Khác với LuânĐôntừng chịu vụhỏa hoạn năm 1666hay Lisboabởi động đất
năm 1755, Paris chưa bao giờbịphá hủy. Nhờđó hầu hết các triều đại của Pháp 
kểtừthời Phục Hưngđều đểlại những dấu ấn ởParis. Những chứng tích của quá 
khứvẫn còn in dấu ởcác con phố, nhưng Paris vẫn là một thành phốđồng nhất và 
không ngừng hiện đại hóa.
Cách tổchức của thành phốngày nay phụthuộc rất nhiều vào quy hoạch của nam 
tước Haussmanndưới thời Đệnhịđếchế. Haussmannđã vạch ra phần lớn những 
con đường chính hiện nay, như đại lộSaint-Germain, đại lộSébastopol. Trung 
tâm của thành phốParis là khu Châtelet. Nhiều đường phốlớn và các tàu điện 
ngầm giao nhau ởđây. Khu vực trung tâm Paris khác biệt với nhiều thành phố
châu Âu khác bởi mật độdân sốdày đặc của nó. Chỉriêng Manhattancủa New 
Yorkvới mật độ26.000 ngàn người trên một km²là có thểso sách với trung tâm 
Paris. Là thành phốđược xây dựng hai bên bờsông, riêng trong nội ô Paris có tới 
37 cây cầu bắc qua sông Seine. Chưa kểtới một sốtuyến tàu điện ngầmchạy dưới 
lòng sông.
Có thểnhận thấy ởParis, các công trình quan trọng, cảcổvà hiện đại, đều là 
những điểm nhấn trong quang cảnh của thành phố. Quy hoạch đô thịcủa Paris cho 
phép có thểngắm nhìn các công trình này từrất xa. Đứng ở quảng trường Italie, 
nhìn dọc theo đại lộGobelins có thểthấy điện Panthéon. Từđiện Panthéon nhìn 
dọc phốSoufflot vềphía vườn Luxembourgsẽthấy tháp Eiffel. Khu vực tốt nhất 
đểngắm nhìn tháp Eiffellà sân giữa của Palais de Chaillot, cạnh quảng trường 
Trocadéro. Nếu đứng ởchân tháp Eiffel, bãi cỏ Champ-de-Mars, nhìn vềphía 
École militairesẽthấy tháp Montparnasse. Đứng trước nhà thờMadeleinenhìn về
phía sông Seine sẽthấy cột đá Obélisque ởgiữa quảng trường Concorde, và bên 
kia sông là Palais Bourbon. Từ điện Invalidesnhìn dọc cầu Alexandre-IIIcó thể
thấy Grand Palaisvà Petit Palais ởhai bên đại lộWinston-Churchill. 
              
                                            
                                
            
 
            
                 83 trang
83 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2253 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài thảo luận Paris, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Tinh là khu 
phố sinh viên, nơi có các trường đại học từ nhiều thế kỷ trước. Café de Flore ở 
Saint-Germain-des-Prés từng là ngôi nhà của Chủ nghĩa hiện sinh. Đồi 
Montmartre ngoài nhà thờ Sacré-Cœur nổi tiếng còn là trung tâm của hội họa đầu 
thế kỷ 20. Tương tự, Montparnasse cũng từng thu hút nhiều họa sĩ, nhà văn nhưng 
ngày nay trở thành một khu phố văn phòng. Chợ Tàu Paris với sự hiện diện rõ nét 
của văn hóa phương Đông là khu phố Tàu lớn nhất châu Âu. Đại lộ Champs-
Élysées và các phố gần đấy như George-V, Montaigne... là khu vực nhiều cửa 
hàng thời trang cao cấp, cùng các khách sạn đặc biệt sang trọng Plaza Athénée, 
George V... 
Năm 1991, tổ chức UNESCO đã công nhận một số các công trình của Paris thuộc 
cụm hai bên bờ sông Seine là di sản thế giới[118]. Các công trình biểu tượng của 
Paris trở nên nổi tiếng trên toàn cầu. Tại Las Vegas, một casino đã xây dựng các 
bản sao của tháp Eiffel, Khải Hoàn Môn và nhà hát Opéra Garnier. Tương tự, ở 
ngoại ô Hàng Châu, những người Trung Quốc cũng xây dựng một Paris nhỏ. 
[ ] Bảo tàng 
Bảo tàng Orsay 
Paris và vùng Île-de-France là nơi có số lượng bảo tàng lớn và quan trọng nhất 
nước Pháp. Ít nhất một trăm bảo tàng tính riêng trong nội ô Paris, và thêm khoảng 
một trăm mười bảo tàng khác thuộc vùng Île-de-France. Không chỉ lớn về số 
lượng, các bảo tàng này còn là nơi trưng bày rất nhiều hiện vật, tác phẩm nghệ 
thuật quan trọng của thế giới. 
