Người Sarmatia vẫn còn là một lực lượng mà người La Mã phải đểtâm tới vào 
cuối thếkỷ4. Ammianus Marcellinus(29.6.13-14) miêu tảmột sốthất bại, mà 
những kẻcướp Sarmatia gây ra cho các lực lượng La Mã tại tỉnh Valeria ở
Pannoniavào cuối năm 374. Người Sarmatia gần như đã tiêu diệt cảquân đoàn lê 
dương được tuyển mộtừ Moesiavà một quân đoàn khác từPannonia, được gửi 
đến đểchặn đứng một toán người Sarmatia đang truy kíchmột quan chức La Mã 
cấp cao có tên gọi là Aequitius vào sâu trong lãnh thổLa Mã. Hai quân đoàn này 
đã không có sựphối hợp và mối bất hòa giữa họđã cho phép người Sarmatia có 
thểgiáng cho họmột đòn choáng váng
              
                                            
                                
            
 
            
                 19 trang
19 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1416 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Bài thảo luận Người Sarmatia, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Người Sarmatia 
Sự trải rộng gần đúng của ngữ hệ Đông Iran trong 
thế kỷ 1 TCN được tô màu vàng cam. 
Tổng dân số 
Không rõ 
Khu vực đông người sinh sống 
Đông Âu 
Trung Á 
Tây Á 
bắc Ấn Độ 
Ngôn ngữ 
tiếng Scythia 
Tín ngưỡng 
Vật linh 
Nhóm dân tộc liên quan 
 Người Sarmatia 
 Người Dahae 
 Người Saka 
 Người Ấn-Scythia 
 Người Massagetae 
Người Sarmatia, người Sarmatae hay người Sauromatae (tiếng Iran cổ 
Sarumatah 'người bắn cung'[1]) là dân tộc có nguồn gốc từ Iran[2][1]. Như được các 
tác giả cổ đại đề cập tới, họ đã di cư từ Trung Á tới khu vực dãy núi Ural vào 
khoảng thế kỷ 5 TCN và cuối cùng định cư tại vùng xa nhất về phía nam thuộc 
châu Âu của Nga, Ukraina và miền đông Balkan. 
Pliny Già[3] đã viết rằng tên gọi trong tiếng Latinh Sarmatae là đồng nhất với từ 
trong tiếng Hy Lạp Sauromatae. Khi trải rộng nhất như đã được thuật lại, các bộ 
lạc này sinh sống từ khu vực sông Vistula tới cửa sông Danub và về phía đông tới 
sông Volga, và từ lãnh thổ huyền bí của người Hyperborea ở phía bắc, kéo dài về 
phía nam tới bờ biển Đen (Hắc Hải) và biển Caspi, bao gồm cả khu vực nằm giữa 
chúng và xa tới vùng dãy núi Kavkaz[4]. Số lượng nhiều và đa dạng nhất các ngôi 
mộ cũng như các đồ tạo tác Sarmatia có ý nghĩa nhất được tìm thấy tại Krasnodar 
krai của Nga. 
"Sarmatia Europæa" tách ra từ "Sarmatia Asiatica" bởi sông Tanais (sông Đông), 
dựa trên các nguồn tài liệu Hy Lạp, trong bản đồ in tại London, khoảng năm 1770. 
Tên gọi cũ của Paraćin (Paratjin) ở Serbia là Sarmatae. 
Có lẽ không phải ngẫu nhiên là ranh giới của cái gọi là đường đồng ngữ Centum-
Satem trong ngữ hệ Ấn-Âu dường như là chia tách tại biên giới phía châu Âu của 
người Sarmatia. 
Vào khoảng năm 100 TCN, vùng đất của người Sarmatia trải dài từ biển Barents 
hoặc biển Baltic ("Oceanus Sarmaticus") qua vùng các sông nhánh của sông 
Vistula, tới dãy núi Carpath và cửa sông Danub, sau đó về phía đông dọc theo 
vùng bờ biển phía bắc của biển Đen, ngang qua vùng Kavkaz tới biển Caspi và 
quay trở lại phía bắc dọc theo sông Volga tới vòng Bắc cực. 
Người Sarmatia đã phát triển thịnh vượng từ thời của Herodotus và liên minh phần 
nào với người Hung khi họ đến đây trong thế kỷ 4. 
