Bài giảng Kinh tế quốc tế

Sau khi học xong chương này, học viên sẽ hiểu được những vấn đề về khái niệm và

các vấn đề liên quan đến nền kinh tế thế giới, nền kinh tế thế giới hiện đại và các quan

hệ kinh tế quốc tế. Từ đó, Học viên có thể nắm được các xu hướng vận động của nền

kinh tế thế giới hiện nay và liên hệ với thực tiễn nền kinh tế Việt Nam trong quá trình

phát triển kinh tế đối ngoại – một trong những mục tiêu quan trọng để phát triển kinh

tế - xã hội.

Mục tiêu cụ thể

Sau khi học xong Chương 1, Học viên sẽ:

- Nắm vững các khái niệm về nền kinh tế thế giới, quan hệ kinh tế quốc tế,.

- Hiểu được cơ cấu, cơ sở hình thành và phát triển, tính chất của nền kinh tế thế

giới, quan hệ kinh tế quốc tế

- Hiểu được khái niệm về các nước công nghiệp phát triển cao, các nước đang

phát triển và các nước chậm phát triển dưới góc độ môn học Kinh tế quốc tế.

- Nắm vững xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới liên hệ với các quan

điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước trong chiến lược phát triển kinh tế đối

ngoại, từ đó có thể đưa ra những khuyến nghị nhằm phát triển kinh tế đối ngoại,

phục vụ cho quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội quốc gia.

