Bức tượng Hoàng đếHadrianus (Viện Bảo tàng Khảo cổQuốc gia Athena). Vị
vua này bảo trợchàng trai trẻMarcus Aurelius và có lẽcó dựđịnh phong ông làm 
vua kếtục lâu dài của mình.
[70]
Vào năm 127, khi mới 6 tuổi, Marcus Aurelius gia nhập Hiệp sĩ đoàn(ordo 
equester) theo lời kêu gọi của Hoàng đế Hadrianus. Tuy điều này hoàn toàn không 
phải là không có tiền lệ, nhưng so với những đứa trẻkhác cùng gia nhập Hiệp sĩ 
đoàn, tuổi đời của Marcus Aurelius vẫn còn quá nhỏ. Vào năm 128, Marcus 
Aurelius gia nhập nhớm tăng lữcủa nhà Salii. Do những yêu cầu tiêu chuẩn đểgia 
nhập nhóm tăng lữnày không thểđược thực hiện vì cha mẹcủa Marcus Aurelius 
đều đã qua đời, chúng cần phải được xóa bỏbởi chính vua Hadrianus -người đề
cửMarcus Aurelius, như một đặc ân đối với cậu bé.
[71]
Hoàng đếcó thiện cảm với 
cậu bé, nên gọiông là Verissimus, nghĩa là người "đúng đắn nhất".
[72][notes 5]
Về
phần mình, Marcus Aurelius chăm chỉthực hiện những trách nhiệm tôn giáo của 
mình. Ông hoàn thành mọi chức vụgiáo sĩ, đểrồi vươn lên trởthành thủlĩnh của 
nhóm nhaỷ, của nhóm tiên tri (vates), và rồi lên làm người lãnh đạo của Hiệp sĩ 
đoàn
              
                                            
                                
            
 
            
                 20 trang
20 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1705 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Bài thảo luận Marcus Aurelius Antoninus Augustus, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Julianus (332 - 363), khi viết về các đời Hoàng đế trong lịch sử La Mã 
cổ, đã hoàn toàn công nhận Marcus Aurelius là một bậc đại minh quân lần đầu tiên. 
Julianus cho rằng chỉ có mỗi Alexandros Đại Đế là ngang hàng với Marcus 
Aurelius trong chính sử từ xưa đến nay, và ca ngợi ông vì sự bền chí ngang với 
thần linh, vì sự am hiểu sâu sắc của ông về lúc nào nói, lúc nào im, và ông còn có 
tài truyền cảm triết lý đến mức "đưa người khác trở thành chư thần". "Bộc trực và 
không có khuyết điểm nào" (theo Julianus), Hoàng đế Marcus Aurelius không 
những trở thành một bậc đại anh quân đánh phục hơn hẳn các vị vua khác, nhưng 
còn hiền đức hơn họ hẳn. Vị đại minh quân Julianus đã tôn vinh Marcus Aurelius 
hơn hẳn mọi ông hoàng bà chúa khác, và kể rằng đôi mắt và nếp nhăn trên trán của 
ông bộc lộ rõ hiệu lực của những công trình nghiên cứu lâu dài mà ông đã lao đầu 
vào. Ông chỉ có ba vết nhơ là nuông chiều Hoàng hậu Faustina, Hoàng tử 
Commodus và đồng Hoàng đế Lucius Verus - nhưng điều đó thể hiện nhân tính 
của ông, và sự cưng chiều con cái của ông có thể được phân tích như một lỗi lầm 
nhân văn và thánh thiện, mà chính nhà thi hào Homer đã thừa nhận. Thật không hề 
khó hiểu tại sao Julianus lại ngưỡng mộ Marcus Aurelius đến như vậy. Cũng 
giống như vị tiên đế, Julianus là một bậc anh quân, ông cũng chống đối Ki-tô giáo 
như Marcus Aurelius, cũng phải xông pha trên hai mặt trận như Marcus Aurelius, 
và cũng luôn phải đối phó với các man tộc ở phương Bắc. Nói chung, hai vị hiền 
đế này phải nói là vô cùng giống nhau. Trong khi các bậc cố nhân Julius Caesar, 
Augustus và Traianus[27] là những vị anh hùng thượng võ thì Marcus Aurelius lại 
là một ông vua - hiền triết hiếu hòa. [100] 
Quốc vương Friedrich II Đại Đế (1712 - 1786) - một bậc đại anh quân trong lịch 
sử nước Phổ - đã lấy Hoàng đế Marcus Aurelius làm tấm gương sáng để mà noi 
theo.[101] Friedrich II Đại Đế ngưỡng mộ vị Hoàng đế vì ông không chỉ là một nhà 