Một trào lưu niềm tin phổ biến (chủ nghĩa Sarmatia) trong Liên bang Ba Lan-Litva 
trong giai đoạn từ thế kỷ 16 tới thế kỷ 19, cho rằng đẳng cấp quý tộc là hậu duệ 
trực tiếp của người Sarmatia. Tuy nhiên không có chứng cứ cụ thể nào hỗ trợ cho 
tuyên bố như vậy. 
Mục lục 
 1 Khảo cổ và dân tộc học 
 2 Lịch sử 
o 2.1 Herodotus 
o 2.2 Hippocrates 
o 2.3 Strabo 
o 2.4 Pliny Già 
o 2.5 Tacitus 
o 2.6 Ptolemy 
o 2.7 Pausanias 
o 2.8 Các chữ khắc Hắc Hải 
o 2.9 Ammianus Marcellinus 
o 2.10 Kết thúc thời cổ đại 
 2.10.1 Đại chiến dịch của Constantine năm 332 
 2.10.2 Đại chiến dịch của Constantine năm 334 
 3 Di truyền học 
 4 Nghiên cứu gần đây 
 5 Các bộ lạc đôi khi được coi là người Sarmatia 
 6 Tên gọi 
 7 Xem thêm 
 8 Thư viện 
 9 Liên kết ngoài 
 10 Tham khảo và ghi chú 
[ ] Khảo cổ và dân tộc học 
 Đại thảo nguyên Á-Âu ở Kazakhstan vào đầu mùa xuân. 
Năm 1947, nhà sử học hàng đầu của Liên Xô là Boris Grakov đã định nghĩa một 
nền văn hóa xuất hiện vào giai đoạn của các mồ mả kiểu kurgan giai đoạn cuối, 
đôi khi tái sử dụng một phần của các kurgan cổ hơn. Nó là nền văn hóa thảo 
nguyên du mục trải dài từ biển Đen tới phía bờ kia sông Volga, và đặc biệt rõ nét 
tại hai trong số các di chỉ chính tại Kardaielova và Chernaya trong vùng thảo 
nguyên xuyên Ural. 
Niên đại và vị trí của nền văn hóa này (từ thế kỷ 7 TCN tới thế kỷ 4) là đồng thời 
với các thông tin dạng văn viết mà người ta có về người Sarmatia. Theo Grakov, 
người ta định nghĩa 4 giai đoạn: 
1. Sauromatia, thế kỷ 6 - 5 TCN 
2. Tiền Sarmatia, thế kỷ 4 - 2 TCN 
3. Trung Sarmatia, cuối thế kỷ 2 TCN tới cuối thế kỷ 2 
4. Hậu Sarmatia: cuối thế kỷ 2 tới thế kỷ 4 
Người Sarmatia theo ghi chép của Ptolemy là thuộc giai đoạn Trung Sarmatia. Tuy 
nhiên, Sarmatia theo như Grakov không trải rộng tất cả vào khu vực Balt-Slav, tại 
đó hai thành phần này có các dấu tích khảo cổ học riêng của chính chúng, do 
người Balt và người Slav để lại. 
Đã bám chắc về phía tây tại khu vực miền đông châu Âu, người Hung sinh sống 
tại khu vực phía bắc của người Alan và kéo dài về phía đông tới biên giới với nhà 
Hán ở Trung Quốc. Những người Hung này là các đối tác thương mại ưa chuộng 
hòa bình của người Alan (những người ưa thích chiến tranh). Các di tích khảo cổ 
cho thấy kiểu cách sống của họ gần như không thể phân biệt với kiểu cách sống 
của người Alan. Các dân tộc khác nhau của vùng đồng bằng rộng lớn miền đông 
đã tạo ra các ấm đun nước bằng đồng thiếc rất đặc trưng của chính mình. Bên cạnh 
đó, các ngôi mộ của dân cư Trung Á, bao gồm cả của người Hung, chứa các di tích 
mà nhiều người tin là có các đặc trưng hỗn hợp, cũng giống như là các dân tộc 
Trung Á ngày nay. 
