Bài viết Mạng thông minh (in – intelligent network)

Mạng thông minh (IN) là mạng viễn thông tách rời dịch vụ, nghĩa là sựthông minh

được lấy ra thuộc thiết bịchuyển mạch và trong nút máy tính được phân bổqua mạng. Nó

cung cấp người vận hành mạng phương tiện đểphát triển và điều khiển các dịch vụmột

cách linh hoạt và hiệu quảhơn, những khảnăng mới có thể được đưa vào trong mạng một

cách nhanh chóng hơn. Ngay lập tức nhiều dịch vụ được thương mại hoá một cách dễràng

hơn đáp ứng những nhu cầu của từng cá nhân khách hàng. Bài viết này cốgắng nêu lên

qúa trình tiến hoá mạng viễn thông từmạng cung cấp dịch vụtrên cơsởlôgic chuyển mạch

đến một mạng thông minh tiên tiến tách rời dịch vụcó khảnăng tạo và cung cấp dịch vụ.

NhưIN tiến hoá, các nhà cung cấp dịch vụsẽ đối mặt với nhiều cơhội và thách thức,

trong khi đó IN cung cấp năng lực mạng thoảmãn nhu cầu thay đổi thường xuyên của

khách hàng, tính thông minh của mạng trởthành phân bốvới độphức tạp ngày càng tăng

nhanh. Ví dụ: những nhà cung cấp dịch vụtay ba bên sẽ được kết nối với các mạng của

các công ty khai thác truyền thống. Sốcục bộdi động (LNP - Local Number Portability)

mô tảrất nhiều vấn đềmà chỉcó thểgiải quyết trong môi trường mạng thông minh để đáp

ứng các yêu cầu của quản lý nhà nước. Ngoài ra, do sựcanh tranh tăng nhanh cùng với

những công ty chào hàng dịch vụ điện thoại trước đây bịtừchối thì nay mạng thông minh

(IN) cung cấp giải pháp đểthoảmãn những thách thức và nhiệm vụkhó khăn đó. Bài này

đềcập đến các nội dung sau :