pdf80 trang | Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 858 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài giảng Kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường thế giới. - Hoạt động đầu tư quốc tế được thực hiện nhằm giải quyết các nhiệm vụ đặc biệt như xây dựng các công trình có quy mô lớn và tầm hoạt động có thể vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia, cần có sự phối hợp của nhiều quốc gia. Ngoài ra, đầu tư quốc tế còn xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác như tình hình bất ổn và an ninh quốc gia khiến những nhà đầu tư tìm cách phân tán rủi ro bằng việc chuyển vốn ra nước ngoài đầu tư, sự ra đời và phát triển nhanh chóng của các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia hay sự phát triển của các phương tiện giao thông, thông tin, liên lạc 3.1.3 Bản chất của đầu tư quốc tế 58 Chúng ta đã biết, do trình độ phát triển kinh tế của các nước rất khác nhau nên dẫn đến kết quả có quốc gia dư thừa vốn và có quốc gia khan hiếm vốn. Từ đó dẫn đến sự chênh lệch giá vốn (lợi tức của vốn) ở các nước không bằng nhau, nơi cao, nơi thấp, kết quả là có sự dịch chuyển vốn từ nơi có giá thấp đến nơi có giá cao. Điều này cũng tương tự như sự di chuyển hàng hoá vật chất và dịch vụ vậy. Sự di chuyển quốc tế về vốn là sự vận động của tiền tệ và tài sản giữa các quốc gia nhằm điều chỉnh tỷ lệ giữa các yếu tố sản xuất giữa các quốc gia, tạo điều kiện cho nền kinh tế riêng biệt của từng quốc gia phát triển, góp phần thúc đẩy kinh tế toàn cầu tăng trưởng. 3.1.4 Vai trò của đầu tư quốc tế a) Đối với các nước xuất khẩu vốn đầu tư: - Khắc phục được xu hướng giảm sút lợi nhuận trong nước, có điều kiện thu được lợi nhuận cao hơn cho chủ đầu tư do tìm được môi trường đầu tư thuận lợi hơn, sử dụng được lợi thế sản xuất của nơi tiếp nhận vốn đầu tư, giúp hạ giá thành sản phẩm và nâng cao tỷ suất lợi nhuận. - Xây dựng thị trường cung cấp nguyên vật liệu ổn định với giá cả phù hợp. - Khuếch trương được sản phẩm, danh tiếng, bành trướng sức mạnh về kinh tế và nâng cao uy tín chính trị trên trường quốc tế. - Giúp các chủ đầu tư phân tán rủi ro khi tình hình kinh tế chính trị trong nước không ổn định. - Giúp thay đổi cơ cấu nền kinh tế trong nước theo hướng hiệu quả hơn, thích nghi với sự phân công và hợp tác lao động quốc tế trong khu vực và trên thế giới. - Sự đầu tư vốn ở nhiều nước còn có thể giúp cho các công ty đa quốc gia có mức thuế thấp hơn nhằm tối ưu hoá lợi nhuận đầu tư. Tuy nhiên, trong hoạt động đầu tư quốc tế nếu không có chiến lược chính sách phù hợp thì các nhà kinh doanh có thể đổ xô ra nước ngoài kinh doanh thay vì kinh doanh trong nước, dẫn tới quốc gia sẽ có nguy cơ bị tụt hậu. Đầu tư quốc tế cũng có thể dẫn đến giảm công ăn việc làm ở nước chủ đầu tư. Ngoài ra, hoạt động này còn có thể dẫn tới hiện tượng chảy máu chất xám trong quá trình chuyển giao công nghệ. Các chủ đầu tư có thể gặp rủi ro lớn nếu không hiểu rõ về môi trường đầu tư. Do đó, các chủ đầu tư trước khi đưa ra quyết định đầu tư quốc tế cần có sự cân nhắc thật kỹ lưỡng lợi và hại của hoạt động này. b) Đối với các nước tiếp nhận vốn: - Giúp cho nước tiếp nhận đầu tư có một khoản vốn mà họ cần để tiến hành sản xuất kinh doanh, xây dựng và phát triển những ngành nghề mới cần nhiều vốn mà trong nước không thể đáp ứng ngay được. - Tận dụng được các nguồn lực tài nguyên sẵn có trong nước để có thể đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế một cách hiệu quả. Các dự án FDI góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh là động lực kích thích nền kinh tế tăng trưởng về lượng cũng như về chất. - Góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, giảm sức ép từ tình trạng thất nghiệp và tăng thu nhập cho người lao động trong nước. . 