Không rõ là có bao nhiêu quân mà Pyrros đã đểlại ởTarentum, nhưng ông có lẽ
đã cókhoảng 25-35,000 quân với ông tại Heraclea. Ông đã chiếm vịtrí trên bờtrái 
của Siris, hy vọng rằng những người La Mã sẽgặp khó khăn khi vượt sông, mà sẽ
cho phép ông có thêm thời gian đểchuẩn bịcuộc tấn công của mình. Ông bốtrí 
các đơn vịbộbinh nhẹgần sông đểcho ông ta biết khi nào người La Mã bắt đầu 
vượt sông, và lập kếhoạch đầu tiên đểtấn công họvới kỵbinh và voi của mình. 
Valerius Laevinus đã có khoảng 30.000 binh sĩ dưới quyền chỉhuy của ông, trong 
đó có nhiều kỵbinh, lính phóng lao, và lính giáo. Đây sẽlà lần đầu tiên trong lịch 
sửmà hai hình thái chiến tranh khác nhau giao chiến: quân đoàn La Mã, và đội 
hình Phalanxcủa Macedonia.
Lúc bình minh, người La Mã bắt đầu vượt qua sông Siris. Kỵbinh La Mã tấn công 
vào sườn đội quân trinh sát và bộbinh nhẹ, những người bịbuộc phải bỏchạy.
Khi Pyrros biết được rằng những người La Mã đã bắt đầu vượt sông, ông đã dẫn 
kỵbinh Macedonia và Thessaly của ông tấn công kỵbinh La Mã. Bộbinh của ông, 
với lính phóng lao, cung thủvà bộbinh nặng, cũng bắt đầu hành quân hướng về
phía họ. Kỵbinh Epirote thành công trong việc phá vỡsựhình thành đội hình của 
người La Mã, và sau đó rút lui. Lính phóng lao của Pyrros và cung thủđã bắt đầu 
bắn và phalanx của ông bắt đầu tấn công.
              
                                            
                                
            
 
            
                 10 trang
10 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1621 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Bài thảo luận Trận Heraclea, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trận Heraclea 
Trận Heraclea 
Một phần của Chiến tranh Pyrros 
Most important places in Rome-Taranto 
wars 
. 
Thời gian July 280 BC 
Địa điểm Heraclea, Basilicata, miền 
nam Italy 
Kết quả người Hy Lạp Chiến thắng 
kiểu Pyrros 
Tham chiến 
Cộng hòa La Mã Epirus 
Chỉ huy 
Publius Valerius 
Laevinus 
Pyrros của Ipiros 
Lực lượng 
29,000 bộ binh, 
6,000 kị binh 
31,500 bộ binh, 
4,000 kị binh, 
20 voi chiến 
Tổn thất 
7,000 chết 4,000 chết 
. 
Trận Heraclea đã diễn ra năm 280 TCN giữa người La Mã dưới sự chỉ huy của 
chấp chính quan Publius Valerius Laevinus và lực lượng kết hợp của người Hy 
Lạp từ Ipiros, Tarentum, Thurii, Metapontum, và Heraclea dưới sự chỉ huy của 
vua Pyrros của Ipiros. 
Mục lục 
 1 Bối cảnh 
 2 Chuẩn bị 
 3 Trận đánh 
 4 Lực lượng 
o 4.1 Ipiros 
o 4.2 La Mã 
 5 Kết quả 
 6 Chú thích 
 7 Tham khảo 
[ ] Bối cảnh 
Tarentum là một thuộc địa Hy Lạp, một phần của Magna Graecia. Các thành viên 
của phe lãnh đạo tại Tarentum, những người dân chủ dưới sự lãnh đạo của 
Philocharis hoặc Ainesias, đã chống lại Rome, bởi vì họ biết rằng nếu những 
người La Mã tiến vào Taranto người Hy Lạp sẽ mất đi sự độc lập của họ. Người 
Hy Lạp tại Tarentum đã trở nên lo sợ sự bành trướng của người La Mã sau chiến 
tranh Samnite lần thứ ba. Sau khi người Samnites đầu hàng trong năm 290 TCN, 
người La Mã thành lập nhiều thuộc địa ở Lucania và Apulia, quan trọng nhất là 
Venusia. Năm 282 TCN, sau khi một trận chiến chống lại người Samnites, 
Lucanian, Bruttian và Thurii, quân La Mã tiến vào các thuộc địa Hy Lạp ở Ý bao 
gồm Croton, Lokroi, và Rhegium. Phe Dân chủ của Tarentum biết rằng ngay sau 
khi Rome kết thúc cuộc chiến với người Gauls, Lucanian, Etruscan, Samnite, và 
Bruttia, họ sẽ chiếm Tarentum. Một sự kiện có liên quan người Tarentines là phe 
quý tộc của Thurii mà nắm quyền lực đã mời một đơn vị đồn trú La Mã vào thành 
phố của họ; người Tarentines, những người đã từng là biểu tượng của tất cả các 
thuộc địa ở Magna Graecia, đã rất lo lắng về thực tế này. 
