Bài 1: Sự hình thành giao tử và sự thụ tinh. 3
1.1. Sự hình thành giao tử . 3
1.2. Sự di chuyển của giao tử và sự thụ tinh. 17
Bài 2: Phân cắt phôi bào và làm tổ. 24
2.1. Sự phân cắt phôi sau khi thụ tinh đến lúc làm tổ. 24
2.2. Diễn biến quá trình làm tổ của phôi. 27
Bài 3: Sự hình thành và phát triển các lá phôi . 30
3.1. Sự tạo ra đĩa phôi hai lá . 30
3.2. Sự phát triển phôi trong tuần thứ 3 – giai doạn phôi vị
              
                                            
                                
            
 
            
                 62 trang
62 trang | 
Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 1104 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài giảng Phôi thai học đại cương - Trần Kim Thương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ội mô 
Có 4 lớp: 
- Hợp bào nuôi 
- Tế bào nuôi 
- MLK lõi 
- Nội mô 
 45 
vào trong hồ máu quanh các lông nhau. Những mảnh vụn này, được biết 
như nút hợp bào, có thể đi vào vòng tuần hoàn mẹ và thường thoái hóa, 
không gây ra bất kỳ ảnh hưởng gì cho mẹ. 
Liên hệ lâm sàng 
Tiền sản giật là 1 bệnh được đặc trưng bởi tăng huyết áp thai kỳ, có 
protein niệu và phù. Nó có thể bắt đầu tại bất kỳ thời điểm nào khi thai từ 
20 tuần và gây ra hậu quả thai chậm phát triển, thai chết hoặc tử vong ở 
sản phụ. Bệnh biểu hiện là những rối loạn thuộc về lá nuôi liên quan đến 
việc biệt hóa sai hoặc không hoàn toàn của tế bào lá nuôi, nhiều tế bào 
không đi vào nội mô của động mạch xoắn để chuyển dạng biểu mô. Những 
bất thường về tế bào này dẫn đến tăng huyết áp và còn những vấn đề khác 
chưa được biết rõ. Nguyên nhân của tiền sản giật bao gồm hiện tượng 
khảm của bánh nhau, trong đó có những nguyên bào nuôi bất thường về 
gen hay bệnh ở sản phụ có thể gây ra những vấn đề về mạch máu như là 
tiểu đường. Phụ nữ hút thuốc lá cũng gây tăng nguy cơ tiền sản giật. 
2. ĐĨA ĐỆM VÀ MÀNG RỤNG ĐÁY (CHORION FRONDOSUM 
AND DECIDUA BASALIS) 
Trong những tuần đầu của thai kỳ, lông nhau có ở toàn bộ bề mặt của 
lớp đệm (hình 4.1). Khi thai lớn lên, lông nhau phát triển vượt trội ở cực 
phôi, đĩa đệm phát triển giống hình cây có nhiều nhánh (bush chorion). 
Lông nhau cực đối phôi thoái hóa ở tháng thứ 3 làm cho lá đệm ở phía này 
nhẵn (màng đệm nhẵn). (hình 4.3 và 4.4) 
Khác biệt giữa cực phôi và cực đối phôi của màng đệm là cấu trúc 
của màng rụng, chính là lớp chức năng của nội mạc tử cung, nó được bong 
ra trong suốt thời kỳ sinh sản sau mỗi chu kỳ kinh nguyệt. Màng rụng phủ 
đĩa đệm cực phôi là màng rụng đáy, gồm lớp đặc với những tế bào lớn, 
những tế bào màng rụng dự trữ 1 lượng lớn lipid và glycogen. Lớp này, đĩa 
màng rụng liên kết chặt với lớp đệm. Lớp màng rụng phủ cực đối phôi là 
màng rụng bao (hình 4.4. A). Với sự phát triển của túi đệm, lớp này trở nên 
 46 
căng ra. Rồi sau đó, nó dính sát vào màng rụng thành ở cực đối phôi, xóa đi 
khoang tử cung. Vì vậy, bánh nhau được hình thành từ đĩa đệm cực phôi và 
màng rụng đáy. Còn màng ối và màng đệm hình thành màng nhau 
(amniochorionic membrane) xóa đi khoang đệm (hình 4.4). 