Dù điều gì đã xảy ra ở miền đông để đưa các chiến binh từ đó (người Hung) tới 
chỗ người Alan thì nó cũng không đưa vào vùng thảo nguyên (hoặc châu Âu) một 
dân tộc mới. Cho đến tận khi người Sarmatia phải e ngại, thì sự thêm vào các yếu 
tố Hung từ phía đông chỉ tạo ra sự đảo ngược sắc tộc trong địa vị thống trị. Một số 
người Alan lựa chọn cách chạy tới chỗ của người La Mã còn những người Alan 
khác thì chiến đấu cho người Hung. Nhóm thứ nhất đã biến mất trong lòng châu 
Âu từ lâu, trong khi nhóm ở lại thì còn tồn tại trong khu vực Kavkaz (Xem người 
Alan). 
[ ] Lịch sử 
[ ] Herodotus 
Herodotus trong cuốn Histories phần 4.21 của ông, viết vào thế kỷ 5 TCN, coi 
vùng đất của người Sarmatia là nằm ở phía đông của sông Tanais, bắt đầu từ góc 
giáp hồ Maeotae (biển Azov), kéo dài về phía bắc trong hành trình khoảng 15 
ngày đi đường, cận kê với vùng đồng rừng của người Budini. Herodotus mô tả 
người Sarmatia về bề ngoài như là những người mập mạp, tóc vàng, da rám nâu, 
nói ngắn gọn thì hơi giống như người Scythia và người Thrace được các tác giả cổ 
đại khác nhìn nhận. 
Herodotus (4.110-117) thuật lại nguồn gốc dân tộc kỳ cục của người Sauromatae 
(Σαυρομάτης có nghĩa từ nguyên học là "người có mắt giống mắt thằn lằn", có thể 
là do các đặc trưng mắt hình quả hạnh của người châu Á), như là các hậu duệ của 
một toán người Scythia trẻ và một nhóm các Amazon (nữ chiến binh). Trong sử 
sách, một số Amazon bị người Hy Lạp bắt được trong các trận đánh tại Pontus 
(miền bắc Thổ Nhĩ Kỳ) gần sông Thermodon, và những tù nhân này được chở trên 
ba chiếc thuyền. Họ đã chiến thắng những người bắt giữ họ khi ở trên biển, nhưng 
lại không là các thủy thủ có khả năng. Các chiếc thuyền của họ đã trôi dạt về phía 
bắc tới hồ Maeotae (biển Azov) và dạt vào bờ phía Scythia gần khu vực vách núi 
đá (ngày nay là đông nam Krym). Sau khi gặp gỡ với người Scythia và học tiếng 
Scythia, họ đồng ý lấy những người đàn ông Scythia, nhưng chỉ với điều kiện là 
họ sẽ dọn đi xa và không buộc phải tuân theo các tập quán của phụ nữ Scythia. 
Theo Herodotus, hậu duệ của toán người này đã định cư ở phía đông bắc, phía bên 
kia bờ sông Tanais và trở thành người Sauromatia. Miêu tả của Herodotus giải 
thích về nguồn gốc của tiếng Sarmatia như là dạng "pha tạp" của tiếng Scythia 
cũng như là quyền tự do bất thường của phụ nữ Sauromatae, bao gồm quyền tham 
gia vào các trận chiến, cũng như quyền thừa kế từ các tổ tiên được cho là các 
Amazon của họ. Các tác giả sau này nói tới "người Sarmatae do nữ giới cai trị" 
(γυναικοκρατούμενοι). 
[ ] Hippocrates 
Hippocrates trong De Aere 24 đã phân loại người Sarmatia một cách dứt khoát 
như là người Scythia. 
[ ] Strabo 
Strabo đề cập tới người Sarmatia tại một số chỗ, nhưng không nói nhiều về họ. 
Ông sử dụng cả từ Sarmatai lẫn từ Sauromatai, nhưng không cùng nhau và cũng 
không gợi ý rằng họ là các dân tộc khác nhau. Ông thường đặt người Sarmatia và 
người Scythia thành cặp đôi trong tham chiếu tới một loạt các tên gọi sắc tộc, 
nhưng không nói rõ ai là ai, mặc dù từ Sarmatia hay Scythia có thể áp dụng tương 
đương tới các sắc tộc này một cách tổng thể. 
Theo cách diễn giải của Strabo thì người Sarmatia trải rộng từ phía trên sông 
Danub về phía đông tới sông Volga, và từ phía bắc sông Dnepr tới vùng Kavkaz, 
mà tại đó, như ông nói, họ được gọi là người Kavkaz giống như những giống 
người khác tại đó. Miêu tả này chỉ ra rằng người Alan đã có quê hương tại vùng 
Kavkaz mà không phải đợi đến khi người Hung ép họ phải dời tới đó. 