Phe thứ hai ở Tarentum là quý tộc, do Agis, người không phản đối việc đầu hàng 
Rome, vì nó sẽ dẫn đến sự trở lại của phe quý tộc nắm quyền. Các quý tộc, tuy 
nhiên, không thể đầu hàng trực tiếp và điều này sẽ khiến họ mất sự ủng hộ của 
người dân. Mùa thu năm 282 TCN, Tarentum tổ chức lễ hội thờ thần Dionysus của 
họ , trong khi ở nhà hát của mình trước biển, họ nhìn thấy mười tàu La Mã, với 
binh sĩ và đồ tiếp tế cho quân lính La Mã ở Thurii, đi vào Vịnh Taranto [1]. Người 
Tarentine đã tức giận, bởi vì những người La Mã đã ký một thỏa thuận không đi 
thuyền vào Vịnh Taranto, và họ chuẩn bị lực lượng hải quân của họ để tấn công 
các tàu La Mã. Một vài trong số các tàu bị chìm, và một bị bắt. 
Người Tarentines biết rằng họ có ít cơ hội chiến thắng khi chống lại Rome. Họ 
quyết định mời Pyrros tới giúp đỡ, vua của Ipiros. Quân đội và hạm đội của 
Taranto chuyển đến Thurii và giúp phe dân chủ trục xuất phe quý tộc. Đơn vị đồn 
trú La Mã đặt ở Thurii phải rút lui. 
Người La Mã đã gửi một sứ mệnh ngoại giao để giải quyết vấn đề và giải phóng 
các tù nhân, nhưng các cuộc đàm phán đã kết thúc đột ngột, do đó, La Mã tuyên 
chiến với Tarentum. Năm 281 TCN, quân đoàn La Mã dưới sự chỉ huy của Lucius 
Aemilius Barbula tiến đến Tarentum và cướp phá nó. Tarentum, với người 
Samnite và quân tiếp viện người Salentinia, sau đó bị thua một trận chiến chống 
lại người La Mã. Sau trận đánh người Hy Lạp đã chọn Agis ký một thỏa thuận 
ngừng chiến và bắt đầu cuộc đàm phán ngoại giao. Những cuộc đàm phán cũng đã 
đổ vỡ khi 3.000 quân từ Ipiros dưới sự chỉ huy của Milon tiến vào vào thị trấn. 
Chấp chinh quan La Mã rút và bị thiệt hại từ cuộc tấn công của những con tàu Hy 
Lạp. 
Pyrros quyết định giúp đỡ Tarentum bởi vì họ đã giúp ông chinh phục đảo Corcyra 
trước đó. Ông cũng biết rằng ông có thể tin cậy vào sự giúp đỡ từ người Samnites, 
Lucania, Bruttia, và một số bộ tộc Illyria. Mục tiêu cuối cùng của ông là chinh 
phục lại Macedonia, mà ông đã bị mất trong năm 285 TCN, nhưng không có đủ 
tiền để tuyển mộ binh lính. Ông lên kế hoạch để giúp Tarentum, sau đó đi đến 
Sicily và tấn công Carthage. Sau khi chiến thắng một cuộc chiến tranh chống lại 
Carthage và chiếm miền Nam Ý, ông sẽ có đủ tiền để tổ chức một đội quân hùng 
mạnh và chiếm Macedonia. 
[ ] Chuẩn bị 
Trước khi ông rời Ipiros, Pyrros thành lập một liên minh, mượn quân và tiền bạc 
từ vua Macedonia, Ptolemaios Keraunos. Bạn bè của ông suốt thời gian dài và 
đồng minh Ptolemaios II Philadelphos, vua của triều đại Ptolemaios Ai Cập, cũng 
hứa sẽ gửi 9.000 binh sĩ và 50 con voi chiến. Ông cũng tuyển dụng kị binh từ 
Thessaly và cung thủ từ Rhodes - vì những vị vua cai trị của họ muốn tránh một 
cuộc chiến tranh với Ipiros. Mùa xuân năm 280 TCN Pyrros đã đổ bộ mà không có 
thiệt hại ở Ý. 