Cổ nhất, diện tích lớn nhất là viện bảo tàng Louvre, nơi lưu trữ các tác phẩm nổi 
tiếng như Mona Lisa, tượng thần Vệ Nữ... Với kỷ lục 8,3 triệu lượt khách trong 
năm 2006, Louvre là bảo tàng nghệ thuật thu hút nhất thế giới. Tiếp đó phải kể đến 
những bảo tàng nghệ thuật khác: Orsay, sở hữu nhiều bộ sưu tập trường phái Ấn 
tượng, Hậu ấn tượng; bảo tàng Nghệ thuật hiện đại nằm trong trung tâm Pompidou. 
Ở ngoại ô, lâu đài Versailles, được xây dựng bởi vua Louis XIV là cung điện của 
các vị vua nước Pháp trong thế kỷ 17 và 18, cũng thu hút nhiều triệu du khách mỗi 
năm với 18.000 m² dành cho bảo tàng Lịch sử Pháp.[119] Mới mở cửa năm 2006, 
Bảo tàng Quai Branly (Musée du quai Branly) về nghệ thuật và văn minh châu Phi, 
châu Á, châu Đại Dương, châu Mỹ cũng là một bảo tàng quan trọng với 2.175.000 
lượt khách thăm vào năm 2007. Bên cạnh đó còn có những bảo tàng dành riêng 
của các nghệ sĩ tên tuổi như bảo tàng Picasso, Không gian Dalí, bảo tàng Rodin, 
bảo tàng Eugène Delacroix. 
Ngoài nghệ thuật và lịch sử, thành phố Paris cũng có nhiều bảo tàng về lĩnh vực 
khác như bảo tàng Thời trang (Musée de la Mode et du Textile), bảo tàng Bưu điện 
(Musée de la Poste), bảo tàng Con người (Musée de l'Homme), bảo tàng Hàng hải 
(Musée national de la Marine), bảo tàng Tiền tệ (Musée de la Monnaie de Paris), 
bảo tàng Trung Cổ (Musée national du Moyen Âge), bảo tàng Vũ khí (Musée de 
l'armée), bảo tàng Điện ảnh (Cinémathèque française - Musée du Cinema)... Một 
số công trình quan trọng như Palais Bourbon, Palais de Chaillot, Petit Palais, 
Grand Palais, Opéra Garnier... cũng đều có những không gian bảo tàng. 
Các bảo tàng nổi tiếng nhất của Paris đều là bảo tàng quốc gia, thuộc về Nhà nước 
Pháp. Một số bảo tàng thuộc về các bộ, như bảo tàng Vũ khí trong Điện Invalides 
và bảo tàng Hàng không Bourget thuộc về Bộ Quốc phòng Pháp. Một số khác 
thuộc Viện Pháp - Institut de France, và có cả các bảo tàng tư nhân. Chính quyền 
thành phố Paris quản lý mười bốn bảo tàng, trong đó có một số nổi tiếng như bảo 
tàng Carnavalet về lịch sử Paris, nhà tưởng niệm Victor Hugo, Hầm mộ Paris. 
Nhiều triển lãm được tổ chức ở những địa điểm này[120]. 
[ ] Thư viện 
Thư viện Sainte-Geneviève 
Paris sở hữu một số lượng thư viện lớn và phần nhiều đều mở cửa tự do cho công 
chúng. Được lập từ thư viện tư của Hồng y Jules Mazarin, Mazarine là thư viện 
cho công chúng cổ nhất Paris, bắt đầu từ năm 1643. Một thư viện cổ quan trọng 
khác là Sainte-Geneviève nằm cạnh Panthéon với hai triệu cuốn sách. 
Thư viện quốc gia Pháp được nằm chủ yếu ở Paris, với hai địa điểm chính: 
« Richelieu » ở Quận 2 và « François-Mitterrand » ở Quận 13. Trong đó 
« Richelieu » là thư viện cổ, nhỏ hơn, nằm ở trung tâm, còn « François-
Mitterrand » là một công trình kiến trúc hiện đại gồm bốn tòa nhà cao tầng ở khu 
Paris Rive Gauche. Đây là nơi lưu trữ tư liệu quan trọng bậc nhất thế giới với 
khoảng 30 triệu cuốn sách gồm nhiều phiên bản gốc giá trị. Cơ sở này trở thành 
nơi lưu trữ hợp pháp của nước Pháp kể từ triều vua François Đệ nhất. 