Có giá trị đáng kể hơn là ông đã chỉ ra sự hỗn hợp Celt trong khu vực của người 
Basternae, những người, như ông viết, có nguồn gốc Đức. Các bộ lạc Boii, 
Scordisci và Taurisci dạng Celt cũng có mặt tại đây. Thành phần sắc tộc thứ tư khi 
đó đang biến mất đi là người Thrace (7.3.2). Ngoài ra, các dân tộc về phía bắc là 
người Keltoskythai, hay "người Scythia Celt" (11.6.2). 
Strabo cũng mô tả các dân tộc trong khu vực như là dân du mục, hay Hamaksoikoi, 
"người ở trên xe ngựa" và Galaktophagoi, "người ăn sữa" để chỉ, chắc chắn không 
còn nghi ngờ, tới món sữa ngựa chua (kumis) phổ thông được người ta ăn trong 
khoảng thời gian lịch sử này. Các cỗ xe được sử dụng để vận chuyển các lều trại 
làm từ phớt, là các yurta (lều của dân du mục) được các bộ lạc du mục châu Á sử 
dụng rộng rãi. 
[ ] Pliny Già 
Tacitus không phải nhà quân sự La Mã duy nhất chú ý tới người Sarmatia. Pliny 
Già, dựa trên các tin tức tình báo từ các trạm quân sự La Mã ở phía bắc (vào thời 
gian đó hổ phách từ vùng Baltic được các đại lý La Mã thu mua tại chỗ), cung cấp 
sự trình bày chỉ rõ nhất đặc trưng của người Sarmatia (4.12.79-81): 
 Từ điểm này (cửa sông Danub) tất cả các chủng tộc nói chung là người Scythia, 
mặc dù các phân chi khác nhau đã chiếm lĩnh các vùng đất cận kề vùng bờ biển, 
tại chỗ này là người Getae ... tại chỗ khác là người Sarmatae ... Agrippa miêu tả 
toàn bộ khu vực này từ sông Danub tới biển ... cho tận đến sông Vistula theo 
hướng của sa mạc Sarmatia ... Tên gọi người Scythia đã trải rộng ra theo mọi 
hướng, cho tận đến [chỗ của] người Sarmatae và người Đức, nhưng tên gọi cũ 
này không còn tiếp tục cho bất kỳ giống người nào khác, ngoại trừ các khu vực ở 
ven rìa nhất .... 
Đoạn này dường như chỉ ra cho người ta biết rằng người Scythia hoặc sự cai trị 
của họ đã từng trải rộng tới chỗ của người Đức, nhưng hiện nay chỉ còn lại tại các 
vùng xa. Jordanes (thế kỷ 6) ủng hộ giả thuyết này bằng việc viết ra rằng, một mặt 
ông khá thông thuộc Geography của Ptolemy, trong đó gộp toàn bộ lãnh thổ Balt-
Slav trong Sarmatia, và mặt khác rằng cùng một khu vực này chính là Scythia. Với 
từ "Sarmatia", Jordanes chỉ muốn nói tới vùng lãnh thổ người Arya. Người 
Sarmatia vì thế không phải là người Scythia. 
[ ] Tacitus 
Sách De Origine et situ Germanorum của Tacitus nói về “nỗi e ngại chung” giữa 
các sắc tộc Đức và người Sarmatia: 
Tất cả lãnh thổ Germania được phân chia từ Gaule, Raetia, và Pannonia bởi các 
sông Rhine và Danub; từ người Sarmatia và người Dacia bởi nỗi e ngại chung và 
các dãy núi. Đại dương che phủ phần còn lại, bao gồm các vịnh rộng và các dải 
đảo rộng lớn. Chỉ gần đây, chúng ta mới biết về các bộ lạc và các vị vua nhất định, 
mà cuộc chiến của họ đã được đưa ra ánh sáng.[5] 
Theo Tacitus, giống như người Ba Tư, người Sarmatia mặc áo choàng dài, rủ 
xuống (chương 17). Ngoài ra, người Sarmatia thu các cống phẩm từ người Cotini 
và Osi và sắt từ người Cotini (chương 43) "vì sự xấu hổ của họ" (có lẽ là do họ có 
thể sử dụng sắt để vũ trang cho chính mình và để kháng cự). 