1. Phát triển mạng

2. Bước đầu làm quen với IN

3. Những lợi ích của IN

4. Các phiên bản AIN

5. Công nghệphiên bản AIN 1

6. Mô hình cuộc gọi

7. Phiên bản AIN 0

8. Phiên bản AIN 0.1

9. Phiên bản AIN 0.2

10. Ví dụvề

11. Những dịch vụAIN khác

12. Các thuật ngữ

pdf22 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1245 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài viết Mạng thông minh (in – intelligent network), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 MẠNG THÔNG MINH (IN – Intelligent Network) Vũ Ngọc Quyết Mở đầu Mạng thông minh (IN) là mạng viễn thông tách rời dịch vụ, nghĩa là sự thông minh được lấy ra thuộc thiết bị chuyển mạch và trong nút máy tính được phân bổ qua mạng. Nó cung cấp người vận hành mạng phương tiện để phát triển và điều khiển các dịch vụ một cách linh hoạt và hiệu quả hơn, những khả năng mới có thể được đưa vào trong mạng một cách nhanh chóng hơn. Ngay lập tức nhiều dịch vụ được thương mại hoá một cách dễ ràng hơn đáp ứng những nhu cầu của từng cá nhân khách hàng. Bài viết này cố gắng nêu lên qúa trình tiến hoá mạng viễn thông từ mạng cung cấp dịch vụ trên cơ sở lôgic chuyển mạch đến một mạng thông minh tiên tiến tách rời dịch vụ có khả năng tạo và cung cấp dịch vụ. Như IN tiến hoá, các nhà cung cấp dịch vụ sẽ đối mặt với nhiều cơ hội và thách thức, trong khi đó IN cung cấp năng lực mạng thoả mãn nhu cầu thay đổi thường xuyên của khách hàng, tính thông minh của mạng trở thành phân bố với độ phức tạp ngày càng tăng nhanh. Ví dụ : những nhà cung cấp dịch vụ tay ba bên sẽ được kết nối với các mạng của các công ty khai thác truyền thống. Số cục bộ di động (LNP - Local Number Portability) mô tả rất nhiều vấn đề mà chỉ có thể giải quyết trong môi trường mạng thông minh để đáp ứng các yêu cầu của quản lý nhà nước. Ngoài ra, do sự canh tranh tăng nhanh cùng với những công ty chào hàng dịch vụ điện thoại trước đây bị từ chối thì nay mạng thông minh (IN) cung cấp giải pháp để thoả mãn những thách thức và nhiệm vụ khó khăn đó. Bài này đề cập đến các nội dung sau : 1. Phát triển mạng 2. Bước đầu làm quen với IN 3. Những lợi ích của IN 4. Các phiên bản AIN 5. Công nghệ phiên bản AIN 1 6. Mô hình cuộc gọi 7. Phiên bản AIN 0 8. Phiên bản AIN 0.1 9. Phiên bản AIN 0.2 10. Ví dụ về 11. Những dịch vụ AIN khác 12. Các thuật ngữ 1. Phát triển mạng Những năm đầu thập kỷ 1960, logic dịch vụ điện thoại được mô tả trên Hình 1, các hệ thống chuyển mạch được kết nối vật lý bằng các rơle điện cơ. Những nhà khai thác cung cấp dịch vụ mạng phải gặp các đối tác cung cấp thiết bị chuyển mạch để bàn thảo về những 2 loại hình dịch vụ mà khách hàng yêu cầu, đàm phán về những đặc tính của hệ thống chuyển mạch để cung cấp các dịch vụ và đi đến thống nhất, sau đó nhà khai thác mạng đưa ra kế hoạch phát triển dịch vụ/ tiện ích chung trong cơ cấu mạng chuyển mạch (Hình 1). Quá trình này được kết hợp giữa người điều hành khai thác mạng với những hệ thống chuyển mạch từ nhiều nhà cung cấp, dẫn đến những dịch vụ không được đưa ra bán ở nhiều nơi trên một khu vực phục vụ của nhà khai thác mạng đó. Do vậy, khách hàng ở điểm cuối của một thành phố, tỉnh, hoặc một lãnh thổ không có được những dịch vụ giống như những người ở khu vực khác nhau trong cùng một vùng. Ngoài ra, một trong những dịch vụ được thực hiện, chúng không thể sửa đổi một cách dễ ràng để đáp ứng