Sau khi nghe khi Pyrros đến Ý, La Mã huy động tám quân đoàn với lính đồng 
minh, tổng cộng khoảng 80.000 binh sĩ. Họ chia nó thành bốn đội quân: 
 Một đội quân dưới sự chỉ huy của Barbula, với mục đích để đánh lạc hướng 
người Samnite và Lucania vì vậy họ không thể tham gia quân đội Pyrros. 
Họ được đặt ở Venusia. 
 Một đội quân thứ hai ở lại phía sau để bảo vệ Rome. 
 Một đội quân thứ ba dưới sự chỉ huy của chấp chính quan Tiberius 
Coruncanius hành quân chống lại người Etruscan, để tránh một liên minh 
giữa họ và Pyrros. 
 Một đội quân thứ tư dưới sự chỉ huy của Publius Valerius Laevinus hành 
quân đến Tarentum. Họ cũng cướp phá Lucania. 
Publius Laevinus di chuyển theo hướng về Heraclea, một thành phố được thành 
lập bởi người Tarentines, với ý định chia cắt Pyrros khỏi các thuộc địa Hy Lạp của 
Calabria, như vậy tránh được cuộc nổi dậy của họ chống lại Rome. 
[ ] Trận đánh 
Pyrros đã không hành quân chống lại người La Mã trong khi ông đang chờ đợi 
viện binh từ đồng minh của ông. Khi ông hiểu rằng quân tiếp viện đã không đến, 
ông quyết định chống lại người La Mã trên một đồng bằng gần sông Siris (hiện 
nay là Sinni), giữa Pandosia và Heraclea. Pyrros đã chiếm vị trí đó và chờ đợi. 
Trước khi giao tranh, ông ta gửi cho các nhà ngoại giao đến chỗ chấp chính quan 
La Mã, đề xuất rằng ông có thể phân xử các xung đột giữa Rome và dân cư của 
miền nam Ý. Ông hứa rằng các đồng minh của ông được công nhận ông là người 
phán xét và yêu cầu tương tự từ những người La Mã. Người La Mã đã từ chối yêu 
cầu của ông, và tiến đến đồng bằng phía bên phải của sông Siris nơi họ lập trại. 
Không rõ là có bao nhiêu quân mà Pyrros đã để lại ở Tarentum, nhưng ông có lẽ 
đã có khoảng 25-35,000 quân với ông tại Heraclea. Ông đã chiếm vị trí trên bờ trái 
của Siris, hy vọng rằng những người La Mã sẽ gặp khó khăn khi vượt sông, mà sẽ 
cho phép ông có thêm thời gian để chuẩn bị cuộc tấn công của mình. Ông bố trí 
các đơn vị bộ binh nhẹ gần sông để cho ông ta biết khi nào người La Mã bắt đầu 
vượt sông, và lập kế hoạch đầu tiên để tấn công họ với kỵ binh và voi của mình. 
Valerius Laevinus đã có khoảng 30.000 binh sĩ dưới quyền chỉ huy của ông, trong 
đó có nhiều kỵ binh, lính phóng lao, và lính giáo. Đây sẽ là lần đầu tiên trong lịch 
sử mà hai hình thái chiến tranh khác nhau giao chiến: quân đoàn La Mã, và đội 
hình Phalanx của Macedonia. 
Lúc bình minh, người La Mã bắt đầu vượt qua sông Siris. Kỵ binh La Mã tấn công 
vào sườn đội quân trinh sát và bộ binh nhẹ, những người bị buộc phải bỏ chạy. 
Khi Pyrros biết được rằng những người La Mã đã bắt đầu vượt sông, ông đã dẫn 
kỵ binh Macedonia và Thessaly của ông tấn công kỵ binh La Mã. Bộ binh của ông, 
với lính phóng lao, cung thủ và bộ binh nặng, cũng bắt đầu hành quân hướng về 
phía họ. Kỵ binh Epirote thành công trong việc phá vỡ sự hình thành đội hình của 
người La Mã, và sau đó rút lui. Lính phóng lao của Pyrros và cung thủ đã bắt đầu 
bắn và phalanx của ông bắt đầu tấn công. 