Chính quyền thành phố Paris quản lý 55 thư viện phổ thông[121] và khoảng 10 thư 
viện chuyên đề[122], là những nơi công chúng có thể tự do mượn tài liệu. Trong số 
đó có một vài thư viện được nhiều người biết tới như thư viện Lịch sử Paris, khánh 
thành năm 1871, nơi lưu trữ một triệu cuốn sách, ảnh, bản đồ liên quan tới lịch sử 
thành phố. Hoặc thư viện điện ảnh François-Truffaut với nhiều tài liệu điện ảnh 
quan trọng[123]. Ngược lại với Thư viện quốc gia Pháp hay thư viện Mazarine, các 
thư viện của chính quyền thành phố đều miễn phí, kể cả các thư viện chuyên đề có 
thể cấm vị thành viên. Những sách, tạp chí, truyện tranh... được mượn tự do, còn 
các đĩa nhạc, video thì cần trả một số tiền trung bình hàng năm. Còn có một số thư 
viện cho công chúng khác, như thư viện trong trung tâm Georges-Pompidou. Rất 
nhiều thư viện của các đại học cũng mở cửa cho người ngoài. 
Những cửa hàng sách có thể tìm thấy ở khắp Paris. Các siêu thị của Fnac, bên 
cạnh những mặt hàng máy tính, thiết bị hình ảnh, âm thanh... còn dành một không 
gian lớn cho sách, CD nhạc, DVD phim. Đại lộ Saint-Michel cũng có nhiều cửa 
hàng sách, cả cho sách cũ lẫn sách mới. Còn dọc sông Seine, những hàng nhỏ bán 
sách cũ đã trở thành một phần của văn hóa Paris. 
[ ] Nhà hát, phòng trình diễn 
Nhà hát kịch Pháp, thế kỷ 18 
Hai nhà hát lớn và được biết đến nhiều nhất Paris là Opéra Garnier và Opéra 
Bastille, được dành cho cả nghệ thuật cổ điển lẫn hiện đại. Ngoài ra, Paris còn có 
những nhà hát quan trọng khác như Nhà hát kịch Pháp (Comédie-Française), nhà 
hát Châtelet, nhà hát Odéon, nhà hát Mogador và Gaîté-Montparnasse. Một vài 
trong số này cũng gồm cả các phòng hòa nhạc. Nhà hát vẫn là địa điểm truyền 
thống quan trọng của văn hóa Paris, kể cả hiện nay, nhiều diễn viên nổi tiếng của 
nhà hát cũng đồng thời là những ngôi sao trên truyền hình. 
Một số ca sĩ lớn của âm nhạc Pháp như Édith Piaf, Maurice Chevalier, Georges 
Brassens và Charles Aznavour đã từng tìm được danh tiếng ở những phòng hòa 
nhạc của Paris: Bobino, Olympia, La Cigale hoặc Le Splendid. Salle Pleyel là nơi 
tổ chức nhiều buổi nhạc giao hưởng, Salle Gaveau dành cho nhạc thính phòng, 
Maison de Radio France có nhiều buổi hòa nhạc lớn mang nhiều phong cách khác. 
New Morning là một trong những phòng hòa nhạc luôn dành cho jazz, nhưng cũng 
có các thể loại nhạc khác. Le Zénith ở khu La Villette với 6.000 chỗ ngồi là một 
trong những phòng hòa nhạc lớn nhất thành phố. Ngoài ra khu thể thao liên hợp 
Paris-Bercy ở khu Bercy, sân vận động Stade de France ở Saint-Denis thuộc ngoại 
ô, và sân vận động Công viên các hoàng tử... cũng là những nơi tổ chức các buổi 
hòa nhạc quy mô lớn. 
Các quán rượu và cà phê hòa nhạc từng là xương sống của giải trí Paris trước Thế 
chiến thứ hai. Ngay từ nửa đầu thế kỷ 19, ở Paris đã xuất hiện quán Moulin de la 
galette và cà phê hòa nhạc Élysée Montmartre cùng Château-Rouge. Các ban nhạc 
bình dân đã phục vụ cho đám đông nhảy múa tại quán nhạc Apollo hay khiêu vũ 
điệu Java tại vùng ngoại ô Temple và Belleville. Các câu lạc bộ thời kỳ tiếp theo 
mở ra những sàn nhảy hiện đại, như Le Palace - đã đóng cửa - từng rất nổi tiếng ở 
Paris. Ngày nay, trong những câu lạc bộ ở Paris, như hộp đêm Queen, vũ trường 
L'Étoile, Le Cab rất được yêu thích. Các sàn với nhạc điện tử như Le Rex, Batofar 
- một chiếc thuyền được cải tạo thành hộp đêm, hay The Pulp cũng rất đại chúng 
với sự góp mặt của những DJ hàng đầu thế giới. 