3. NHAU 
3.1. Cấu trúc của bánh nhau 
Bắt đầu tháng thứ 4, bánh nhau có 2 phần: (a) phần thai, được hình 
thành từ đĩa đệm và (b) phần mẹ, được hình thành từ màng rụng đáy (hình 
4.4.B). Ở phía thai, bánh nhau được giới hạn bởi đĩa đệm (hình 4.7); ở phía 
mẹ thì nó được giới hạn bởi màng rụng đáy, đĩa màng rụng thì hầu như 
dính chặt vào bánh nhau. Ở vùng chức năng, nguyên bào nuôi và tế bào 
màng rụng cài vào nhau. Vùng này, được đặc trưng bởi màng rụng và 
những tế bào hợp bào khổng lồ, giàu chất ngoại bào vô định hình. Tại thời 
điểm này, hầu hết tế bào lá nuôi biến dạng. Giữa đĩa đệm và màng rụng là 
hồ máu (khoảng quanh lông nhau) được đổ đầy bởi máu mẹ. Chúng được 
hình thành từ những hốc trong lá nuôi hợp bào. Cây lông nhau phát triển 
vào trong các hồ máu (hình 4.2 và 4.7). 
Trong suốt tháng thứ tư và tháng thứ năm, màng rụng hình thành 
vách ngăn màng rụng, các vách ngăn này hướng vào khoảng trống quanh 
lông nhau nhưng không dính vào đĩa đệm. Chúng có lõi là mô của mẹ và 
được phủ lên bề mặt một lớp hợp bào nuôi, chính lớp hợp bào nuôi tách 
biệt máu mẹ trong hồ máu với các lông nhau của mô thai. Kết quả của việc 
tạo vách này làm bánh nhau được phân chia thành nhiều múi (ngăn) (hình 
4.8). Do các vách ngăn màng rụng không dính vào đĩa đệm nên máu mẹ có 
thể lưu thông qua lại giữa các ngăn khác nhau. 
 47 
Hình 4.3. Phôi 6 tuần. Túi ối và khoang đệm được mở ra để lộ phôi, minh 
họa sự xuất hiện của nguyên bào nuôi ở cực phôi và ngược lại những lông 
nhau nhỏ ở cực đối phôi. Ống túi noãn hoàng có khuynh hướng dài ra, túi 
noãn hoàng có khuynh hướng thoái hóa. 
Dây rốn 
Ống túi noãn 
hoàng 
Túi noãn hoàng Màng ối Lá đệm 
 48 
Hình 4.4. Sự dính của các màng thai lên thành tử cung. A. Kết thúc tháng 
thứ 2. Thấy túi noãn hoàng nằm trong khoang đệm, giữa màng ối và màng 
đệm. Tại cực đối phôi, lông nhau thoái hóa (màng đệm nhẵn). B. Cuối 
tháng thứ 3, màng ối và màng đệm sát nhập vào nhau thành màng nhau và 
khoang tử cung bị xóa dần bởi sự lớn lên của khoang ối và cuối cùng màng 
rụng bao và màng nhau dính vào màng rụng thành. 
Khi thai tiếp tục phát triển và lớn lên trong tử cung, bánh nhau 
cũng lớn lên. Nó tăng sự gồ ghề của bề mặt và trải rộng hơn trong tử 
cung, một thai kỳ đủ tháng bánh nhau có thể chiếm từ 15%-30% diện tích 
bề mặt trong lòng tử cung. Sự tăng bề dày của nhau là kết quả của sự phát 
triển cây lông nhau nhưng không ăn sâu vào mô mẹ. 