[ ] Ptolemy 
Vào thế kỷ 3 TCN, tên gọi Sarmatia dường như đã thay thế cho tên gọi Scythia 
trong vùng đồng bằng của khu vực ngày nay là miền nam Ukraina. Nhà địa lý 
Ptolemy miêu tả về họ ở thời điểm có lẽ khi họ mở rộng nhất, phân chia thành các 
khu vực châu Âu và Trung Á cận kề. Lưu ý tới sự chồng chéo trong tên gọi các bộ 
lạc của người Scythia và người Sarmatia, có lẽ không có sự thay thế mới nào đã 
diễn ra. Dân tộc có lẽ vẫn chỉ là người Ấn-Âu như họ đã từng là như vậy, nhưng 
với tên gọi khác. 
[ ] Pausanias 
Muộn hơn, Pausanias, xem xét các đồ lễ tạ gần Acropolis Athens trong thế kỷ 2 
(Description of Greece 1.21.5-6), đã tìm thấy trong số đó các giáp che ngực của 
người Sauromatae. 
Khi nhìn những người này, người ta sẽ nói rằng họ là những người nước ngoài 
khéo léo không kém hơn người Hy Lạp trong nghệ thuật: do người Sauromatae 
không có sắt, bởi họ chẳng khai thác mà cũng chẳng nhập khẩu. Trên thực tế, họ 
không có quan hệ giao thiệp nào với những người nước ngoài xung quanh họ. Để 
thỏa mãn sự thiếu hụt này họ đã nghĩ ra các sáng kiến. Thay cho sắt họ sử dụng 
xương để làm các mũi giáo, và gỗ sơn thù du để làm cung tên, với các mũi nhọn 
bằng xương cho các mũi tên. Họ ném thòng lọng xung quanh kẻ thù khi họ gặp, và 
sau đó quay tròn ngựa của họ xung quanh để làm kẻ thù bị mắc trong thòng lọng. 
Các giáp che ngực của họ làm theo kiểu sau. Mỗi người đàn ông nuôi giữ nhiều 
ngựa cái, do đất đai không được chia thành các định phần tư nhân, bởi chúng 
chẳng có gì khác ngoài các cây dại, vì những người này là dân du mục. Những 
con ngựa cái này không chỉ được dùng cho chiến tranh, mà còn để hiến tế cho các 
vị thần địa phương và để ăn thịt. Họ thu thập móng guốc của chúng, làm vệ sinh 
sạch sẽ, bổ ra và làm từ chúng như thể chúng là vảy của con trăn. Những người 
chưa bao giờ nhìn thấy trăn ít nhất cũng đã nhìn thấy nón thông còn xanh. Anh ta 
sẽ không sai nếu so sánh sản phẩm từ móng ngựa với các mảnh nhìn thấy trên nón 
thông. Họ đeo các mảnh này và khâu chúng lại với nhau bằng gân ngựa và bò, và 
sử dụng chúng như là giáp che ngực, cũng đủ đẹp và vững chắc như giáp che 
ngực của người Hy Lạp. Để họ có thể chống lại những cú đâm và những gì tấn 
công trong trận đánh giáp lá cà. 
Miêu tả của Pausanias được xác minh trong các hình khắc từ Tanais. Những thực 
tế này không nhất thiết phải là không tương thích với miêu tả của Tacitus, do 
người Sarmatia ở miền tây có thể phải dành dụm sắt của họ cho chính mình, nó 
từng là mặt hàng khan hiếm tại các vùng đồng bằng. Nếu đúng, sự kiện này chứng 
tỏ sự thiếu vắng chính quyền trung ương hay thậm chí là sự giao thiệp kém (trái 
với người Ba Tư). 
[ ] Các chữ khắc Hắc Hải 
Một phần lớn các tên gọi nước ngoài xuất hiện trong các chữ khắc khu vực Olbia, 
Tanais và Panticapaeum được coi là của người Sarmatia, và do chúng được diễn 
giải khá tốt bằng thứ tiếng Iran hiện nay được người Ossetia vùng Kavkaz (tiếng 
Ossetia) sử dụng, những người được coi là đại diện ngày nay của người Sarmatia 
và có thể thấy là có mối liên hệ trực tiếp với người Alan, một trong các bộ lạc của 
họ. 