59 - Tăng thu ngân sách dưới hình thức các loại thuế để cải thiện tình hình bội chi ngân sách. Giúp các nước đang phát triển giảm bớt một phần nợ nước ngoài đồng thời cũng tạo sự tin tưởng để khi cần thiết các nước này có thể vay thêm vốn để phát triển kinh tế. - Có điều kiệp tiếp thu một cách nhanh chóng các tiến bộ về khoa học kỹ thuật, công nghệ và các phương pháp quản lý tiên tiến của nước ngoài một cách có chọn lọc. - Tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng nhanh các khu công nghiệp, khu công nghệ cao nhằm hỗ trợ cho quá trình công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bên cạnh đó, hoạt động đầu tư quốc tế có thể có nhiều hạn chế như: tình trạng lạm dụng tài nguyên gây ô nhiễm môi trường, gây ra sự phân hóa, tăng khoảng cách phát triển giữa các vùng và giữa các tầng lớp dân cư; có thể làm tăng các vấn đề tệ nạn xã hội, bệnh tật Nước tiếp nhận vốn còn có thể bị ảnh hưởng hoặc lệ thuộc vào những yêu cầu từ phía chủ đầu tư. 3.1.5 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư quốc tế Mục đích đánh giá hiệu quả đầu tư quốc tế là để xác định khả năng đem lại lợi ích của vốn đầu tư từ nước ngoài, từ đó đưa ra những giải pháp nếu hiệu quả đầu tư còn thấp, hay giữ vững và phát huy nhằm thu hút vốn đầu tư khi hiệu quả đầu tư cao. a) Hệ số ICOR * Khái niệm: ICOR là một chỉ số cho biết muốn có thêm một đơn vị sản lượng trong một thời kỳ nhất định cần phải bỏ ra thêm bao nhiêu đơn vị vốn đầu tư trong kỳ đó. Đây là tập hợp các chữ cái đầu của cụm từ tiếng Anh Incremental Capital Output Rate. Trong tiếng Việt, ICOR còn được gọi là hệ số sử dụng vốn, hay hệ số đầu tư tăng trưởng, hay tỷ lệ vốn trên sản lượng tăng thêm. * Phương pháp tính: ICOR = I/∆ GDP (∆ GDP = GDPt - GDPt-1) Ý nghĩa: Để GDP tăng trưởng một đơn vị cần bao nhiêu đồng vốn đầu tư. Hệ số ICOR càng lớn sẽ càng cho thấy sự kém hiệu quả của việc dùng vốn đầu tư, vì lúc này để tăng 1 đồng GDP phải bỏ ra nhiều đồng vốn đầu tư hơn. Công thức trên có thể được phát triển thành: ICOR = k/g với k=I/GDP, g= ∆GDP/GDP Trong đó: ICOR: tỷ lệ giữa vốn đầu tư và tăng trưởng kinh tế; I: vốn đầu tư của toàn bộ nền kinh tế; I = ID+IF GDP: mức tăng tổng sản phẩm quốc nội k: tỉ lệ giữa vốn đầu tư và tổng sản phẩm quốc nội g: tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế 60 Ý nghĩa: Để GDP tăng trưởng 1% đòi hỏi tỷ lệ vốn đầu tư phát triển so với GDP phải đạt bao nhiêu %. Hệ số ICOR càng cao sẽ càng cho thấy sự kém hiệu quả của việc dùng vốn đầu tư. Vì ICOR nghịch biến với g, nếu ICOR tăng thì g giảm tương đối, mang ý nghĩa mức độ tăng trưởng kinh tế không theo kịp lượng vốn đầu tư. Ở các nước phát triển hệ số ICOR thường cao hơn ở các nước đang phát triển và ở mỗi nước thì hệ số ICOR luôn có xu hướng tăng lên tức là khi kinh tế càng phát triển thì để tăng thêm một đơn vị kết quả sản xuất cần nhiều hơn về nguồn vốn đầu tư. Điều này ví như một học sinh trung bình phấn đấu trở thành học sinh khá thì dễ hơn một học sinh khá phấn đấu trở thành học sinh giỏi. b) Hệ số TFP * Khái niệm: TFP (Total Factor Productivity - Hệ số năng suất các nhân tố tổng hợp) là một chỉ tiêu phản ánh tổng hợp hiệu quả các nhân tố tham gia vào quá trình sản xuất và được đo lường bằng tỷ số giữa đầu ra (được tính theo giá so sánh) với mức kết hợp có quyền số giữa các đầu vào. TFP phản ánh hiệu quả của các nguồn lực được sử dụng vào sản xuất. Ngoài ra TFP còn phản ánh hiệu quả do thay đổi công nghệ, trình độ tay nghề của công nhân, trình