[ ] Rạp chiếu phim 
Giống như những thành phố khác ở châu Âu, phim Hollywood chiếm một thị phần 
lớn tại các rạp của Paris. Nhưng cùng với đó là những bộ phim Pháp, những phim 
châu Âu khác, và cả điện ảnh châu Á cũng được trình chiếu phổ biến. Năm 2007, 
Paris có hơn 374 phòng chiếu phim. Số lượt người xem đã đạt tới con số hơn 30 
triệu vào năm 2004. Những tập đoàn như UGC, Gaumont sở hữu các rạp ở khắp 
Paris. Từ 1990, các công ty này xây dựng những trung tâm chiếu phim lớn, từ 10 
đến hơn 20 phòng chiếu. UGC có ba trung tâm quan trọng, tại Les Halles, Bercy 
và La Défense. Gaumont từng có một trong những phòng chiếu lớn nhất Paris ở 
quảng trường Italie, nhưng đã đóng cửa. Phòng chiếu rộng nhất thành phố hiện 
nay là Le Grand Rex với 2.800 chỗ ngồi. Các phòng chiếu còn lại đều nhỏ hơn 
1.000 chỗ. Các địa điểm như Opéra, Champs-Élysées, Montparnasse là những 
trung tâm của rạp chiếu phim. 
Ngoài ra còn một hệ thống rạp nhỏ, nhưng cũng rất quan trọng, cho những phim 
độc lập. Những phòng chiếu này giới thiệu nhiều bộ phim đa dạng, của cả những 
nền điện ảnh nhỏ, với con số tới 450 đến 500 phim một tuần cho một bộ phận 
công chúng riêng[124]. 
[ ] Quán cà phê, nhà hàng và khách sạn 
Khách sạn Ritz 
Quán cà phê đầu tiên của Paris là Régence, được khai trương năm 1688 tại khu 
Palais-Royal. Sau đó một năm tới quán Café Procope được mở ở bên tả ngạn sông 
Seine. Rất nhanh chóng, các quán cà phê trở thành một phần của văn hóa Paris. 
Những quán cà phê vườn từng rất phổ biến vào thế kỷ 18 và có thể xem như là các 
« terrasses de café » - cà phê thềm - đầu tiên của Paris. Vào thế kỷ 19, việc quy 
hoạch lại thành phố cùng sự xuất hiện các đại lộ lớn với vỉa hè tạo điều kiện thuận 
lợi cho những « terrasses de café ». Ngày nay, các quán cà phê có mặt ở khắp 
thành phố và từng khu vực lại có những đặc điểm riêng biệt: nơi tập trung nhiều 
sinh viên như trong quận La Tinh, nơi chủ yếu cho khách du lịch như Montmartre, 
Champs-Élysées. Trong số đó có những quán nổi tiếng như Café Procope hay 
Café de Flore từng là nơi gặp gỡ của nhiều danh nhân. 
Nhờ giao thông đường sắt vào giữa thế kỷ 19 và cách mạng công nghiệp, nhiều 
người từ các tỉnh tới thủ đô mang theo những phong cách ẩm thực khác nhau đã 
tạo nên những nhà hàng với các đặc sản riêng. Chez Jenny là một ví dụ cho ẩm 
thực vùng Alsace, Aux Lyonnais với các món từ Lyon... Sau đó, những người 
nhập cư tiếp tục giúp cho ẩm thực Paris thêm đa dạng với những món ăn của các 
dân tộc trên khắp thế giới như Ý, Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan... 
Không chỉ nổi tiếng về ẩm thực, Paris còn có các nhà hàng đặc biệt khác như 
Maxim's - nhà hàng được trang trí theo phong cách Tân nghệ thuật từng là điểm 
đến của nhiều nghệ sĩ nổi tiếng, hay nhà hàng Jules Verne nằm trên tầng hai của 
tháp Eiffel. 
Vào cuối thế kỷ 19, Paris xây dựng thêm rất nhiều khách sạn bởi những cuộc 
Triển lãm thế giới được tổ chức ở đây đã kéo theo một số lượng lớn du khách từ 
khắp nơi tới thành phố. Trong số đó có thể kể tới khách sạn Ritz trên quảng trường 
Vendôme mở cửa năm 1898 và khách sạn Crillon trên quảng trường Concorde 
năm 1909. Ngày nay hai khách sạn này được xếp vào hạng « palace » - đặc biệt 
sang trọng - cùng năm khách sạn khác: Bristol, George V, Meurice, Plaza Athénée 
và Fouquet's Barrière. Ngoài ra, các tập đoàn lớn như Hilton, Accor cũng sở hữu 
các khách sạn ở khắp Paris. 