chỉ huy quân sự đại tài mà còn là một nhà triết học, đã phê phán sự phù phiếm của 
người đời.[22] Friedrich II Đại Đế không những noi theo tấm gương ngời sáng của 
Marcus Aurelius mà còn quy tụ các nhà hiền triết lỗi lạc của thời đại về cung đình 
Potsdam, do đó sự anh minh của nhà vua nước Phổ cũng khiến cho đại văn hào 
nước Pháp Voltaire, cũng so sánh ông với bậc đại minh quân Marcus Aurelius 
năm xưa.[102][103] Khi thân chinh đốc xuất binh mã đi chinh phạt mở cõi, nhà vua 
thường trích dẫn những câu nói của vị vua - hiền triết La Mã xưa để biện hộ cho 
"Cuộc chiến tranh chính nghĩa".[104] Song, tuy Marcus Aurelius đã thân chinh đánh 
những trận kịch chiến, vị vua - hiền triết nước Phổ ngưỡng mộ ông hơn hết vì ông 
là một nhà triết học Khắc Kỷ chứ không phải là một thống soái ba quân. Nhất là 
khi Quốc vương Friedrich II Đại Đế phải liên tục thân chinh đánh cường địch 
trong cuộc Chiến tranh Bảy Năm (1756 - 1763), cứ mỗi lúc bại trận ông thường 
cảm thấy hứng khởi hơn nhờ vào triết học Khắc Kỷ của vị Hoàng đế La Mã năm 
xưa, để hồi phục lại với ý chí quyết đấu tranh tới cùng.[105] Trong thời bình, ông 
mong muốn được làm một minh quân thâm sâu triết lý giống như tiền bối Marcus 
Aurelius.[106] Trong thư viện của ông tại điện Vô Ưu ở kinh thành Potsdam, nhà 
vua có tạc một bức tượng nhỏ Marcus Aurelius[28] - vị Hoàng đế gắn bó với triết 
học.[107] Đồng thời đại với ông, tại Tòa Thánh La Mã Giáo hoàng Biển Đức (1676 
- 1758), do am hiểu văn chương sâu sắc, cũng được coi là một vị vua - hiền triết 
giống như Marcus Aurelius năm xưa. [108] 
[ ] Gia đình 
Tượng Faustina Trẻ tại bảo tàng Louvre, Paris (Pháp. 
Marcus Aurelius Antoninus kết hôn với cô em họ là Faustina Trẻ vào năm 145. 
Trong 30 năm chung sống với nhà vua, Faustina đã sinh hạ cho ông 13 đứa con. 
Sau khi ông qua đời, chỉ có một người con trai và bốn người con gái còn sống: 
1. Annia Aurelia Galeria Faustina (147 - sau năm 165) 
2. Gemellus Lucillae (chết khoảng năm 150), anh sinh đôi của Lucilla 
3. Annia Aurelia Galeria Lucilla (148/150 - 182), em họ của Gemellus, kết 
hôn với đồng Hoàng đế của Marcus Aurelius là Lucius Verus 
4. Titus Aelius Antoninus (sinh sau năm 150, chết trước ngày 7 tháng 3 năm 
161) 
5. Titus Aelius Aurelius (sinh sau năm 150, chết trước ngày 7 tháng 3 năm 
161) 
6. Hadrianus (152–157) 
7. Domitia Faustina (sinh sau năm 150, chết trước ngày 7 tháng 3 năm 161) 
8. Annia Aurelia Fadilla (159 - sau năm 211) 
9. Annia Cornificia Faustina Minor (160 - sau năm 211) 
10. Titus Aurelius Fulvus Antoninus (161 – 165), anh sinh đôi của vua 
Commodus 
11. Lucius Aurelius Commodus Antoninus (Commodus) (161 – 192), em sinh 
đôi của Titus Aurelius Fulvus Antoninus, sau này là Hoàng đế La Mã 
12. Marcus Annius Verus Caesar (162 – 169) 
13. Vibia Aurelia Sabina (170 - chết trước năm 217) 
[ ] Tác phẩm của Marcus Aurelius 
Wikisource có văn bản gốc liên quan đến bài viết: 
{{{3}}} 
Trong khi phải thân chinh lâm trận từ năm 170 cho đến năm 180, vị Hoàng đế đã 
ngự bút viết tác phẩm "Suy ngẫm" (Meditations) bằng tiếng Hy Lạp, để tự giảng 
dạy chính mình, và để cải tiến cho bản thân minh. Đây là một trong những tác 
phẩm quan trọng nhất về những suy tư và châm ngôn. Chúng ta không rõ là ông có 
muốn xuất bản tác phẩm này ra hay là không?[109] Cái tựa "Suy ngẫm" là do người 
ta đặt cho sau khi nhà vua ra đi về cõi vĩnh hằng, chứ ông chỉ đặt tựa cho công 
trình này là: "Gửi đến chính Quả Nhân", chỉ đơn giản vậy thôi. Ông đã từng làm 