độ quản lý, thời tiết... * Phương pháp tính: GA = GGDP - ßKGK - ßLGL Trong đó: GA: Tốc độ tăng trưởng năng suất các nhân tố tổng hợp. GGDP: Tốc độ tăng trưởng GDP. ßK: Tỷ trọng của thặng dư sản xuất trong GDP. ßL: Tỷ trọng của thù lao lao động trong GDP. GK: Tốc độ tăng trưởng của vốn. GL: Tốc độ tăng trưởng của lao động. Khi biết GGDP, ßKGK và ßLGL có thể tính được đóng góp của công nghệ và quản l ý GA hoặc ngược lại có thể ước lượng tốc độ tăng trưởng GDP. Tóm lược Các quốc gia có sự phát triển không đồng đều về trình độ lực lượng sản xuất, sự khác biệt về điều kiện sản xuất dẫn đến chi phí sản xuất hàng hoá giữa các quốc gia khác nhau. Từ đó, đầu tư quốc tế được tiến hành nhằm khai thác triệt để lợi thế so sánh của mỗi quốc gia và mang lại lợi ích cho cả bên đầu tư và bên tiếp nhận vốn đầu tư. Bên cạnh đó, thông qua việc đánh giá hiệu quả đầu tư quốc tế để đưa ra các giải pháp thu hút nhằm thu hút vốn đầu tư vào các quốc gia. Câu hỏi tự luận Câu 1: Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư quốc tế? ưu điểm và nhược điểm của từng chỉ tiêu? 3.2 ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP TRONG ĐẦU TƯ QUỐC TẾ 61 Giới thiệu Phần này sẽ nghiên cứu khái niệm, đặc điểm và các nội dung cơ bản liên quan đến đầu tư gián tiếp trong đầu tư quốc tế. Sau khi học xong mục 2 này học viên sẽ: - Hiểu được khái niệm, hình thức, đặc điểm của đầu tư gián tiếp, đặc biệt là hiểu rõ về nguồn vốn hỗ trợ chính thức (ODA) trong đầu tư quốc tế. - Tìm hiểu về các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư gián tiếp trong đầu tư quốc tế để có thể đưa ra các khuyến nghị phù hợp nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp vào thực tiến. - Nhận biết về những tác động tích cực và tiêu cực của đầu tư gián tiếp đến nền kinh tế của các quốc gia. Nội dung Trong nền kinh tế ngày nay, vốn đầu tư gián tiếp có vai trò lớn trong nền kinh tế toàn cầu nói chung và đối với từng nước nói riêng. Do đó, vấn đề thu hút vốn đầu tư đang được các quốc gia quan tâm đặc biệt là các quốc gia đang phát triển và kém phát triển. 3.2.1 Khái niệm Đầu tư gián tiếp là loại hình di chuyển vốn đầu tư giữa các quốc gia trong đó người chủ sở hữu vốn không trực tiếp quản lý và điều hành các hoạt động sử dụng vốn. Trong hoạt động đầu tư gián tiếp, chủ đầu tư không trực tiếp chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư mà chỉ hưởng lợi tức theo tỷ lệ vốn góp. Theo Luật đầu tư của Việt Nam (2005), đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. 3.2.2 Các hình thức của đầu tư gián tiếp a) Cho vay: Là hình thức đầu tư đi kèm với điều kiện lãi suất thường hoặc lãi suất ưu đãi trong đó ngoài thời hạn cho vay còn có thể gia hạn thêm một thời gian nữa gọi là ân hạn. Hình thức này có ưu điểm là có thể huy động được khoản tiền lớn nhằm giải quyết các công việc cụ thể một cách có hiệu quả như đầu tư vào các công trình cơ sở hạ tầng cần nguồn vốn lớn và thời gian thu hồi vốn dài. Ví dụ như ngày 7/6/2011, Hội đồng các giám đốc chấp hành Ngân hàng Thế giới (WB) đã phê chuẩn dự án tín dụng cho Việt Nam vay 160 triệu USD từ nguồn tín dụng của Hội Phát triển Quốc tế (IDA), thời hạn cho vay dài 35 năm với lãi suất thấp nhất và ân hạn 10 năm không lãi. Mục tiêu của dự án là bảo vệ và tăng cường sử dụng nguồn nước ở khu vực đồng bằng sông Mekong phục vụ sản xuất nông nghiệp, cung cấp cho nhân dân quyền tiếp cận nguồn cung cấp nước và góp phần thích nghi với tình trạng biến đổi khí hậu. b) Viện trợ: bao gồm: + Viện trợ không hoàn lại: do nước tiếp nhận vốn không phải hoàn trả nguồn vốn này nên nó thường chỉ áp dụng trong các lĩnh vực như: y tế, dân