[ ] Lễ hội và các sự kiện 
Duyệt binh ngày 14 tháng 7 trên đại lộ Champs-Élysées 
Ngoài các lễ hội chung với thế giới và nước Pháp, Paris có nhiều lễ hội riêng được 
tổ chức trong suốt cả năm. Đầu tháng một, Tết Nguyên Đán được những người 
châu Á tổ chức ở Quận 13. Tháng hai, lễ hội Carnaval của Paris diễu hành xuyên 
qua thành phố. Vào cuối tháng hai còn có triển lãm thế giới về nông nghiệp. Triển 
lãm sách được tổ chức vào tháng ba và Hội chợ Paris cùng cuộc chạy marathon 
Paris vào tháng tư. Đầu mùa hè, tháng sáu có cuộc diễn hành Gay pride của những 
người đồng tính. 
Ngày quốc khánh Pháp 14 tháng bảy là dịp tổ chức duyệt binh truyền thống tại đại 
lộ Champs-Élysées. Cũng vào cuối tháng này, Champs-Élysées là chặng đích của 
cuộc đua xe đạp Tour de France. Từ năm 2002, trong vòng hai tháng bảy và tám, 
thành phố tổ chức Paris-Plage, thay đổi một phần bờ sông Seine thành bãi biển 
nhân tạo với cát và các ghế vải gập. Một triển lãm về ô tô được tổ chức vào tháng 
mười các năm chẵn. Tháng mười còn có Hội chợ quốc tế nghệ thuật đương đại - 
FIAC, và từ 2002 thành phố bắt đầu tổ chức lễ hội Nuit Blanche - Đêm trắng - vào 
đêm thứ bảy đầu tiên của tháng với nhiều hoạt động nghệ thuật. Thứ bảy tuần thứ 
hai tháng mười, tại Montmartre còn có lễ hội hái nho. 
[ ] Truyền thông 
Phần lớn những tập đoàn truyền thông của Pháp đều nằm tại Paris và thành phố 
cũng có một số tờ báo riêng. Le Parisien là nhật báo chính của Paris. 20 minutes 
và Métro là hai nhật báo miễn phí, không có nguồn gốc ở Paris, nhưng được nhiều 
người dân thành phố đọc. Những hành khách đọc các tờ báo miền phí trên phương 
tiện giao thông công cộng trở thành một hình ảnh hàng ngày của thành phố. Về 
văn hóa, có tờ L'Officiel des spectacles đăng các chương trình, và tờ Paris 
frimousse phát hành hàng tháng về các hoạt động văn hóa cho thiếu nhi. Trước 
đây còn hai tờ báo khác cũng đăng tin tương tự là Zurban và Le Pariscope. 
Ngược lại với các vùng khác của Pháp, truyền hình địa phương ở Paris không phát 
triển mạnh. Có thể thấy một số chương trình riêng cho Paris trên đài quốc gia 
France 3. Còn tại vùng Paris, Télif gần như là kênh duy nhất truyền qua cáp. 
Truyền qua ADSL hoặc vệ tinh có một số kênh địa phương: VOTV của Val-d'Oise, 
Télessonne của Essonne, TVM Est parisien của Seine-Saint-Denis, TVFil78 của 
Yvelines và RTV của Rosny-sous-Bois. Ngoài ra còn một vài kênh khác như 
Zaléa TV hay Teleplaisance.org... 
[ ] Paris, kinh đô thế giới 
Trong lịch sử của mình, Paris là nơi sản sinh và được tìm đến của rất nhiều nhân 
vật nổi tiếng cũng như các trào lưu tư tưởng, nghệ thuật. Vào thế kỷ 18, Paris là 
trung tâm của triết học Khai sáng với những Rousseau, Voltaire. Tới thế kỷ 19, 
các nhà văn vĩ đại của Pháp như Alexandre Dumas, Honoré de Balzac, Victor 
Hugo đều tìm tới Paris. Và cùng với đó là các tên tuổi đến từ nước ngoài như 
Chopin, Van Gogh, Heine. Cuối thế kỷ 19, thành phố trở thành thủ đô của hội họa, 
với các trường phái Ấn tượng, Hậu ấn tượng. Sang thế kỷ 20, Paris tiếp tục là 
trung tâm văn hóa của cả thế giới, là nơi sản sinh các nhà văn Marcel Proust, 
André Gide... và là điểm đến của Pablo Picasso, Marc Chagall, Henri Matisse, 
James Joyce, Ernest Hemingway, Albert Camus, Beckett. Một số nhà khoa học, 
chính trị gia quan trọng của thế kỷ 20 như Marie Curie, Chu Ân Lai, Hồ Chí 
Minh... cùng từng sống và học tập ở Paris. 