[ ] Ammianus Marcellinus 
Người Sarmatia vẫn còn là một lực lượng mà người La Mã phải để tâm tới vào 
cuối thế kỷ 4. Ammianus Marcellinus (29.6.13-14) miêu tả một số thất bại, mà 
những kẻ cướp Sarmatia gây ra cho các lực lượng La Mã tại tỉnh Valeria ở 
Pannonia vào cuối năm 374. Người Sarmatia gần như đã tiêu diệt cả quân đoàn lê 
dương được tuyển mộ từ Moesia và một quân đoàn khác từ Pannonia, được gửi 
đến để chặn đứng một toán người Sarmatia đang truy kích một quan chức La Mã 
cấp cao có tên gọi là Aequitius vào sâu trong lãnh thổ La Mã. Hai quân đoàn này 
đã không có sự phối hợp và mối bất hòa giữa họ đã cho phép người Sarmatia có 
thể giáng cho họ một đòn choáng váng. 
[ ] Kết thúc thời cổ đại 
Xem thêm: Người Alan và Người Ossetia 
Người Sarmatia vẫn còn duy trì sự thống trị cho tới tận khi có uy thế của người 
Goth trong khu vực biển Đen và sau đó đã biến mất khi người Hung tiêu diệt đế 
quốc của người Goth và sau đó xâm lăng Trung Âu. Từ các cơ sở tại Hungary 
ngày nay, người Hung đã cai trị toàn bộ vùng lãnh thổ trước đây là của người 
Sarmatia. Các thành phần hợp thành khác nhau của họ có được thuở bình sinh 
dưới sự cai trị của người Hung, đã chiến đấu vì người Hung để chống lại liên quân 
La Mã-Đức, và đã rẽ theo con đường của chính mình sau trận Chalons, sau cái 
chết của Attila và sự biến mất các yếu tố cai trị của người Chuvash ở phía tây sông 
Volga. 
Điều này mâu thuẫn với Priscus, người nhìn thấy nhiều người Scythia 'hạnh phúc' 
xung quanh Attila. Họ đóng một vai trò đáng kể trong sự nổi lên của nước Nga sơ 
kỳ. 
[ ] Đại chiến dịch của Constantine năm 332 
Người Goth đã tấn công các bộ lạc Sarmatia ở phía bắc sông Danub (ngày nay là 
Romania). Hoàng đế La Mã Constantine đã cho gọi Flavius Claudius Constantinus 
từ Galia về để chỉ huy chiến dịch. Trong thời tiết rất lạnh thì chiến thắng của 
người La Mã là áp đảo, 100.000 người Goth bị giết và Ariaricus - con trai của vua 
Goth đã bị bắt sống[6][7][8]. 
[ ] Đại chiến dịch của Constantine năm 334 
Cố gắng ngăn chặn sự mở rộng của người Goth ở phía bắc vùng Hạ Danub 
(Romania ngày nay), người Sarmatia đã vũ trang cho các nô lệ của mình. Sau 
chiến thắng của La Mã thì cư dân địa phương đã nổi dậy chống lại các chủ nhân 
Sarmatia, buộc người Sarmatia phải rời xa biên giới với La Mã. Người Sarmatia 
nhờ Constantine giúp đỡ. Constantine đã đánh bại Limigantes, thủ lĩnh của cuộc 
nổi dậy, và dọn dân Sarmatia đến. Tại các tỉnh của La Mã, những chiến binh được 
tuyển vào quân đội La Mã còn cư dân còn lại thì được phân bố vào Thracia, 
Macedonia và Italy. Origo Constantini đề cập tới 300.000 người tị nạn trong hoạt 
động này. Sau đó hoàng đế Constantine lấy tước hiệu Sarmaticus 
Maximus.[9][10][11][12][13] 
[ ] Di truyền học 
ADN cổ đại của 13 di hài Sarmatia từ các kurgan Pokrovka và Meirmagul đã được 
tách ra cho phân tích so sánh. Phần lớn các dấu vết di truyền học đã được xác định 
là có nguồn gốc từ miền tây Á-Âu, trong khi chỉ có một ít có nguồn gốc từ 
Trung/Đông Á[14]. 