số và kế hoạch hoá gia đình; giáo dục và đào tạo; các vấn đề xã hội; bảo vệ môi trường sinh thái; hỗ trợ ngân sách; hỗ trợ nghiên cứu khoa học và công nghệ. 62 + Viện trợ có hoàn lại: phổ biến trong các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội như: năng lượng, giao thông, vận tải, thuỷ lợi, thông tin liên lạc, cấp thoát nước, y tế, giáo dục và đào tạo, Hình thức này có ý nghĩa quan trọng cả về mặt kinh tế lẫn xã hội do được chú trọng đầu tư vào các lĩnh vực như xóa đói giảm nghèo, các chương trình nhân đạo cho người có hoàn cảnh khó khăn, phát triển hệ thống y tế, nước sạch, Theo Luật đầu tư của Việt Nam (2005), nhà đầu tư thực hiện đầu tư gián tiếp tại Việt Nam theo các hình thức sau đây: - Mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác; - Thông qua quỹ đầu tư chứng khoán; - Thông qua các định chế tài chính trung gian khác. Hoạt động đầu tư thông qua mua, bán cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác của tổ chức, cá nhân và thủ tục thực hiện hoạt động đầu tư gián tiếp phải tuân theo quy định của pháp luật về chứng khoán và các quy định khác của pháp luật có liên quan. 3.2.3 Đặc điểm của vốn đầu tư gián tiếp a) Tính bất ổn định Mục tiêu của các nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư gián tiếp là tỷ suất lợi tức cao mà không quan tâm đến quá trình kinh doanh sản xuất. Vì vậy, các nhà đầu tư luôn có xu hướng thay đổi các chứng khoán hoặc tài sản mình đang sở hữu, nhằm tìm kiếm mức lợi tức cao nhất họ có thể đạt được với độ rủi ro thấp nhất. Việc này dẫn tới tính mất ổn định của dòng vốn đầu tư gián tiếp. Sự bất ổn định, trong một giới hạn nào đó có thể có lợi do nó làm cho thị trường tài chính nội địa hoạt động năng động và hiệu quả hơn, vốn đầu tư không ngừng được phân bổ lại, dịch chuyển từ nơi có tỷ suất lợi nhuận thấp sang nơi có tỷ suất lợi nhuận cao. Tuy nhiên, nếu điều đó xảy ra với tốc độ quá nhanh, những ảnh hưởng xấu đến hệ thống tài chính và dễ xảy ra tình trạng mất ổn định trong nền kinh tế, đặc biệt là đối với những nước có thị trường tài chính mới hình thành, còn non kém, chưa sẵn sàng với những biến đổi đột ngột và bất ngờ. b) Tính dễ đảo ngược Tính dễ đảo ngược của dòng vốn đầu tư gián tiếp thực sự gây tác động xấu đến nền kinh tế và là hệ quả tất yếu của tính bất ổn định. Chỉ trong một thời gian ngắn, luồng vốn đầu tư gián tiếp có thể chuyển sang một thị trường khác để lại hậu quả khôn lường cho nền kinh tế. Kinh nghiệm khủng hoảng kinh tế tài chính của Châu Á vào cuối thập niên 90 của thế kỷ 20 đã cho thấy tác hại của sự đảo ngược dòng vốn đầu tư gián tiếp khi nền kinh tế của các quốc gia này xuất hiện các khoảng trống khó bù đắp, hậu quả là những nền kinh tế bong bóng nhanh chóng bị sụp đổ, gây hậu quả to lớn, khó có thể khắc phục được trong ngắn hạn. 3.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn vốn đầu tư gián tiếp Nguồn vốn đầu tư gián tiếp chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau: - Bối cảnh quốc tế (hòa bình, ổn định vĩ mô, các quan hệ ngoại giao và môi trường pháp lý quốc tế thuận lợi). - Nhu cầu và khả năng đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài. 63 - Mức độ tự do hóa và cạnh tranh (chủ yếu là ưu đãi tài chính và sự thân thiện, sự thuận tiện của quản lý nhà nước đối với nhà đầu tư) của môi trường đầu tư trong nước. - Sự phát triển của hệ thống tiền tệ và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh nói riêng, của các thể chế thị trường nói chung ở nước tiếp nhận đầu tư. - Sự phát triển và độ mở cửa của thị trường chứng khoán, chất lượng của các cổ phiếu, trái phiếu do doanh nghiệp và Nhà nước phát