Paris còn là quê hương của điện ảnh, kinh đô của thời trang và là một trung tâm 
xuất bản lớn. Từng là nơi diễn ra nhiều hội nghị lịch sử quan trọng, thành phố hiện 
nay là nơi đặt trụ sở của nhiều tổ chức thế giới như UNESCO, OECD. 
[ ] Trung tâm tri thức và văn học 
Phòng khách của bà Geoffrin năm 1755 
Từ thế kỷ 12, Paris đã là một trong những trung tâm tri thức của thế giới Cơ Đốc 
giáo. Việc chấp nhận phương ngữ Paris bởi triều đình khẳng định khuynh hướng 
này. Trong thời kỳ Phục Hưng, Paris trở thành trung tâm của Chủ nghĩa nhân văn. 
Với quyền lực dần được tập trung, thành phố cũng quy tụ các ưu việt của văn hóa 
Pháp. Khoảng giữa thế kỷ 17, Paris với các phòng khách văn học gần như trở 
thành trung tâm duy nhất của văn chương Pháp. 
Thế kỷ 18, cùng với sự ảnh hưởng của văn hóa Pháp lên khắp châu Âu, Paris trở 
thành trung tâm văn hóa lớn nhất. Những phòng khách văn học Paris đạt tới thời 
kỳ hoàng kim nhờ những nhà văn, nhà triết học vĩ đại như Voltaire, Jean-Jacques 
Rousseau của Thế kỷ ánh sáng. Phòng khách của bà Geoffrin từ 1749 tới 1777 
từng là nơi tụ họp của Diderot, Voltaire, d'Alembert... cùng nhiều nghệ sĩ, nhà văn 
khác. 
Thế kỷ 19, là trung tâm tri thức, Paris là điểm đến của hầu hết những nghệ sĩ lớn 
của Pháp, như các nhà văn Honoré de Balzac, Victor Hugo, Alexandre Dumas... 
các nhà thơ Paul Verlaine, Arthur Rimbaud, Baudelaire... Không những thế, nhiều 
trí thức tiến bộ của châu Âu như Chopin, Heine... cũng tìm đến thành phố này. 
Đến cuối thế kỷ, Paris trở thành chiếc nôi của nhiều trường phái hội họa. Năm 
1872, bức tranh Ấn tượng mặt trời mọc (Impression soleil levant) của Claude 
Monet mở đầu cho Trường phái ấn tượng, rồi được tiếp tục bởi 8 triển lãm khác ở 
Paris. Thành phố đã quy tụ các họa sĩ nổi tiếng nhất đương thời: Vincent van 
Gogh, Paul Cézanne, Auguste Rodin, Alfred Sisley, Paul Gauguin, Auguste 
Renoir, Camille Pissarro... Ngày 28 tháng 12 năm 1895, buổi chiếu phim đầu tiên 
của anh em Auguste và Louis Lumière tổ chức tại Salon Indien nằm dưới tầng 
hầm quán cà phê Grand Café ở Paris đánh dấu sự ra đời của điện ảnh. 
Sang thế kỷ 20, các nhà văn, nghệ sĩ vẫn tiếp tục tìm tới Paris. Tại Montmartre, 
Georges Braque và Pablo Picasso khởi xướng chủ nghĩa Lập thể. Henri Matisse, 
Salvador Dalí, Marc Chagall đều tới Paris. Văn học đầu thế kỷ 20 cũng là thời kỳ 
cách mạng của tiểu thuyết. Từ 1913 tới 1927, bộ tiểu thuyết Đi tìm thời gian đã 
mất (À la recherche du temps perdu) của Marcel Proust lần lượt được phát hành ở 
Paris. Năm 1922, tiểu thuyết tiếng Anh Ulysses của James Joyce cũng được xuất 
bản bởi Sylvia Beach ở Paris, và sau đó rất khó khăn mới chính thức vào được 
Mỹ[125]. Không chỉ các nhà văn Pháp, rất nhiều các nhà văn lớn nước ngoài tới 
Paris và trải qua một thời kỳ sáng tạo ở đây, như Ernest Hemingway, Henry Miller, 
Gertrude Stein... 
Sau Thế chiến thứ hai, khu phố Saint-Germain-des-Prés trở thành một trung tâm 
văn học với sự góp mặt của Jean-Paul Sartre, Simone de Beauvoir, Boris Vian và 
Jacques Prévert. Samuel Beckett sống ở Paris và viết bằng tiếng Pháp. Cuốn tiểu 
thuyết tiếng Anh Lolita của Vladimir Nabokov không phát hành được ở Mỹ, sau 
đó được xuất bản ở Paris. García Márquez cũng sống ở Paris một thời gian khi 
quyết định ở lại châu Âu, chính là giai đoạn viết cuốn Giờ xấu (La mala hora). 