những yêu cầu của khách hàng riêng lẻ. Thông thường, người vận hành mạng thương lượng thay đổi với người cung cấp thiết bị chuyển mạch, kết quả của quá trình này được thực hiện trong nhiều năm để lập kế hoạch và thực thi những dịch vụ. Phương pháp này để triển khai những dịch vụ mới cần sự quản lý chặt chẽ của những mô hình cuộc gọi, cung cấp các nhóm đường trục mới để điểu khiển những mô hình cuộc gọi. Vì thói quen gọi của khách hàng (độ dài của cuộc gọi lâu hơn, phạm vi lớn hơn, và nhiều tuyến trong hoạt động kinh doanh và trong cuộc sống). 1.1. Chuyển mạch điều khiển bằng chương trình nhớ sẵn (SPC) Vào giữa những năm 1960, hệ thống chuyển mạch điều khiển chương trình nhớ sẵn (SPC – Stored Program Controlling) ra đời, đó là một bước tiến quan trọng, từ lúc đó nguyên lý thực hiện dịch vụ được chương trình hóa khác với quá khứ, các dịch vụ mới được đưa ra một cách dễ dàng. Tuy vậy nguyên lý thực hiện dịch vụ không dựa trên môđun vì thế nó trở nên phức tạp hơn khi thêm vào những dịch vụ mới bởi vì sự phục thuộc giữa dịch vụ và nguyên lý thực hiện dịch vụ đặc trưng. Về cơ bản, nguyên lý thực hiện dịch vụ được sử dụng cho một dịch vụ không thể sử dụng cho dịch vụ khác. Kết quả là, nếu những khách hàng không được hệ thống chuyển mạch SPC cung cấp dịch vụ thì họ không được cung cấp những dịch vụ mới. 1.2. Mạng báo hiệu kênh chung (CCSN – Common Channel Signalling Network) Thêm một diện mạo nữa của quá trình đưa ra những dịch vụ theo truyền thống là thông tin thiết lập cuộc gọi - đó là báo hiệu và giám sát cuộc gọi đặt giữa các hệ thống Hình 1: Dịch vụ điện thoại truyền thống Hệ thống chuyển mạch Hệ thống chuyển mạch Bên gọi Bên bị gọi Logic dịch vụ khởi đâu mới - Cuộc gọi ba hướng - Quay số giọng nói Logic dịch vụ kết cuối mới - Đợi cuộc gọi - Chuyển hướng cuộc gọi 3 chuyển mạch và cuộc gọi hiện tại. Khi một cuộc gọi được thiết lập, tín hiệu và đường thoại sử dụng đường trung kế chung giống nhau từ hệ thống chuyển mạch gốc đến hệ thống chuyển mạch đích. Thông thường có nhiều khu nhà phức tạp gặp khó khăn khi định hướng một cuộc gọi. Hệ thống sử lý nắm vững những đường trục trong tất cả những hệ thống chuyển mạch phức tạp. Vì thế, nếu đầu nút kết thúc bận, tất cả những đường trục đã được thiết lập quá mức cần thiết. Mạng viễn thông đạt một bước tiến lớn, vào giữa những năm 1970 khi hệ thống báo hiệu kênh chung được đưa vào mạng (CCS – Common Channel Signalling System) hay còn gọi là hệ thống báo hiệu số 7 (SS7). Hệ thống báo hiệu kênh chung là giao thức để chạy qua mạng báo hiệu kênh chung (CCSN), mạng báo hiệu kênh chung bao gồm những liên kết dữ liệu dưới dạng gói và những hệ thống chuyển mạch dữ liệu gói được gọi là những điểm truyền báo hiệu (STPs). Mạng SS7 (Hình. 2) tách ra khỏi thông tin thiết lập cuộc gọi và đường thoại từ đường trục chung mà vận hành giữa những hệ thống chuyển mạch. Thông tin thiết lập cuộc gọi di chuyển ra ngoài đường trục chung thông qua mạng SS7. Các loại thông tin được truyền bao gồm : cho phép thiết lập cuộc gọi được hay không khi bên bị gọi bận. 1.3. Báo hiệu kênh chung Công nghệ SS7 mở rộng tuyến đường trục giữa các hệ thống chuyển mạch cho những cuộc gọi hiện thời. Mạng SS7 cho phép đưa vào những dịch vụ mới, như ID người gọi. ID người gọi cung cấp số điện thoại của bên gọi, nó được truyển qua mạng SS7. Mạng SS7 được thiết kế và ứng dụng trước khi định nghĩa mạng thông minh (IN) được giới thiệu. Tuy nhiên, những nhà cung cấp dịch vụ điện thoại đã nhận ra nhiều lợi ích, từ đó tích cực khai thác và sử dụng những năng lực tiềm tàng của mạng SS7. 