hành, cũng như các chứng khoán có giá khác lưu thông trên thị trường tài chính. - Sự đa dạng và vận hành có hiệu quả của các định chế tài chính trung gian (trước hết là quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư tài chính các loại, các quỹ đầu tư đại chúng, quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ thành viên). - Sự phát triển và chất lượng của hệ thống thông tin và dịch vụ chứng khoán, trong đó có các tổ chức cung cấp dịch vụ tư vẫn và dịch vụ định mức hệ số tín nhiệm của doanh nghiệp và chứng khoán do doanh nghiệp phát hành. 3.2.5 Tác động của đầu tư gián tiếp Vốn đầu tư gián tiếp có vai trò lớn trong nền kinh tế tòan cầu nói chung và đối với từng nước nói riêng. Vốn đầu tư gián tiếp có tác động nhiều mặt, cả tích cực và tiêu cực đối với nước đầu tư và nước nhận vốn đầu tư. a) Tác động tích cực Thứ nhất, trực tiếp làm tăng tổng vốn đầu tư gián tiếp và gián tiếp làm tăng tổng vốn đầu tư trực tiếp của xã hội. Hơn nữa, khi vốn đầu tư gián tiếp nước gia tăng sẽ làm phát sinh hệ quả tích cực gia tăng dây chuyền đến dòng vốn đầu tư gián tiếp trong nước. Nói cách khác, các nhà đầu tư trong nước sẽ “nhìn gương” các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài và tăng động lực bỏ vốn đầu tư gián tiếp của mình, kết quả tổng đầu tư gián tiếp xã hội sẽ tăng lên. Hơn nữa, khi dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài gia tăng sẽ là một bảo đảm và tạo động lực mới hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư khác mạnh dạn thông qua các quyết định đầu tư trực tiếp mới của mình, kết quả là gián tiếp góp phần làm tăng đầu tư trực tiếp xã hội từ phía các nhà đầu tư cả nước ngoài, cũng như trong nước. Thứ hai, góp phần tích cực vào phát triển thị trường tài chính nói riêng, hoàn thiện các thể chế và cơ chế thị trường nói chung. Việc gia tăng và phát triển bộ phận thị trường vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ làm cho thị trường tài chính (đặc biệt là thị trường chứng khoán) trở nên đồng bộ, cân đối và sôi động hơn. Hơn nữa, điều kiện và như là kết quả đi kèm với sự gia tăng dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài này là sự phát triển nở rộ các định chế và dịch vụ tài chính - chứng khoán, trước hết là các loại quỹ đầu tư, Công ty tài chính, và các thể chế tài chính trung gian khác, cũng như các dịch vụ tư vấn, bổ trợ tư pháp và hỗ trợ kinh doanh, xác định hệ số tín nhiệm, bảo hiểm, kế toán, kiểm toán và thông tin thị trường; Đồng thời còn kéo theo sự gia tăng yêu cầu và hiệu quả áp dụng các nguyên tắc cạnh tranh thị trường, trước hết trên thị trường chứng khoán... Thứ ba, góp phần tăng cường cơ hội và đa dạng hoá phương thức đầu tư, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực và thu nhập của đông đảo người dân. Việc phát triển thị trường vốn đầu tư gián tiếp cả về bề rộng và bề sâu sẽ mang lại những cơ hội mới và sự đa dạng hoá trong lựa chọn các phương thức đầu tư cho các nhà đầu tư tiềm năng nước ngoài và trong nước. 64 Thứ tư, góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước theo các nguyên tắc và yêu cầu kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Sự gia tăng dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài và phát triển thị trường tài chính sẽ đặt ra những yêu cầu mới và cũng tạo các công cụ, khả năng mới cho quản lý nhà nước nói chung và quản lý, quản trị doanh nghiệp nói riêng. Việc quản lý và quản trị doanh nghiệp phát hành chứng khoán sẽ được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả hơn do yêu cầu về báo cáo tài chính doanh nghiệp và minh bạch hoá, cập nhật hoá thông tin liên quan đến các chứng