3.2. Bánh nhau của thai đủ tháng 
Bánh nhau đủ tháng hình đĩa với đường kính khoảng 15-25cm, có bề 
dày khoảng 3cm, nặng khoảng 500-600g (người Việt trung bình khoảng 
470g). Nhau bong ra khỏi thành tử cung khoảng 30 phút sau khi sinh. Bánh 
nhau mới bong, nhìn mặt mẹ có thể thấy rõ 15-20 chỗ phình được gọi là 
múi nhau, phủ bởi 1 lớp màng rụng đáy (hình 4.8). Các rãnh giữa các múi 
nhau chính là các vách ngăn màng rụng. 
Bánh nhau 
Màng nhau dính vào 
màng rụng thành 
Màng rụng đáy 
Đĩa đệm 
Khoang 
ối 
Túi noãn 
hoàng 
Khoang 
TC 
Lá đệm 
Màng 
rụng bao 
Khoang 
đệm 
Màng rụng 
thành 
Khoang ối 
 49 
Mặt thai của bánh nhau được phủ hoàn toàn bởi đĩa đệm. Nhiều động 
mạch và tĩnh mạch lớn tập trung hướng về dây rốn (hình 4.8). Màng đệm 
được phủ bởi màng ối. Đôi khi, cuốngg dây rốn không nằm chính giữa 
bánh nhau mà có thể lệch về một phía. Hiếm khi nằm ở rìa của bánh nhau. 
3.3. Tuần hoàn nhau 
Các ngăn của bánh nhau nhận máu của khoảng 80-100 động mạch 
xoắn đi ra từ đĩa màng rụng và đổ vào các hồ máu (hình 4.7). Áp lực trong 
các động mạch đổ máu giàu oxy sâu vào hồ máu. Khi áp suất giảm, máu 
chảy trở lại đĩa đệm hướng về màng rụng vào đi vào các tĩnh mạch nội mạc 
tử cung (hình 4.7). 
Nhìn chung, hồ máu của bánh nhau trưởng thành chứa khoảng 150ml 
máu, việc đổ đầy máu được lặp đi lặp lại theo chu kỳ khoảng 3-4 lần/phút. 
Máu này di chuyển giữa các lông nhau màng đệm có tổng diện tích tiếp xúc 
là khoảng 4 - 14m2. Tuy nhiên, sự trao đổi chất ở bánh nhau không diễn ra 
ở tất cả các lông nhau mà chỉ có ở những vị trí có các mạch máu của thai 
sát dưới lớp hợp bào phủ bên ngoài. Ở những lông nhau nhỏ, lớp hợp bào 
thường chia nhiều vi lông nhau để tăng diện tích tiếp xúc giữa tuần hoàn 
mẹ và con (hình 4.2. D). Hàng rào máu mẹ - con là màng ngăn cách máu 
mẹ và máu con, nó được cấu tạo bởi 4 lớp: (a) lớp nội mô mạch máu của 
con, (b) mô liên kết lõi lông nhau, (c) lớp lá nuôi tế bào, (d) lớp lá nuôi hợp 
bào (hình 4.2.C). Tuy nhiên, từ tháng thứ 4 trở đi hàng rào này mỏng hơn 
làm cho lớp tế bào nội mô mạch máu tiếp xúc sát với lớp hợp bào giúp tăng 
khả năng trao đổi chất. Đôi khi người ta gọi nó là hàng rào nhau thai, nó thì 
không là hàng rào thật sự vì trở về sau có nhiều chất đi qua màng này một 
cách tự do hơn. 
3.4. Chức năng của bánh nhau 
Chức năng chính của bánh nhau là: (a) trao đổi chất, khí và những 
sản phẩn chuyển hóa giữa máu mẹ và con, (b) sản xuất hormon. 