2. Các vấn đề về IN Trong suốt những năm 1980, những công ty thành viên Bell trực thuộc khu vực (RBOCs) đã bắt đầu đề ra những tính năng nhằm đáp ứng những mục tiêu sau: - Phát triển nhanh những dịch vụ trong mạng. Hình 2: Báo hiệu kênh chung Hệ thống chuyển mạch Hệ thống chuyển mạch Bên gọi Bên bị gọi • Giới thiệu về Hệ thống báo hiệu kênh chung (CCS) cho báo hiệu năm 1976 - Sự chậm trễ được giảm bớt - Giảm thiểu gian lận - Sự tin cậy được cải thiện - Có khả năng báohiệu trong suốt cuộc gọi ổn định Mạng báo hiệu Các điểm truyền báo hiệu (STPs) 4 - những giao diện chuẩn. - Những cơ hội mà không có những RBOC để đưa ra những dịch vụ để tăng tính sử dụng mạng. Telcordia Technologies đáp lại những yêu cầu này và phát triển thêm khái niệm mạng thông minh 1 (IN/1) được mô tả trên Hình 3. Lần đầu tiên IN/1 đã trình bày nguyên lý thực hiện dịch vụ ở bên ngoài các hệ thống chuyển mạch, đặt trong những cơ sở dữ liệu gọi là những điểm điều khiển dịch vụ (SCP – Service Controll Points). Hai dịch vụ đưa ra đó cần đến nguyên lý thực hiện dịch vụ IN/1 - dịch vụ 800 (hay điện thoại miễn phí) và xác minh thẻ cuộc gọi (hay dịch vụ thực hiện hóa đơn luân phiên [ABS]). Do đặc tính riêng biệt dịch vụ của công nghệ, có những dịch vụ yêu cầu đến 2 SCP tách biệt nhau. Để giao tiếp với nguyên tắc thực hiện dịch vụ giá trị gia tăng, phần mềm phải được triển khai trong những hệ thống chuyển mạch. Phần mềm hệ thống chuyển mạch này cho phép thừa nhận hệ thống chuyển mạch khi nó cần thiết để giao tiếp với một SCP thông qua mạng SS7. Cùng với việc đưa ra khái niệm, những nhà khai thác mới và những hệ thống trở nên cần thiết để tạo thành những dịch vụ hỗ trợ, kiểm tra, và dự phòng. Trong cả hai hình vẽ, chú ý thuật ngữ “những hệ thống quản lý dịch vụ riêng biệt” ở dưới khung có nhãn “hệ thống quản lý dịch vụ”. Điều này có nghĩa rằng phần mềm chỉ ra những điểm neo và nút nhấn là riêng biệt để liên kết các dịch vụ. Ví dụ như dịch vụ 800 có nút kiểu 800 trong hệ thống chuyển mạch, cơ sở dữ liệu của dịch vụ 800 đặt tại SCP, một hệ thống quản lý dịch vụ 800 để hỗ trợ SCP 800. Trong điều kiện dịch vụ đặc trưng này, dịch vụ 800 tập hợp những khả năng không thể thực hiện cho những dịch vụ khác (ví dụ như dịch vụ 900). Mặc dù phương thức thực hiện dịch vụ nằm ngoài hệ thống chuyển mạch, nó vẫn là dịch vụ riêng lẻ. Hình 3: Mạng thông minh 1 (IN/1) Hệ thống chuyển mạch Sử dụng SCP cho những dịch vụ tập trung: - Những dịch vụ cuộc gọi thẻ - Dịch vụ 800 SCP Hệ thống quản lý dịch vụ (SMS) Những hệ thống quản lý dịch vụ riêng biệt “Những bản lề “ dịch vụ riêng biệt mới trong phần mềm chuyển mạch STP 5 Nhìn thoáng qua lần đầu, Hình 4 trông giống như hình 3. Tuy nhiên có một sự khác biệt cơ bản. Chú ý đến cách diễn đạt “những hệ thống quản lý dịch vụ độc lập” ở bên dưới khung có nhãn “hệ thống quản lý dịch vụ”. Sau đây lấy dịch vụ đặc trưng 800 IN/1 làm ví dụ, phần mềm dịch vụ độc lập AIN có 3 phím sô bấm có thể được sử dụng để cung cấp một dẫy các dịch vụ 3 số (800, 900, XXX,...) trái với phương thức thực hiện dịch vụ 800. Tương tự như vậy, phương thức thực hiện dịch vụ và hệ thống quản lý dịch vụ là những dịch vụ riêng