khoán mà doanh nghiệp đã và sẽ phát hành. Hơn nữa, về nguyên tắc, các nhà đầu tư chỉ lựa chọn đầu tư vào chứng khoán của các doanh nghiệp đáng tin cậy, đang và sẽ có triển vọng, phát triển tốt trong tương lai. Chính điều này sẽ cho phép quá trình “chọn lọc nhân tạo”, “bỏ phiếu” cho sự hỗ trợ và phát triển các doanh nghiệp này trở nên khách quan và phù hợp cơ chế thị trường hơn. Hệ thống luật pháp, cũng như các cơ quan, bộ phận và cá nhân trong hệ thống quản lý nhà nước liên quan đến thị trường tài chính, nhất là đến đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ phải được hoàn thiện, kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt động hơn theo yêu cầu, đặc điểm của thị trường này, cũng như theo các cam kết hội nhập quốc tế. Đồng thời, thông qua tác động vào thị trường tài chính, nhà nước sẽ đa dạng hoá các công cụ và thực hiện hiệu quả việc quản lý của mình theo các mục tiêu lựa chọn thích hợp. Trên cơ sở đó, năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với nền kinh tế nói chung, thị trường tài chính nói riêng sẽ được cải thiện hơn. b) Tác động tiêu cực Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, việc gia tăng thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài có thể gây ra một số tác động tiêu cực sau: Thứ nhất, làm tăng mức độ nhạy cảm và bất ổn về kinh tế có nhân tố nước ngoài. Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài được thực hiện dưới dạng đầu tư tài chính thuần tuý với các chứng khoán có thể chuyển đổi và mang tính thanh khoản cao trên thị trường tài chính, nên các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài dễ dàng và nhanh chóng mở rộng hoặc thu hẹp, thậm chí đột ngột rút vốn đầu tư của mình về nước, hay chuyển sang đầu tư dưới dạng khác, ở địa phương khác tuỳ theo kế hoạch và mục tiêu kinh doanh của mình. Trong tình huống như vậy, một sự đổ vỡ, một cuộc khủng hoảng đầu tư – tài chính - tiền tẹ, thậm chí là khủng hoảng kinh tế hết sức tệ hại và bất khả kháng là hoàn toàn có thể xảy ra đối với nước tiếp nhận đầu tư, nếu không có và triển khai tốt các phương án phòng ngừa hiệu quả. Thứ hai, làm gia tăng nguy cơ bị mua lại, sáp nhập, khống chế và lũng đoạn tài chính đối với các doanh nghiệp và tổ chức phát hành chứng khoán. Sự gia tăng tỷ lệ nắm giữ chứng khoán, nhất là các cổ phiếu, cổ phần sáng lập, được biểu quyết của các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài đến một mức “vượt ngưỡng” nhất định nào đó sẽ cho phép họ tham dự trực tiếp vào chi phối và quyết định các hoạt động sản xuất kinh doanh và các chủ quyền khác của doanh nghiệp, tổ chức phát hành chứng khoán, thậm chí lũng đoạn doanh nghiệp theo phương hướng, kế hoạch, mục tiêu riêng của mình, kể cả các hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp. Thứ ba, làm tăng quy mô, tính chất và sự cấp thiết đấu tranh với tình trạng tội phạm kinh tế quốc tế. Đầu tư gián tiếp quốc tế không chỉ làm gia tăng các nguy cơ và tác hại của các hoạt động đầu cơ, lũng đoạn kinh tế vi phạm các quy định pháp lý của nước tiếp nhận đầu tư, mà còn là mảnh đất màu mỡ sinh sôi và phát triển các loại tội phạm kinh tế có yếu tố nước ngoài, thậm chí xuyên quốc gia, như hoạt động lừa đảo, 65 hoạt động rửa tiền, hoạt động tiếp vốn cho các kinh doanh phi pháp và hoạt động khủng bố, cùng các loại tội phạm và các đe doạ an ninh phi truyền thống khác. Sự cộng hưởng của các hoạt động tội phạm và tác động mặt trái của dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài kể trên, nhất là khi chúng diễn ra một cách “có tổ chức” của giới đầu cơ hay lực lượng thù địch chính trị quốc tế, sẽ ít nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt và lâu dài gây tổn hại tới hoạt động kinh tế lành mạnh và làm tăng tính dễ tổn thương của nền kinh tế nước tiếp nhận đầu tư trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. 