 50 
Hình 4.5. Thai 19 tuần trong tử cung, hình còn cho thấy dây rốn và bánh 
nhau. Lòng tử cung được lấp đầy. Thành của tử cung có 1 nhân xơ. 
Thành tử cung 
và màng thai Nhau 
Dây rốn 
Nhân xơ tử 
cung 
 51 
Hình 4.6. Thai 23 tuần trong tử cung. Đã cắt bỏ 1 phần thành tử cung và 
màng ối. Trong hình chỉ mạch máu bánh nhau hội tụ về dây rốn. Dây rốn 
quấn 1 vòng chặt quanh bụng, có khả năng gây ra bất thường ở thai nhi. 
Mạch 
đĩa 
đệm 
Cổ tử 
cung 
Dây rốn 
 52 
Hình 4.7 Bánh nhau ở giai đoạn nửa sau thai kỳ. Các múi bánh nhau được 
chia ra bởi vách màng rụng. Hầu hết máu quanh lông nhau trở về vòng 
tuần hoàn mẹ bởi những tĩnh mạch nội mạc. Một phần nhỏ đi vào các múi 
lân cận. Khoảng quanh lông nhau được lót bởi lá nuôi hợp bào. 
Hình 4.8 Bánh nhau thai đủ tháng. A. Mặt thai, đĩa đệm và dây rốn được 
phủ bởi màng ối. B. Mặt mẹ có các múi nhau. Có 1 vùng màng rụng được 
bóc đi. Mặt mẹ của bánh nhau luôn được kiểm tra cẩn thận lúc sanh, 
thường có một hoặc nhiều múi nhìn hơi trắng bởi vì việc hình thành mô sợi 
quá mức và nhồi máu của một nhóm hồ máu. 
3.4.1. Trao đổi khí 
Trao đổi khí như là O2, CO2, CO được thực hiện bằng khuếch tán. 
Thai lấy 20-30ml O2 trong 1 phút từ vòng tuần hoàn mẹ, việc cung cấp O2 
Vách màng rụng 
ĐM xoắn 
Đĩa màng rụng TM nội mạc 
 Màng ối Đĩa đệm Bó mạch rốn Mạch đĩa 
đệm 
Màng ối 
Dây rốn 
Đĩa đệm 
Múi nhau Màng rụng đáy đã lột bỏ 
Mạch đĩa 
đệm 
 53 
này bị ngắt thì dẫn đến thai chết. Dòng chảy của máu ở bánh nhau quyết 
định việc cung cấp O2, lượng O2 qua thai trong những tháng đầu phụ thuộc 
vào sự phân tán, không phải khuếch tán. 
3.4.2. Trao đổi chất dinh dưỡng và ion 
Khả năng miễn dịch bắt đầu phát triển vào giai đoạn sau của tam cá 
nguyệt thứ nhất. Thai có thể nhận kháng thể từ mẹ (IgG) vào tuần thứ 14. 
Giai đoạn này thai tăng miễn dịch thụ động chống lại các bệnh nhiễm 
khuẩn. Lúc mới sinh bé mới bắt đầu sản xuất IgG và đạt hiệu quả tối đa khi 
bé 3 tuổi. 