biệt, không dịch vụ đặc trưng. AIN là một mạng có khả năng dịch vụ độc lập. 3. Những tiện ích của các IN Lợi ích chính của IN là khả năng cải tiến các dịch vụ hiện tại và phát triển những tài nguyên mới quốc gia. Để đáp ứng những mục tiêu này, các nhà cung cấp mong muốn có khả năng giải quyết hoàn hảo các vấn đề sau: • Đưa ra dịch vụ mới một cách nhanh chóng - IN đưa ra khả năng cung cấp những dịch vụ mới hoặc thay đổi những dịch vụ hiện có trong toàn mạng bằng sự can thiệp vật lý. • Cung cấp dịch vụ theo yêu cầu khách hàng - Các nhà cung cấp mong muốn có khả năng thay đổi phương thức thực hiện dịch vụ một cách nhanh chóng và hiệu quả. Những khách hàng cũng đã hạn chế những đòi hỏi khắt khe những dịch vụ của riêng họ để làm thỏa mãn những thứ cần thiết của riêng họ. • Thiết lập đại lý cung cấp độc lập - Một tiêu chuẩn chủ yếu cho những nhà cung cấp dịch vụ đó là những phần mềm phải được phát triển nhanh chóng và rẻ. Để hoàn thành được điều này, những người cung cấp hệ thống phải kết hợp được những phần mềm thương mại sẵn có để tạo ra những ứng dụng do các nhà cung cấp dịch vụ yêu cầu. • Tạo ra những giao diện mở - những giao diện mở cho phép những nhà cung cấp dịch vụ đưa ra các nhân tố mạng nhanh chóng để cá nhân báo những dịch vụ của Hình 4: Công nghệ AIN Hệ thống chuyển mạch Nền công nghệ SCP - Phục vụ những khả năng độc lập - Phần mếm ứng dụng SCP Hệ thống quản lý dịch vụ (SMS) Những hệ thống quản lý dịch vụ độc lập Sử lý cuộc gọi chung - Phục vụ những khả năng độc lập - Các tricgơ STP 6 khách hàng. Phần mềm phải chỉ ra những giao diện chung giữa các sản phẩn của những đại lý cung cấp khác nhau, trong khi đó vẫn duy trì được những tiêu chuẩn vận hành mạng một cách nghiêm ngặt. Những nhà cung cấp dịch vụ không thể dựa vào một hoặc hai đại lý cung cấp để cung cấp thiết bị và phần mềm để đáp ứng những yêu cầu của khách hàng. Công nghệ mạng thông minh tiên tiến (AIN - Advance Intelligent Network) sử dụng phương thức nhúng của các hệ thống chuyển mạch điều khiển theo chương trình nhớ sẵn và mạng SS7. Công nghệ AIN cho phép tách biệt những chức năng dịch vụ đặc trưng và dữ liệu từ những tài nguyên mạng khác nhau. Chức năng này làm giảm bớt sự lệ thuộc của những đại lý cung cấp hệ thống chuyển mạch để phát triển phần mềm và những kế hoạch phân phối. Những nhà cung cấp dịch vụ có thể thoải mái hơn để đưa ra những dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng. Điểm điều khiển dịch vụ (SCP – Service Control Point) bao gồm nhiều khả năng chương trình hóa những dịch vụ riêng biệt (hoặc phương thức thực hiện dịch vụ) đó là sự hạn chế dưới chuẩn của các nhà cung cấp dịch vụ. SCP cũng bao gồm dữ liệu dịch vụ đặc trưng cho phép các nhà cung cấp dịch vụ và những khách hàng của họ hướng tới những dịch vụ theo yêu cầu. Với IN, không có loại nào là cỡ duy nhất phù hợp với tất cả các dịch vụ được yêu cầu để đáp ứng những thứ cần thiết của cá nhân. Do phương thức thực hiện dịch vụ do nhà cung cấp dịch vụ điều khiển, nó dễ ràng hơn khi đưa ra các dịch vụ theo định hướng giá và lợi nhuận. Những nhà cung cấp mạng có thể chào hàng tại thị trường trọng điểm để thử nghiệm dịch vụ bằng cách đưa phương thức thực hiện dịch vụ vào trong một SCP và thử nghiệm những khả năng trong thị trường đó hay trong những hệ thống chuyển mạch khác. Những tiêu chuẩn và sự công khai được chấp nhận, những