3.2.6 Hỗ trợ phát triển chính thức - ODA (Official Development Assistance) a) Khái niệm: Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là hình thức viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay vốn với những điều kiện đặc biệt ưu đãi (cho vay dài hạn, lãi suất thấp, cách trả nợ thuận lợi) của các chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế nhằm giúp các nước chậm và đang phát triển đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội. b) Đặc điểm - Có tính ưu đãi của các nước phát triển, các tổ chức quốc tế đối với các nước đang và kém phát triển (Vốn ODA có thời gian cho vay, hoàn trả vốn dài), có thời gian ân hạn dài. Chẳng hạn, vốn ODA của WB, ADB, JBIC có thời gian hoàn trả là 40 năm và thời gian ân hạn là 10 năm. Sự ưu đãi còn thể hiện ở chỗ vốn ODA chỉ dành riêng cho các nước đang và chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển. Có hai điều kiện cơ bản nhất để các nước đang và chậm phát triển có thể nhận được ODA là tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người thấp và mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải phù hợp với chính sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ giữa bên cấp và bên nhận ODA. - Thường kèm theo các điều kiện ràng buộc nhất định (ODA có thể ràng buộc hoặc ràng buộc một phần hoặc không ràng buộc) nước nhận về địa điểm chi tiêu. Ngoài ra mỗi nước cung cấp viện trợ cũng đều có những ràng buộc khác và nhiều khi các ràng buộc này rất chặt chẽ đối với nước nhận. - Có khả năng gây nợ: Một số nước do không sử dụng hiệu quả ODA có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất thời nhưng sau một thời gian lại lâm vào vòng nợ nần do không có khả năng trả nợ. Vấn đề là ở chỗ vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Do đó, trong khi hoạch định chính sách sử dụng ODA phải phối hợp với các nguồn vốn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu. c) Các hình thức của ODA: - Theo cách hoàn trả vốn, ODA có 3 loại: + Viện trợ không hoàn lại. + Vay vốn (với lãi suất ưu đãi). + ODA hỗn hợp: kết hợp giữa các hình thức: ODA không hoàn lại, cho vay ưu đãi, tín dụng thương mại. - Theo nguồn hình thành vốn, ODA có 2 loại: 66 + Nguồn vốn song phương: là khoản viện trợ trực tiếp từ nước này đến nước kia theo các hiệp định chính phủ đã được ký kết. + Nguồn vốn đa phương: là hình thức viện trợ ODA được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp của các nước công nghiệp phát triển, dành cho các nước đang phát triển thông qua các tổ chức tài chính quốc tế như WB, ADB... - Theo cách sử dụng vốn, ODA có 4 loại: + Dự án đầu tư: là hình thức đầu tư vào một công trình để trực tiếp tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ xã hội với nguồn tài trợ chủ yếu dưới dạng vay với lãi suất ưu đãi. + Dự án hỗ trợ về kỹ thuật: là hình thức đầu tư cho việc thuê chuyên gia tư vấn, tổ chức đào tạo cán bộ, đi nghiên cứu khảo sát nước ngoài, chuyển giao công nghệ, trợ giúp hoạch định chính sách. Các dự án này thường sử dụng nguồn vốn viện trợ không hoàn lại. + Chương trình: là hình thức ODA trong đó người ta lồng ghép một hoặc nhiều mục tiêu với tập hợp nhiều dự án. + Hỗ trợ ngân sách: thường chỉ áp dụng để giải quyết các khoản nợ nước ngoài. ODA là nguồn vốn có ý nghĩa quan trọng đối với các nước đang phát triển. Nguồn vốn nà

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgtkt0009_p1_1954.pdf