Tương quan lâm sàng 
Ly giải nguyên hồng cầu thai và phù thai 
Hơn 400 kháng nguyên hồng cầu đã được xác định và hầu hết không 
gây ra ảnh hưởng trong suốt thai kỳ, một số ít có thể kích thích đáp ứng 
miễn dịch của mẹ sinh kháng thể chống lại tế bào máu thai. Tiến trình này 
là một ví dụ về isoimmunization, và nếu sự đáp ứng của mẹ có hiệu quả thì 
kháng thể sẽ tấn công và làm ly giải hồng cầu thai gây tán huyết ở trẻ sơ 
sinh. Bệnh này đôi khi được gọi là ly giải nguyên hồng cầu bởi vì ly giải 
quá nhiều tế bào máu kích thích việc sản sinh nhiều hồng cầu non gọi là 
nguyên hồng cầu. Trong 1 vài trường hợp, thiếu máu trở nên rất nghiêm 
trọng gây phù thai dẫn đến thai chết (hình 4.9). Hầu hết trường hợp nặng là 
do kháng nguyên từ nhóm máu hệ CDE (Rhesus). Kháng nguyên D hay Rh 
là nguy hiểm nhất, nó sẽ biểu hiện sớm hơn và nghiêm trọng hơn ở những 
lần mang thai kế tiếp. Đáp ứng kháng thể xảy ra trong những trường hợp 
thai có Rh+ còn mẹ thì Rh- và tế bào hồng cầu của con đi vào hệ tuần 
hoàn của mẹ do những vùng chảy máu nhỏ trên bề mặt của lông nhau lúc 
sinh. Phân tích nước ối thấy có bilirubin, là sản phẩm tiêu hủy hemoglobin, 
để đánh giá mức độ ly giải hồng cầu. Điều trị cho những đứa trẻ mắc bệnh 
liên quan đến truyền dịch cho thai trong tử cung hoặc ở trẻ sơ sinh. Tuy 
 54 
nhiên, bệnh thì có thể được ngăn chặn bởi việc xác định người phụ nữ có 
nguy cơ bằng khảo sát kháng thể và điều trị với kháng D-immunoglobulin. 
Kháng nguyên từ nhóm máu ABO cũng có thể gây đáp ứng kháng 
thể nhưng ảnh hưởng thì không nhiều như nhóm Rh. Khoảng 20% trẻ sơ 
sinh không tương hợp nhóm máu hệ ABO của mẹ, nhưng chỉ 5% có ảnh 
hưởng trên lâm sàng. Những trường hợp này có thể điều trị 1 cách hiệu quả 
sau khi sinh. 
3.4.3. Sản xuất hormon 
Cuối tháng thứ 4, bánh nhau sản xuất progesterone với 1 lượng đủ để 
có tác dụng duy trì thai kỳ nếu hoàng thể thoái hóa. Có thể, tất cả hormon 
được tổng hợp bởi hợp bào nuôi. Ngoài ra, bánh nhau còn sản xuất 1 lượng 
hormon estrogen, chủ yếu là estriol, cho đến trước khi kết thúc thai kỳ thì 
đạt mức tối đa. Mức estrogen này kích thích tử cung và tuyến vú phát triển. 
Trong suốt hai tháng đầu của thai kỳ, hợp bào nuôi cũng sản xuất ra 
hCG (human chorionic gonadotropin) để duy trì hoàng thể. Hormon này 
được tiết vào trong nước tiểu của mẹ vào giai đoạn đầu của thai kỳ, sự hiện 
diện của nó được dùng góp phần chẩn đoán có thai. Một hormon khác nữa 
được sản xuất bởi bánh nhau là somatomammotropin. Nó giống như 
hormon tăng trưởng giúp thai ưu tiên thu nhận glucose từ máu mẹ và đôi 
khi làm mẹ bị tiểu đường. Nó cũng kích thích phát triển vú để tiết sữa. 
Tương quan lâm sàng 
Hàng rào nhau thai 
Hầu hết hormon của mẹ không qua được nhau thai. Hormon có thể 
qua là thyroxine nhưng chỉ với tỉ lệ thấp. Một vài progestin tổng có thể qua 
nhau thai nhanh chóng và làm cho thai chuyển từ giới nam thành nữ. Thậm 
chí nguy hiểm hơn là dùng estrogen tổng hợp – diethylstilbestrol cũng dễ 
dàng qua nhau thai. Hỗn hợp này gây ra ung thư biểu mô của âm đạo và bất 
thường của tinh hoàn thai nhi. 