cái chung của tài liệu dẫn chứng hợp lý cung cấp một phương thức tiêu chuẩn giữa những hệ thống chuyển mạch và các SCP, đặc biệt là trong điều kiện đa nhà đại lý cung cấp. 4. Các công nghệ phiên bản AIN Yêu cầu cho những dịch vụ AIN vượt xa lợi ích của chức năng mạng. Những nhà cung cấp dịch vụ không thể đợi tất cả các tính năng và chức năng như đã được mô tả trong phiên bản AIN 1. Các phiên bản AIN 1 định rõ tất cả các loại nhu cầu, nó thực hiện tập hợp các khả năng qua lớn để thích ứng được với nền công nghiệp. Telcordia Technologies phát triển tính hoạt động hướng vào những yêu cầu FTS 2000 xuất trình bởi chính phủ Mỹ. Các RBOCs lần lượt làm thích nghi những yêu cầu này để đáp ứng những nhu cầu cần thiết tức thời của khách hàng. Sự cố gắng này là kết quả từ Phiên bản AIN 0, nó có một khung thời gian trước khi có thể sử dụng AIN 0.1. Trong lúc đó, bản thân những tiêu chuẩn quốc tế, Hiệp hội viễn thông quốc tê (ITU) đi theo những khái niệm đưa ra từ trước trong những yêu cầu Phiên bản AIN 1. ITU phát triển một tiêu chuẩn IN quốc tế được gọi là Capability Set 1, hay SC-1. Hình 5 cho thấy đích của công nghệ Phiên bản AIN 1, như được định nghĩa trong Telcordia Technologies AIN Generic Requirements (GRs). 7 Điểm chuyển mạch dịch vụ (SSP – Service Switching Point) trong sơ đồ này là một AIN có năng lực cần thiết cho hệ thống chuyển mạch. Ngoài việc cung cấp cho những đầu cuối người dùng với truy nhập đến mạng và thực hiện bất kỳ một tính năng chuyển mạch cần thiết nào, SSP cho phép truy nhập đến tập hợp những khả năng của AIN. SSP có khả năng phát hiện ra những yêu cầu cho AIN - những dịch vụ cơ bản và những thông tin thiết lập cuộc gọi cùng với phương thức thực hiện dịch vụ AIN được đặt tại những SCP. SSP có thể giao tiếp với những hệ thống mạng khác (ví dụ như những thiết bị ngoại vi thông minh) được các dịch vụ riêng lẻ xác định. Điểm điều khiển dịch vụ (SCP) cung cấp khả năng điều khiển dịch vụ. Có hai thành phần cơ bản trong một SCP, phần một là tính năng ứng dụng trong đó phương thức thực hiện dịch vụ được cài đặt sau khi những dịch vụ được thiết lập. Tính năng ứng dụng này nằm trên đỉnh của phần SCP cơ bản thứ hai - một tập hợp những tính năng nền tảng chung được các nhà cung cấp SCP phát triển. Chức năng nền tảng này được chia sẻ giữa những chương trình ứng dụng phương thức thực hiện dịch vụ trong tính năng hoạt động ứng dụng. Tính hoạt động nền tảng cung cấp giao diện SS7 tới các hệ thống chuyển mạch. Như đã thấy trong sơ đồ trên, SCP được kết nối đến các SSP thông qua mạng SS7. Thiết bị ngoại vi thông minh (IP-Intelligent Peripheral ) cung cấp tài nguyên là những thông báo âm thanh được kết nối và tùy biến, nhận thức tiếng nói, và tập hợp mã đa tần (DTMF) âm kép. IP chứa đựng một ma trận chuyển mạch để kết nối người dùng đến tài nguyên. Ngoài ra, IP hỗ trợ sự tương tác thông tin linh hoạt giữa đầu cuối người dùng với mạng. Nó có những khả năng quản lý tài nguyên để tìm những nguồn thông tin không dùng đến, bắt đầu những nguồn tài nguyên đó, và rồi trả lại chúng trạng thái rỗi. Giao diện giữa SSP và IP là một mạng số đa dịch vụ tích hợp (ISDN), giao diện nhịp độ sơ cấp (PRI), và/hoặc giao diện cơ bản (BRI). IP có tính năng hoạt động để cung cấp giao diện ISDN cho hệ thống chuyển mạch. Cái thêm được thể hiện trong sơ đồ trên tương đương về mặt chức năng đến một SCP, nhưng