Một số chính khác quan trọng của các nước như Toàn quyền Canada Adrienne 
Clarkson, Roméo LeBlanc, Thủ tướng Canada Pierre Elliott Trudeau, Tổng thống 
Tunisia Habib Bourguiba, Tổng thống Sénégal Abdou Diouf, Tổng thống Ấn Độ 
Rajendra Prasad... từng học ở Paris và trọ tại Cư xá đại học quốc tế. Sau thời kỳ 
này, Paris mất dần vị trí độc tôn, nhưng vẫn là một trung tâm lớn về văn học, tri 
thức và xuất bản của thế giới. Cho tới cuối thế kỷ 20, một số nhà văn danh tiếng 
như Cao Hành Kiện, Milan Kundera... vẫn tiếp tục tìm đến thành phố. 
Ngày nay, hầu như các khu phố của Paris đều có những tấm biển ghi lại thời gian 
lưu trú của các nhà văn danh tiếng. Các nghĩa trang của thành phố không chỉ là nơi 
yên nghỉ những nhân vật nổi tiếng người Pháp mà còn của rất nhiều danh nhân thế 
giới. 
[ ] Trụ sở các tổ chức quốc tế 
Không chỉ là thủ đô của Pháp, rất nhiều các tổ chức quốc tế cũng có trụ sở tại Paris. 
Có thể kể tới: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc - 
UNESCO, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế - OECD, Phòng Thương mại 
Quốc tế - ICC, Lực lượng Đặc nhiệm Hành động Tài chính - FATF, Tổ chức 
Phóng viên không biên giới... 
Ngoài ra Paris cũng là nơi tổ chức các hội nghị quan trọng. Nhiều hiệp ước, hòa 
ước lịch sử đã được ký kết ở đây, như Hòa ước Versailles năm 1919, Hiệp định 
Paris năm 1973... Với 600.000 m² phục vụ cho mục đích hội họp, Paris chiếm 5 % 
các hoạt động hội thảo, hội nghị của thế giới. 
[ ] Kinh đô thời trang và xa xỉ phẩm 
Đại cửa hàng Printemps 
Paris vẫn thường được xem là kinh đô thời trang của thế giới. Ở đây tập trung 
những nhà mẫu nổi tiếng, các buổi trình diễn thời trang quan trọng và những cửa 
hàng thời trang cao cấp. 
Từ thế kỷ 18, nước Pháp có thể xem như đã đi đầu châu Âu về thời trang khi nghệ 
thuật, kiến trúc, âm nhạc và các ăn mặc của triều đình Pháp tại Versailles ảnh 
hưởng tới khắp châu Âu. Những du khách tới Paris và mang về các bộ quần áo rồi 
lại được những nhà may địa phương bắt chước. Tới khi đường sắt và tàu thủy hơi 
nước giúp đi lại ở châu Âu được dễ dàng hơn, những phụ nữ giàu có đã tìm tới 
Paris để mua sắm quần áo. Những thợ may Pháp được xem như hàng đầu và cách 
ăn mặc của người Paris gây ảnh hưởng tới các nơi khác. 
Tới thời kỳ Belle Époque, qua các tạp chí, thời trang Paris trở thành chuẩn mực 
cho tất cả phụ nữ ở các thành phố lớn trên thế giới. Giữa thế kỷ 19, thời trang may 
đo cao cấp Haute couture xuất hiện ở Paris mặc dù cha đẻ của nó là Charles 
Frederick Worth, một nhà may người Anh. Sau đó, Haute couture được các nhà 
tạo mẫu ở Paris như Lanvin, Chanel, Dior... nối tiếp. Vào thời kỳ hậu chiến, trong 
thập niên 1960, các nhà tạo mẫu của Paris thế hệ sau như Yves Saint Laurent, 
Pierre Cardin, Givenchy... tiếp tục ảnh hưởng lên toàn bộ ngành thời trang. 
Cửa hàng Chanel ở quảng trường Vendôme 
Ngày nay, Haute couture được bảo vệ bởi luật và do Phòng Thương mại và Công 
nghiệp Paris (Chambre de Commerce et d'Industrie) quản lý. Dù phải chia sẻ với 
một vài thành phố lớn khác, nhưng Paris vẫn giữ vị trí kinh đô thời trang. Các du 
khách vẫn tiếp tục tới đây để mua sắm. Tập đoàn kinh doanh hàng xa xỉ hàng đầu 
thế giới LVMH cũng có trụ sở ở Paris. 