 55 
Mặc dù hàng rào nhau thai được xem như là một cơ chế bảo vệ chống 
lại những yếu tố nguy hại, nhưng nhiều virus như rubella, cytomegalovirus, 
Coxsackie, variola, varicella, measles và vius bại liệt – có thể dễ dàng qua 
nhau thai. Một vài virus có thể gây nhiễm làm chết tế bào và dị tật bẩm 
sinh. 
4. MÀNG ỐI VÀ DÂY RỐN 
Tại tuần thứ 5, các cấu trúc đi theo cuống phôi nguyên thủy(xem hình 
4.10A.C): (a) ống mô liên kết, chứa đựng niệu nang và mạch rốn gồm 2 
động mạch và 1 tĩnh mạch; (b) ống noãn hoàng (Vitelline duct), kèm theo 
mạch máu của noãn hoàng; (c) kênh liên kết trong phôi và khoang ngoài 
phôi là khoảng giữa màng ối và đĩa đệm (hình 4.10B) 
Trong suốt thời kỳ phát triển, khoang ối lớn lên nhanh chóng làm 
hẹp dần khoang đệm và khoang ối bắt đầu bao lấy cuống phôi nguyên thủy, 
rồi sau đó phát triển thành dây rốn nguyên thủy (hình 4.10). Phần xa phôi, 
dây rốn chứa đựng ống túi noãn hoàng và các mạch máu rốn. Đoạn gần, nó 
chứa cả một vài quai ruột và vết tích của niệu nang (hình 4.10). Túi noãn 
hoàng được tìm thấy trong khoang ối được liên kết với dây rốn bởi ống của 
nó. Kết thúc tháng thứ 3, màng ối được mở rộng đến tiếp xúc với màng 
đệm, xóa đi khoang đệm, túi noãn hoàng co lại và tiêu biến từ từ. 
Khoang bụng tạm thời quá nhỏ so với sự phát triển nhanh của quai 
ruột nên một số chúng bị đẩy ra khoảng ngoài phôi trong dây rốn. Những 
quai ruột bị đẩy ra với hình thức thoát vị rốn sinh lý. Gần kết thúc tháng 
thứ 3, quai ruột rút vào trong mình phôi, và khoang trong dây rốn bị tiêu 
biến, có 1 chất nền bao quanh các mạch máu của dây rốn được gọi là thạch 
Wharton. Mô này rất giàu proteoglycan có nhiệm vụ bảo vệ các lớp mạch 
rốn. Thành của động mạch có cơ và có chứa nhiều sợi chun có khả năng co 
dãn tốt khi dây rốn co dãn. 
 56 
Hình 4.10. A. Phôi 5 tuần minh họa cấu trúc cuống phôi nguyên thủy. B. 
Dây rốn nguyên thủy lúc thai 10 tuần. C. Cắt ngang qua vòng dây rốn. D. 
Cắt ngang qua dây rốn nguyên thủy thấy quay ruột nhô ra trong dây rốn. 
Tương quan lâm sàng 
Bất thường dây rốn 
Lúc sinh, dây rốn có đường kính khoảng 2cm và dài 50-60cm. Nó thì 
ngoằn ngoèo dễ gây thắt nút. Dây rốn dài có thể quấn cổ của thai, sẽ có ảnh 
hưởng khi phần còn lại ngắn có nguy cơ sanh khó do sức kéo thai về phía 
bám của bánh nhau. 
Khoang 
ối 
Ống túi 
noãn hoàng 
Khoang 
ngoài phôi 
Ống niệu 
nang 
Mạch rốn 
Khoang 
ngoài phôi 
Quai ruột 
Màng ối 
Túi noãn 
hoàng 
Quai ruột 
Mạch ống – 
túi noãn 
hoàng 
Dây 
rốn 
NT 
 57 
Bình thường có 2 động mạch và 1 tĩnh mạch dây rốn. Tuy nhiên, có 
khoảng 1/200 trẻ sơ sinh chỉ có 1 động mạch rốn và trong số này có khoảng 
20% có dị tật tim và mạch bẩm sinh. Mất động mạch rốn là do thiếu sót 
trong quá trình tạo hoặc do thoái hóa sớm trong sự phát triển thai. 