Đội hình phalanx thực hiện bảy cuộc tấn công, nhưng không thể phá vỡ các quân 
đoàn. Họ đã gặp một kẻ thù mạnh hơn mà chưa từng gặp phải. Người La Mã đã 
bảy lần tấn công, nhưng họ cũng không thể phá vỡ phalanx. Bầu không khí của 
trận đánh là rất căng thẳng. Tại một điểm, trận chiến đang ở giai đoạn cao độ mà 
Pyrros - nhận ra rằng nếu ông ta hi sinh trong chiến đấu, binh lính của ông sẽ mất 
tinh thần và vì lý do đó - ông đổi giáp với một trong những người bạn của ông. Do 
đó, ông đã được cứu sống ông nhưng rồi ông suýt nữa thì thua trận. Ấy là do 
người mặc áo giáp của Pyrros bị giết và quân La Mã cầm cái mũ dễ nhận của ông 
mà rêu rao khắp chiến trường. Quân La Mã reo hò mừng rỡ, còn ba quân Hy Lạp 
thì kinh hoàng than khóc và trở nên hoảng loạn. Trước tình cảnh ấy, vua Pyrros 
buộc phải ngẩng cao đầu, cưỡi ngựa chạy khắp hàng quân, và hét lên với các chiến 
binh biết ông vẫn còn sống. 
Cuối cùng, lực lượng tượng binh hùng hậu của ông xông lên, làm tiêu tan quân La 
Mã. Hoảng sợ quá, đám Kỵ binh La Mã phải bỏ chạy, và thừa thắng, Pyrros thân 
chinh cầm đầu lực lượng Kỵ binh Thessalia tinh nhuệ xung phong đánh tan tac 
đám tàn quân La Mã, gây cho họ tổn thất nặng nề. Người La Mã phải chạy tháo 
thân để lại doanh trại của họ và Pyrros liền chiếm lĩnh lấy nó.[2] Có sự mâu thuẫn 
giữa các nguồn về thương vong. Hieronymus của Cardia ghi nhận là quân La Mã 
mất khoảng 7 nghìn binh sĩ trong khi Quân đội vua Pyrros mất khoảng 3 nghìn 
binh sĩ. Nhưng Dionysius đưa ra số lượng thương vong là 15 nghìn quân đối với 
La Mã và 13 nghìn quân đối với Hy Lạp. Trong số đó, không ít chiến binh trung 
thành, tinh nhuệ bậc nhất của Pyrros, và những người bạn hữu của ông đã ngã 
xuống hy sinh. [3] 
[ ] Lực lượng 
[ ] Ipiros 
Chỉ huy: Pyrros 
 3.000 hypaspist dưới quyền Milon 
 20.000 phalangites, Epirotes trong đó có 5.000 binh sĩ Macedonia nhận từ 
Ptolemaois 
 6.000 lính hoplite người Tarentine 
 4.000 kỵ binh, bao gồm cả đội ngũ người Thessalia và 1.000 kỵ binh 
Tarentine 
 2.000 cung thủ 
 500 lính phóng thạch thủ Rhodes 
 20 con voi chiến 
[ ] La Mã 
Chỉ huy :Publius Valerius Laevinus 
 20.000 lính La Mã, trong bốn quân đoàn 
 16.800 quân đồng minh, trong bốn quân đoàn 
 2.400 bộ binh nhé, người Bruttia và Campania 
 1.200 kỵ binh La Mã 
 3.600 kỵ binh đồng minh 
 1.200 kỵ binh nhẹ từ các đồng minh miền Nam Ý 
[ ] Kết quả 
Sau trận đánh, quân tiếp viện từ phía nam nước Ý gia nhập quân đội của Pyrros. 
Người Hy Lạp ở Rhegium muốn tham gia với ông bị thảm sát bởi các chiến binh 
La Mã dưới sự chỉ huy của Decius Vibelius, người đã được công bố như là người 
cai trị của thành phố. Pyrrhus sau đó bắt đầu tiến vào Etruria. Ông chiếm nhiều thị 
trấn nhỏ ở Campania, và lực lượng của ông cướp bóc Latium 
[ ] Chú thích 
1. ^ According to Kęciek, the Tarentine aristocracy asked the Roman 
commanders Publius Cornelius and Lucius Valerius to arrest and execute 
the democrats and their followers, which would allow the aristocrats to 
surrender. 
2. ^ William George Smith, Dictionary of Greek and Roman Biography and 
Mythology: Oarses-Zygia, các trang 611-615. 
3. ^ Plutarch, Judith Mossman, Lives of the noble Grecians and Romans, 
trang 203 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 lich_su_104__301.pdf lich_su_104__301.pdf