hệ mật thiết với pháp quyền. pháp quyền là hình thức điều tiết hành vi của con người, là tổng thể những chuẩn mực hành vi do nhà nước đặt ra và chuẩn y nhằm duy trì trật tự kinh tế, chính trị, xã hội và những trật tự khác có trong xã hội, đó là ý chí của giai cấp thống trị được nâng lên thành luật. Trong chế độ công xã nguyên thuỷ không có pháp quyền. Trật tự đời sống xã hội thời kỳ này được duy trì bằng sức mạnh của tập quán, truyền thống, uy tín, tinh thần của trưởng lão thị tộc đại diện cho lợi ích chung của các thành viên. Khi xã hội phân chia thành giai cấp, những lợi ích đối lập nhau xuất hiện, tập quán, truyền thống, uy tín không thể điều tiết được hành vi của con người, mà chỉ có pháp quyền. Xã hội có giai cấp không thể tồn tại, nếu không thể chế hoá bằng pháp quyền các mối quan hệ sở hữu, gia đình, hôn nhân và các quan hệ khác. Thông qua pháp quyền được trình bày dưới hình thức luật, nhà nước thực hiện chức năng lập pháp. Lịch sử xã hội loài người từ trước đến nay có bốn kiểu nhà nước có liên hệ mật thiết với pháp quyền là nô lệ, phong kiến, tư sản và vô sản. nhà nước pháp quyền mà chúng ta quan niệm không phải là một kiểu nhà nước gắn liền với một giai cấp như nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản, xã hội chủ nghĩa, mà là một hình thức tổ chức nhà nước, một trình độ phát triển của nhà nước về phương diện tổ chức quyền lực để bảo đảm Hiến pháp và pháp luật giữ địa vị tối cao. nói một cách khái quát là, hệ thống các tư tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật. Đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền bao gồm: Trước hết, sự đảm bảo tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội, trong đó pháp luật phải phản ánh ý chí chung của nhân dân và lợi ích chung của xã hội. Thứ hai, Nhà nước thực hiện và bảo vệ các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá của công dân. Pháp luật chỉ cấm những gì có hại cho xã hội. Công dân được tự do làm những gì pháp luật không cấm. Thứ ba, nhà nước và nhân dân bảo đảm trách nhiệm lẫn nhau, có quan hệ mật thiết và ràng buộc lẫn nhau về quyền và nghĩa vụ do pháp luật điều chỉnh. Bảo đảm đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân là trách nhiệm của Nhà nước. Nhà nước chịu trách nhiệm trước công dân về những hoạt động của mình và công dân chịu trách nhiệm trước Nhà nước về những hành vi vi phạm pháp luật của mình. Thứ tư, Nhà nước pháp quyền phải có hình thức tổ chức quyền lực thích hợp để thực hiện hữu hiệu việc xây dựng hệ thống pháp luật, giám sát sự tuân thủ pháp luật, xử lý các vi phạm pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm minh. Hiện nay trên thế giới, dựa trên các nguyên tắc và các đặc trưng của nhà nước pháp quyền, một quốc gia, dân tộc xây dựng và phân công quyền lực nhà nước riêng của mình xuất phát từ điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử và truyền thống dân tộc. Không thể có một “mô hình kiểu mẫu” duy nhất của nhà nước pháp quyền, bắt buộc các dân tộc phải tuân theo. 2. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập Nhà nước Cộng hoà dân chủ Việt Nam, người trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật của nước Việt Nam mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước dân chủ, trong đó pháp quyền được đề cao đã xuất hiện sớm. Trong bài “Việt Nam yêu cầu ca” đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Người đã coi trọng vai trò của pháp quyền: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh thể hiện ở các nội dung cơ bản sau: Trước hết, nhà nước Việt Nam phải là nhà nước dân chủ triệt để. Đó là nền dân chủ đề cao nhân dân, nhân dân là chủ thể, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, được thực hiện triệt để cả dân chủ đại diện và trực tiếp. Để bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh coi chuyên chính là cái để giữ cho quyền dân chủ đó. Người cho rằng chế độ nào cũng có chuyên chính, vấn đề là ai chuyên chính ai, vì lợi ích của đa số hay thiểu số. Thứ hai, nhà nước pháp quyền Việt Nam là nhà nước pháp quyền hợp hiến, hợp pháp. Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3.9.1945, Người đề ra hai nhiệm vụ liên quan tới xây dựng nhà nước pháp quyền là: tổ chức Tổng tuyển cử và Xây dựng Hiến pháp để xác lập nền tảng dân chủ và nhà nước hợp hiến, hợp pháp ở Việt Nam. Thứ ba, hệ thống pháp luật ở Việt Nam là hệ thống pháp luật dân chủ, tiến bộ, hướng tới các giá trị nhân văn. Hồ Chí Minh cho rằng pháp luật của ta là pháp luật dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do rộng rãi của nhân dân lao động. Muốn vậy, nhà nước phải thực sự của dân, chăm lo tới lợi ích của nhân dân. Thứ tư, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là công cụ bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ và phát triển quyền con người. Quyền con người của tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm quyền tự do cá nhân, quyền bình đẳng giữa các dân tộc trên thế giới, độc lập dân tộc và giải phóng con người. Như vậy, tư tưởng nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh rất phong phú, nhất quán và những tư tưởng ấy đã được Đảng ta vận dụng, phát triển để xây dựng nhà nước pháp quyền trong quá trình đổi mới đất nước. Tư tưởng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta khẳng định trong quá trình đổi mới có cơ sở tư tưởng dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền trong lịch sử, đặc biệt là nền dân chủ tư sản và tư tưởng dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh. nhận thức về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được thể hiện qua các Văn kiện của Đảng trong công cuộc đổi mới như sau: Đại hội lần thứ VI của Đảng đã dứt khoát từ bỏ mô hình kinh tế phi hàng hoá, phi thị trường, mô hình kinh tế tập trung bao cấp và chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Sự chuyển hướng ấy đã đặt ra yêu cầu chúng ta cần nhận thức rõ hơn vai trò của pháp luật và phải “quản lý xã hội bằng pháp luật, chứ không phải bằng đạo lý”. Đại hội lần thứ VII của Đảng tuy chưa nêu lên khái niệm nhà nước pháp quyền nhưng đã xác định rằng “tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước theo phương hướng: Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng; tổ chức hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện thống nhất quyền lực nhưng phân công, phân cấp rành mạch; bộ máy tinh giảm, gọn nhẹ và hoạt động có chất lượng cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật quản lý”(1). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CHXH do Đại hội VII của Đảng thông qua, đã xác định rằng: “toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”. “Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công dân và quyền con người, quyền đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm”(2). Đến đại hội giữa nhiệm kỳ khoá VII, nhận thức mới của Đảng ta về nhà nước pháp quyền khá toàn diện và cụ thể. Hội nghị khẳng định tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam, đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Như vậy, lần đầu tiên trong văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam dùng khái niệm nhà nước pháp quyền Việt Nam, đồng thời chỉ ra những nguyên tắc, đặc trưng của nó, đánh dấu bước tiến rõ nét trên con đường nhận thức về nhà nước pháp quyền nước ta. Hội nghị Trung ương 8 khoá VII đã ra nghị quyết về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam, trọng tâm là cải cách hành chính nhà nước và đã nêu lên năm quan điểm cơ bản cần nắm vững trong quá trình xây dựng và kiện toàn nhà nước: Thứ nhất, xây dựng nhà nước XHCN của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân; Thứ hai, quyền lực của nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; Thứ ba, quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của nhà nước; Thứ tư, tăng cường pháp chế XHCN, quản lý xã hội bằng pháp luật đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức XHCN; Thứ năm, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước(3). Đó là năm quan điểm cơ bản đã được khẳng định trong Văn kiện Đại hội VII. Hội nghị Trung ương 3 khoá VIII (6.1997) có nhận xét rằng, trong quá trình đổi mới, Đảng ta “đã từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do dân, vì dân”. Đồng thời khi phân tích nguyên nhân những yếu kém, hội nghị đã nêu lên một số vấn đề có tính phương pháp luận: “Việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng ta còn ít, có nhiều việc phải vừa làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm”. Nghị quyết khẳng định tiếp tục thực hiện nghị quyết Trung ương 8 khoá VII và nhấn mạnh ba yêu cầu là tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước. Đại hội IX chỉ rõ: Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp(4). Từ thực tiễn nhận thức và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, ta có thể rút ra những đặc trưng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam như sau: - Thứ nhất, nhà nước pháp quyền là nhà nước phải có hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, chất lượng cao, thể hiện được ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội, trong đó Hiến pháp và các đạo luật phải giữ địa vị tối cao. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước và mọi thành viên trong xã hội phải tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. - Thứ hai, nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua hình thức dân chủ đại diện (do cơ quan nhà nước do mình bầu ra) và hình thức dân chủ trực tiếp. - Thứ ba, nhà nước pháp quyền là nhà nước thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế trong xã hội, xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật, bảo đảm thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do và lợi ích chính đáng, hợp pháp của công dân, chịu trách nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của mình. Nhà nước tôn trọng và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã cam kết: - Thứ tư, nhà nước pháp quyền là nhà nước tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, và tư pháp, nhằm hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền, xâm hại tới lợi ích hợp pháp của công dân từ phía nhà nước. - Thứ năm, nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đồng thời đảm bảo sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận. Bản chất nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hành đều ở nơi dân, mọi quyền lực nhà nước có được đều do nhân dân uỷ quyền. Bản chất này được quy định một cách khách quan từ cơ sở kinh tế và chế độ chính trị của CNXH. Sự khác biệt về bản chất ấy so với các nhà nước bóc lột biểu hiện bản chất giai cấp, tính dân tộc, tính nhân dân của nhà nước, chúng hoà quyện vào nhau. Xuất phát từ lý luận duy vật lịch sử và thực tiễn, ai cũng có thể nhận thấy rằng bất kỳ nhà nước nào cũng là nền chuyên chính của giai cấp thống trị. Giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế sẽ nắm quyền thống trị về chính trị thông qua bộ máy nhà nước của mình. Trong chế độ ta, giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo xã hội. Vì vậy, nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân, được thể hiện ở toàn bộ hoạt động của nhà nước từ pháp luật, cơ chế, chính sách, đến nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước, nhằm từng bước thực hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phục vụ lợi ích giai cấp, nhân dân lao động và cả dân tộc. Lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc là thống nhất. Sự thống nhất ấy bắt nguồn từ bản chất của cách mạng XHCN do giai cấp công nhân lãnh đạo. Vì vậy, nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân, đồng thời cũng gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc, tính nhân dân. Bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc và tính nhân dân hoà quyện vào nhau, được quán triệt, cụ thể hoá, thể chế hoá trên mọi lĩnh vực, mọi tổ chức, mọi hoạt động của nhà nước. Và cũng chỉ có nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo mới đại biểu cho lợi ích chung của nhân dân lao động, của dân tộc. Tính nhân dân thể hiện ở chỗ nhà nước là của dân, quyền lực thực sự ở nơi dân, chính quyền do dân lập nên và tham gia quản lý; nhà nước thể hiện ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân; cán bộ công chức nhà nước là công bộc của dân. Tính dân tộc của nhà nước được thể hiện ở chỗ, tổ chức và hoạt động của nhà nước ta kế thừa và phát huy những truyền thống, bản sắc tốt đẹp của dân tộc và con người Việt Nam. Nhà nước có chính sách dân tộc đúng đắn, chăm lo lợi ích mọi mặt cho các dân tộc trong cộng đồng người Việt Nam và thực hiện đoàn kết dân tộc, coi “đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân là đường lối chiến lược và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ tổ quốc; giữ vững quan điểm của Đảng về độc lập, tự chủ trong quan hệ đối ngoại; kết hợp đúng đắn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân”. 3. Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam theo tinh thần Đại hội Đảng lần thứ X Phương hướng tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân đã được Đại hội Đảng lần thứ X chỉ rõ: “Xây dựng cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực của nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”(5). Nhiệm vụ và giải pháp hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong những năm tới: Trước hết, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, tính hợp hiến và hợp pháp trong hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền. Thứ hai, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội: - Hoàn thiện cơ chế bầu cử để nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý đại biểu Quốc hội chuyên trách, phát huy tốt hơn vai trò của đại biểu và đoàn đại biểu Quốc hội. - Tổ chức lại một số uỷ ban của Quốc hội; nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội. - Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng luật, giảm mạnh ban hành pháp lệnh. - Thực hiện tốt hơn các nhiệm vụ quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao của Quốc hội. Thứ ba, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ: - Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại. - Luật hoá cơ cấu tổ chức của Chính phủ; tổ chức bộ máy quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bảo đảm hiệu lực, tinh gọn và hợp lý. Cơ cấu lại bộ máy Chính phủ theo hướng giảm mạnh các đầu mối phù hợp với yêu cầu đổi mới chức năng, nhiệm vụ. Cơ cấu lại các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước các cấp theo hướng giảm cấp phó, bỏ cấp trung gian, chuyển các bộ phận phục vụ sang hình thức hợp đồng dịch vụ, phân cấp mạnh cho cấp dưới và gắn với thực hiện có hiệu quả thanh tra, kiểm tra của cấp trên. Tăng cường quyền chủ động, tự chịu trách nhiệm về hoạt động, tổ chức, nhân sự, tài chính, bổ nhiệm chức danh người đứng đầu cấp dưới. Tách hoạt động hành chính với hoạt động sự nghiệp, các hoạt động công quyền với hoạt động dịch vụ. Thực hiện đầy đủ nguyên tắc công khai, dân chủ và phục vụ nhân dân đối với các cơ quan và công chức nhà nước. Thực hiện nghiêm ngặt chế độ công vụ trong các cơ quan nhà nước. - Nghiên cứu việc thành lập các cơ quan tài phán hành chính để giải quyết các khiếu kiện hành chính. - Thực hiện phân cấp mạnh, hợp lý cho chính quyền địa phương, nhất là trong việc quyết định ngân sách, tài chính, đầu tư, nguồn nhân lực, thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Trung ương. Thứ tư, đối với hệ thống các cơ quan tư pháp: - Xây dựng hệ thống các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. - Đẩy mạnh chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ; lấy cải cách hoạt động xét xử làm trung tâm; thực hiện cơ chế công bố gắn với hoạt động điều tra. - Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thứ năm, về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. - Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp. - Phát huy vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân. - Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân định lại thẩm quyền đối với chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo. Thứ sáu, về tổ chức bộ máy hành chính và hoạt động của cơ quan hành chính, cán bộ, công chức. - Thực hiện các giải pháp nhằm chấn chỉnh bộ máy và quy chế hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức. Ban hành và thực hiện luật công chức, công vụ; xác định rõ cơ quan, công chức nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Xây dựng đạo đức nghề nghiệp cho từng loại cán bộ, công chức và hệ thống tiêu chuẩn đánh giá, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức. - Cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức và đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu nâng cao chất lượng cả về năng lực và phẩm chất đạo đức. - Có cơ chế đưa ra khỏi bộ máy nhà nước những người kém phẩm chất và năng lực. Tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt động của bộ máy nhà nước, hành vi của các công chức. Trừng trị nghiêm khắc những hành vi phạm pháp, phạm tội, bất cứ ở cương vị, chức vụ nào. - Thực hiện chế độ trách nhiệm trong đề cử, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo theo hướng cấp trưởng giới thiệu cấp phó, cấp sử dụng trực tiếp giới thiệu để cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân là một quá trình nhận thức và kiểm nghiệm. Quá trình đó đòi hỏi chúng ta thường xuyên tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, kịp thời làm sáng tỏ những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Trên cơ sở đó, đẩy nhanh cải cách, hoàn thiện hệ thống thể chế, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, cán bộ nòng cốt, phương thức hoạt động... để chính quyền của dân, do dân và vì dân ngày càng phát huy tính ưu việt, phục vụ đắc lực mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh”. TS. Hoàng Đình Cúc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf124_3657.pdf
Tài liệu liên quan