Dây màng ối 
Việc xé rách màng ối tạo ra những dây màng ối mà có thể quấn vòng 
một bộ phận của thai như là chi hoặc ngón, siết chặt gây ra cắt cụt đoạn 
xaViệc tạo dây màng ối có thể do nhiễm trùng hoặc nhiễm độc ảnh 
hưởng đến thai và màng thai hoặc cả hai. Dây màng ối hình thành từ màng 
ối, như mô sẹo, siết chặt các cấu trúc của thai. 
5. SỰ THAY ĐỔI CỦA BÁNH NHAU Ở GIAI ĐOẠN KẾT THÚC 
THAI KỲ 
Thời điểm kết thúc thai kỳ, nhiều sự thay đổi xảy ra ở bánh nhau có 
thể làm giảm bớt sự trao đổi chất giữa hai vòng tuần hoàn. Những thay đổi 
này bao gồm: (a) tăng mô sợi trong lõi của lông nhau, (b) dày màng đáy 
mao mạch thai, (c) trao đổi chỉ có tác dụng ở các mao mạch nhỏ của lông 
nhau, (d) lắng đọng mô sợi trên bề mặt của lông nhau trong vùng chức 
năng và trong đĩa đệm. Mô sợi được hình thành quá mức gây ra nhồi máu ở 
một vài múi nhau, nhìn thấy hơi trắng. 
Hình 4.11 Bất thường 
về chi gây ra bởi dây 
màng ối. A Chi khuyết 
vòng. B Cụt chi 
 58 
6. DỊCH ỐI 
Khoang ối được lấp đầy bởi dịch lỏng và sạch được sản xuất ra bởi 
những tế bào màng ối, nguyên liệu được lấy từ máu mẹ. Lượng dịch ối 
tăng từ 30ml (tuần 10) đến 450ml (tuần 20) và đến 800-1000ml (tuần 37). 
Trong suốt những tháng đầu của thai kỳ, phôi treo lơ lửng bởi đây rốn của 
nó trong dịch này, vai trò là cái đệm bảo vệ quan trọng. Dịch có chức năng 
của dịch ối là: (a) giảm sóc (b) ngăn không cho sự kết dính của phôi với 
màng ối, và (c) cho phép thai cử động dễ dàng. Thể tích dịch ối được thay 
đổi mỗi 3 giờ. Từ đầu tháng thứ 5, thai nuốt nước ối khoảng 400ml/ngày. 
Nước tiểu của thai cũng được thêm vào trong dịch ối ở tháng thứ 5 nhưng 
hầu như chỉ là nước, khi bánh nhau có chức năng thì sẽ thải được những 
chất chuyển hóa. Trong suốt quá trình chuyển dạ, dịch ối trong màng hình 
thành đầu ối giúp cổ tử cung xóa mở. 
 59 
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÔI THAI 
 60 
 61 
 62 
CÂU HỎI LƯỢNG GIÁ 
1. Nhau được hình thành từ phần nào của mẹ và của con? 
2. Tại sao máu thai và máu mẹ không hòa lẫn vào nhau? 
3. Nhau phát triển như thế nào từ khi hình thành đến lúc sinh ra? 
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 
1. PGS.Nguyễn Trí Dũng,. (2009). Phôi thai học đại cương. Nhà xuất 
bản khoa học kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh. 
2. Đỗ Kính và cộng sự. (2001). Phôi thai học người. Nhà xuất bản Y 
học. 
3. T.W. Sadler. Langman’ s medical embryology tenth edition, L. 
Williams & Wikins 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 bai_giang_phoi_thai_hoc_dai_cuong_tran_kim_thuong.pdf bai_giang_phoi_thai_hoc_dai_cuong_tran_kim_thuong.pdf