Một vài khu phố của Paris quy tụ nhiều các cửa hàng đồ xa xỉ. Những hãng trang 
sức như Cartier, dinh van, Chanel... nằm ở quảng trường Vendôme và phố Paix 
cạnh đó. Đại lộ Montaigne ở Quận 8 với những cửa hàng của Chanel, Louis 
Vuitton, Gucci, Armani, Dior, Prada, Valentino, Nina Ricci... Phố Faubourg-Saint-
Honoré có sự hiện diện của Hermès, Dolce & Gabbana... Đầu đại lộ Champs-
Élysées cũng có các cửa hàng của Cartier, Montblanc, Hugo Boss cùng Louis 
Vuitton đặc biệt thu hút du khách. 
Paris cũng là trung tâm của mua sắm với các hệ thống cửa hàng nổi tiếng như 
Galeries Lafayette, Printemps... cùng các trung tâm thương mại Les Halles, La 
Défense... Vào thế kỷ 19, các cửa hàng hiện đại xuất hiện ở Paris như một ý tưởng 
cách mạng. Những đại cửa hàng, có sự kết hợp cả chiều rộng và chiều sâu, ghi giá 
cả rõ ràng, ổn định, hàng hóa đa dạng, trưng bày trong các không gian rộng, sang 
trọng... được đi tiên phong bởi Le Bon Marché vào năm 1852. Kế đó tới các đại 
cửa hàng La Samaritaine, Galeries Lafayette... Nhà văn Emile Zola trong tiểu 
thuyết Au Bonheur des Dames năm 1883 cũng đã miêu tả cuộc đời một nhân viên 
làm việc trong một đại cửa hàng. Ngày nay, Paris có tất cả 5 hệ thống đại cửa 
hàng: Galeries Lafayette, Printemps, Le Bon Marché, La Samaritaine và BHV. 
[ ] Paris với văn hóa và nghệ thuật 
[ ] Paris với văn học 
Bí mật thành Paris của Eugène Sue 
Từ rất lâu, Paris đã là nguồn cảm hứng cho các nhà văn. Vào thế kỷ 15, François 
Villon đã viết về Paris trong tác phẩm chính của mình: Le Testament. Trong thế kỷ 
17 và thế kỷ 18, miêu tả một Paris hiện thực cũng thu hút các tác giả. Thế kỷ 19, 
các nhà văn Pháp có những bước tiến trong việc miêu tả thành phố với phong cách 
mang tính chính xác hơn. Dưới nền Quân chủ tháng bảy, Honoré de Balzac phác 
họa bức tranh chi tiết và hiện đại về xã hội Pháp trong bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò 
đời (La Comédie Humaine). Gồm hơn 100 tác phẩm, gồm cả tiểu thuyết, truyện 
ngắn, tiểu luận... Tấn trò đời với vô số các nhân vật ở Paris, là một bức tranh toàn 
cảnh miêu tả xã hội Pháp thế kỷ 19. Alexandre Dumas với Ba người lính ngự lâm 
cũng cho thấy một Paris khác trong lịch sử. 
Trong khi Balzac quan tâm tới các tầng lớp cao của xã hội thì một vài tác giả khác 
lại chú ý đến tầng lớp bình dân của Paris. Bí mật thành Paris (Les Mystères de 
Paris) của Eugène Sue với những miêu tả về tầng lớn dưới đáy xã hội đăng từng 
kỳ trên báo từ 1842 tới 1843 đã rất thành công. Hai mươi năm sau đó, một trong 
những tiểu thuyết gia lớn nhất của Paris, Victor Hugo đã xuất bản Những người 
khốn khổ (Les Misérables), tác phẩm đồ sộ miêu tả cuộc sống nhiều mặt của thành 
phố, khiến Paris trở thành cổ điển. Một tiểu thuyết khác của Victor Hugo, Nhà thờ 
Đức Bà Paris (Notre-Dame de Paris) tiếp tục giúp độc giả khắp thế giới biết đến 
nhà thờ nổi tiếng của thành phố. 
Thành phố Paris sau những cải tạo của Haussmann được Émile Zola miêu tả trong 
bộ Les Rougon-Macquart với những tác phẩm Le Ventre de Paris, Nana, Au 
Bonheur des Dames. Đầu thế kỷ 20, nhà hát Opéra Garnier của Paris trở thành bối 
cảnh chính của tiểu thuyết Bóng ma trong nhà hát (Le Fantôme de l'Opéra) của 
Gaston Leroux. Tác phẩm này đã có rất nhiều chuyển thể, trong đó nổi tiếng như 
vở nhạc kịch The Phantom of the Opera của Andrew Lloyd Webber trên sân khấu 
Broadway năm 1986, rồi bộ phim cùng tên năm 2004. Trong những năm 1960, các 
nhà văn biến Paris thành một thành phố hoang đường, đôi khi khôi hài và nực cười 
như trong Zazie dans le métro của Raymond Queneau. Hay một Paris đầy ắp 
n
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 ls_phap_28__6639.pdf ls_phap_28__6639.pdf