[ ] Nghiên cứu gần đây 
Trong khai quật gần đây tại các di chỉ Sarmatia của tiến sĩ Jeannine Davis-Kimball, 
một ngôi mộ đã được tìm thấy trong đó các nữ chiến binh được chôn cất, vì thế nó 
tăng thêm độ tin cậy cho các huyền thoại về các Amazon.Các Amazon được nói 
tới như là các bà vợ của người Sauromatae. 
Tại Hungary, một trung tâm gốm lớn Hậu Sarmatia đã được khai quật giai đoạn 
2001-2006 gần Budapest, ở di chỉ khảo cổ Üllő5. Đồ gốm Üllő5 thường màu xám, 
dạng hạt tạo thành một nhóm khác biệt của đồ gốm Sarmatia được tìm thấy ở 
nhiều nơi tại phần bắc-trung của khu vực đồng bằng Đại Hungary, chỉ ra hoạt 
động thương mại sinh động. Bài báo gần đây về nghiên cứu các chuỗi hạt thủy 
tinh tìm thấy trong các mồ mả Sarmatia gợi ý về các mối liên kết văn hóa và 
thương mại[15]. 
Những người Sarmatia này có lẽ là người Iran có quan hệ bà con thân thuộc với 
người Scythia/người Saka. Hàng loạt các tên gọi cá nhân nguồn gốc tiếng Iran 
trong các chữ khắc Hy Lạp từ vùng duyên hải biển Đen chỉ ra rằng người Sarmatia 
ở đây nói thứ phương ngữ đông bắc Iran có liên quan tới tiếng Sogdiana và tiếng 
Ossetia. 
Giống như người Scythia, người Sarmatia có bề ngoài của người dân vùng Kavkaz. 
Trước khi có sự xuất hiện của người Hung ở đây, người ta cho rằng chỉ rất ít cư 
dân thảo nguyên miền tây có các đặc trưng châu Á hoặc Turk-Mông Cổ[16]. 
[ ] Các bộ lạc đôi khi được coi là người Sarmatia 
Dưới đây là danh sách các bộ lạc được các tác giả cổ đại khác nhau coi là thuộc 
dân tộc gọi là người Sarmatia, hoặc thuộc về lãnh thổ được coi là Sarmatia[17]. Lưu 
ý rằng sự sáp nhập chính trị và sắc tộc của người Sarmatia cũng như lãnh thổ của 
họ dao động theo thời gian. Các tác giả không nhận dạng được toàn bộ các bộ lạc. 
 Abii, Achaei, Acibi, Agathyrsi, Agoritae, Alan (Alauni, Halani, Alanorsi), 
Alontae, Amadoci, Amaxobi, Amazones, Anartophracti, Antae, Aorsi 
(Adorsi, Alanorsi), Arichi, Arsietae, Asaei, Aspurgiani, Atmoni, Avarini 
 Basilici, Basternae, Biessi, Bosporani, Bodini, Borusci, Burgiones 
 Carbones, Careotae, Cariones, Carpians, Caucasii, Cercetae, Chaenides, 
Choroatos, Chuni, Cimmerians, Costoboci, Conapseni 
 Diduri 
 Exobygitae 
 Fenni (Tacitus không chắc chắn rằng Fenni là người Sarmatia hay người 
Đức) 
 Galactophagi, Galindae, Gelones, Gerri, Gevini, Venedae Lớn, Gythones 
 Hamaksoikoi, Heniochi, Hippemolgi, Hippophagi, Hippopodes, người 
Hyperborea, Horouathos hoặc Horouatos 
 Iaxamatae, Iazyges, Igylliones, Isondae 
 Materi, Melanchlaeni hoặc Melanchlani, Metibi, Modoca, Mysi 
 Nasci, Navari, Nesioti 
 Ombrones, Ophlones, Orinei, Osili, Ossi 
 Pagyritae, Perierbidi, Peucini, Piengitae, Phrungundiones, Phthirophagi, 
Psessi 
 Rheucanali, Rhoxolani 
 Saboci, Sacani, Saii, Sargati, Savari, Alani Scythia, Senaraei, Serboi, 
Sidoni, Siraces, Stavani, Sturni, Suani, Suanocolchi, Suardeni, Sudini, 
Sulones 
 Taïphali, Tanaitae, Tauroscythae, Thatemeotae, Tigri, Toreccadae, 
Transmontani, Tusci, Tyrambae, Tyrangitae 
 Udae 
 Vali, Veltae, Venedae, Vibiones 
 Zacatae, Zinchi 
[ ] Tên gọi 
Người ta luôn có thể tìm thấy các đề xuất của giả thuyết cho rằng có hai dân tộc 
khác biệt đã tồn tại, là người Sauromatae và người Sarmatae. Nó không là giả 
thuyết phổ biến, do cả hai dân tộc có thể đã dùng nhiều tên gọi bộ lạc như nhau. 