giáo sĩ trong những lễ cúng tế lớn của người La Mã và cũng là một nhà yêu nước 
thiết tha. Ông có hệ tư tưởng của riêng mình và những ghi chép của ông thể hiện 
tinh thần và triết lý Khắc Kỷ. Cho đến nay, Suy ngẫm vẫn được tôn vinh là công 
trình văn chương đồ sộ viết về nhiệm vụ và phẩm hạnh của Chính phủ. Cuốn sách 
này là tác phẩm yêu thích của vị vua - hiền triết nước Phổ Friedrich II Đại Đế (một 
"Marcus Aurelius đời mới" lẫy lừmg[110][111]), nhà triết học nước Anh John Stuart 
Mill, thi sĩ nước Anh Matthew Arnold, đại thi hào Đế quốc La Mã Thần thánh dân 
tộc Đức Johann Wolfgang von Goethe và Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo.[112] 
Vào năm 1992, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton được phỏng vấn xem ông yêu 
thích quyển sách nào nhất? Và, ông có hồi đáp rằng ông thích cuốn "Suy ngẫm" 
của Hoàng đế Marcus Aurelius. Trong suốt nhiệm kỳ Tổng thống của mình, Bill 
Clinton đã đọc đi đọc lại cuốn sách của bậc minh quân La Mã xưa. [98] 
Người ta vẫn không thể hiểu rằng tác phẩm của Marcus Aurelius được truyền bá 
rộng rãi đến cỡ nào sau khi ông mất. Trong cổ văn, có những ghi chú rời rạc về sự 
mến mộ của người đời đối với những lời di huấn của ông, và Hoàng đế Julianus dù 
rất hâm mộ tiền bối Marcus Aurelius năm xưa, ông không có một đề cập chi tiết 
nào đến tác phẩm "Suy ngẫm".[113] Chính cuốn sách này, dù đã được đề cập trong 
những bức thư của Arethas xứ Caesarea vào thế kỷ thứ X và trong Bách khoa từ 
điển Suda của Đế quốc Đông La Mã, được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1558 tại 
thành phố Zurich (Đế quốc La Mã Thần thánh) bởi Wilhelm Holzmann, từ một 
bản sao chép tay đã mất ngày nay.[114] Một bản sao hoàn chỉnh duy nhất còn tồn tại 
là văn kiện trong Thư viện Vatican. Trong thời hiện đại, tác phẩm này trở thành tài 
liệu được đọc nhiều nhất về triết học Khắc Kỷ. [115] 
[ ] Ghi chú 
1. ^ Ông có tên khai sinh là Marcus Annius Catilius Severus (hoặc có thể là 
Marcus Catilius Severus).[1] Khi ông lấy vợ, ông có tên là Marcus Annius 
Verus,[2] và khi ông lên ngôi hoàng đế, ông được đặt tên là Marcus Aurelius 
Antoninus. 
2. ^ Cassius Dio asserts that the Annii were near-kin of Hadrian, and that it 
was to these familial ties that they owed their rise to power.[42] The precise 
nature of these kinship ties is nowhere stated. One conjectural bond runs 
through Annius Verus (II). Verus' wife Rupilia Faustina was the daughter 
of the consular senator Libo Rupilius Frugi and an unnamed mother. It has 
been hypothesized Rupilia Faustina's mother was Matidia, who was also the 
mother (presumably through another marriage) of Vibia Sabina, Hadrian's 
wife.[43] 
3. ^ Farquharson kể rằng ông mất vào năm 130, khi Marcus Aurelius đã 9 
tuổi.[50] 
4. ^ Nguyên văn HA Marcus viết là "Eutychius", nhưng Birley chỉnh thành 
"Tuticius".[65] 
5. ^ Others put a harsher light on Hadrian's nickname. McLynn calls it an 
example of Hadrian's waspish (McLynn says "vespine") wit and adduces it 
in support of his contention that Marcus was a "prig".[73] 
6. ^ Birley, following the textual and epigraphic citations, concludes that he 
might only have seen Rome in 127, briefly in 128, and in 131.[75] 
7. ^ Commodus was a known consumptive at the time of his adoption, so 
Hadrian may have intended Marcus' eventual succession anyways.[84] 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 lich_su_68__1362.pdf lich_su_68__1362.pdf