Ngoài ra, Jordanes, một giáo sĩ với kiến thức hỗ hợp cả Goth lẫn Sarmatia, thông 
báo rằng họ là một và rằng người Goth đã thay đổi tên của họ tại một số nơi thành 
người Sarmatia trước khi xâm chiếm. 
Có một gợi ý trong Từ vựng thừa kế Ấn-Arya (IAIL) của Lubotsky trong CSDL 
Ấn-Âu (IED) thuộc Đại học Leiden[18] rằng tên gọi có liên quan tới từ trong tiếng 
Avesta là zarəman-, "già, cũ". Nó cũng như là zar- xuất hiện trong Zarathustra. Ý 
nghĩa chính xác là chưa rõ ràng, nhưng các từ với gốc từ như thế có thể mang 
nghĩa "người nhiều tuổi hơn" và "không chết" (mặc dù rất già) hoặc kos'tur của 
mặt trời hay lửa. Từ này có ưu thế là trong ngôn ngữ thích hợp nhất và có thể là 
nguồn của cả tiền tố Sar- lẫn Sauro-. 
Avesta chứa các tham chiếu tới người sairima. Trong truyền thuyết của người này, 
ghi lại trong Shahnameh của Ferdowsi, "Salm" là một trong ba người con trai của 
Fereydun, và là tổ tiên của các dân tộc châu Âu. 
Do tồn tại học thuyết cho rằng hậu duệ về mặt ngôn ngữ của người Sarmatia là 
người Ossetia (trái với các dữ liệu di truyền hoàn toàn không rõ vào thời đó), 
người ta có thể tính đến ba học thuyết sau về nguồn gốc tên gọi: 
1. Dumezil: Oss: saw (đen) Scr: róman- (lông thú) + Oss: tae (dấu hiệu số 
nhiều) 
2. Abaev: Oss: saw (đen) + Oss: arm (tay) + Oss: tae (dấu hiệu số nhiều) 
3. Christol: *sarumant (người bắn cung) từ Scr: saru (mũi tên) 
Gốc từ Ấn-Âu, là *ĝerh2- của Julius Pokorny, "già, cũ", mở ra một hướng nghiên 
cứu thú vị. Từ Hy Lạp, Latin Graeci, là từ cùng một gốc từ, bắt nguồn từ bộ lạc 
vùng Balkan ít người biết đến, Graioi, được người cổ đại coi là "những người già". 
In the area of Sauro-matae lived Ma-zurian. Nếu zur (zar -mặt trời) là tương tự 
như saur (sol -mặt trời) thì nó cũng liên quan tới nước dựa vào 'zur niesiemy zur', 
vedi vodi hoặc (sola sla). Graroi, với żgh có thể liên quan tới Żaroi, Graroi 
Haroy Harian, Hurian hoặc thậm chí Hunga ngày nay vẫn còn được hát như là 
Ha'Hary, So sánh tiếng kêu hò trong chiến trận Hurra của người từ khu vực này. 
Sarmatia là tương đương satem của centum Hy Lạp. Cần lưu ý rằng Αέρα (Aera) là 
tiếng kêu hò trong chiến trận tiếng Hy Lạp còn đến ngày nay. Sự tương đồng căn 
nguyên đòi hỏi có từ satem gốc trong tiếng Tiền Ấn-Âu. Mối liên hệ như vậy là lý 
thuyết tại thời điểm hiện nay. 
Hàng loạt tên gọi cá nhân tiếng Iran trong các chữ khắc Hy Lạp từ vùng duyên hải 
biển Đen chỉ ra rằng người Sarmatia nói phương ngữ tiếng Đông Bắc Iran, tổ tiên 
của tiếng Ossetia (xem tiếng Scyth-Sarmatia)[19]. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 lich_su_74__2332.pdf lich_su_74__2332.pdf