nó được kết nối trực tiếp đến một SSP. Một giao diện tốc độ cao hỗ trợ truyền thông giữa một cái thêm vào và một SSP. Những thông báo lớp ứng dụng đồng nhất về nội dung được mạng bởi mạng SS7 giữa SSP và SCP. Hình 5: Phiên bản AIN 1 Điểm chuyển mạch dịch vụ (SSP) Mạng CCS Các hệ thống vận hành (OSs) Thiết bị đầu cuối thông minh (IP) Điểm điều khiển dịch vụ (SCP) Bộ phận bổ xung 8 5. Mô hình cuộc gọi Mô hình cuộc gọi là đại diện chung cho những hoạt động cuộc gọi SSP được yêu cầu thiếp lập, duy trì và giải phóng một cuộc gọi cơ bản. Mô hình cuộc gọi bao gồm điểm trong những cuộc gọi (PICs), các điểm tìm kiếm (DPs), và các trigơ được mô tả trong Hình 6 dưới đây. Các PIC miêu tả những hoạt động của hệ thống chuyển mạch bình thường hay các trạng thái mà một cuộc gọi đi xuyên suốt từ điểm đầu đến điểm cuối. Ví dụ: trạng thái vô hiệu lực hay trạng thái rỗi là khi SSP trên thực tế đang kiểm tra đường dây của khách hàng. Những ví dụ khác của các trạng thái, hoặc các PICs, là nhấc máy, thu thập thông tin, phân tích thông tin, định tuyến, cảnh báo, . . . Những hệ thống chuyển mạch đã trải qua những giai đoạn giống nhau trước khi AIN được phát triển. Tuy nhiên, đến khi AIN giới thiệu một mô hình cuộc gọi chính thức hướng đến tất cả các hệ thống chuyển mạch phải được tham gia. Trong mô hình cuộc gọi mới này, các điểm dò tìm trigơ (TDPs) được thêm vào giữa các PICs. Các SSPs kiểm tra TDPs để xem xét nếu có bất kỳ những trigơ tích cực nào. Có 3 kiểu trigơ: các trigơ đường dây cơ sở hay thuê bao, các trigơ nhóm cơ sở, và các trigơ văn phòng cơ sở. Những trigơ thuê bao được cung cấp đến đường dây khách hàng với mục đích là một vài cuộc gọi từ điểm bắt đầu đích và đến điểm kết thúc phải qua trigơ. Các trigơ nhóm cơ bản được thiết kế để các nhóm thuê bao, các nhóm Centrex hay doanh nghiệp, bất kỳ một thành viên nào của một phần mềm định rõ nhóm nào sẽ qua trigơ. Các trigơ văn phòng không được gắn cho những cá nhân riêng lẻ hoặc những nhóm. Nếu một trigơ hoạt động được phát hiện, việc xử lý cuộc gọi trong hệ thống chuyển mạch thông thường bị đình chỉ cho tới khi SSP và SCP hoàn thành việc truyền thông. Chẳng hạn, trong sơ đồ ở trên, hãy nghĩ rằng một cuộc gọi AIN đã có tiến triển trải qua trạng thái không hiệu lực hay nhấc máy là PIC và hiện thời tại thu thập thông tin PIC. Xử Hình 6: Mô hình cuộc gọi: Khái niệm cơ bản Chuyển mạch AIN (SSP) Dịch vụ logic AIN Thông tin_Tập hợp Phân tích_Định tuyến SCP Các điểm phát hiện tricgơ (TDPs) (v.v..., Thông tin được tập hợp) Các điểm trong cuộc gọi (PICs) (v.v..., Tập hợp thông tin) Mô hình cuộc gọ Các tricgơ 9 lý cuộc gọi thông thường bị đình chỉ tại TDP đã thu thập thông tin bởi vì một trigơ trì hoãn hoạt động nhấc máy. Trước quá trình xử lý tiếp tục (phân tích thông tin) PIC, SSP tập hợp một thông báo thông tin đã được thu thập và gửi nó đến SCP thông qua mạng SS7. Sau khi phương thức thực hiện dịch vụ SCP thực hiện theo thông báo, SCP gửi một tin nhắn phận tích định tuyến để nó cho SSP biết phải điều khiển cuộc gọi như thế nào trước khi đi đến một PIC tiếp theo (phân tích thông tin). Thực chất, khi SSP nhận ra đó là một cuộc gọi có một trigơ AIN phụ trợ, SSP đình chỉ quá trình xử lý cuộc gọi trong khi truy vấn SCP cho việc định tuyến cuộc gọi có liên quan. Trước đó SCP cung cấp chỉ dẫn, SSP tiếp tục mô hình cuộc gọi cho đến khi hoàn thành cuộc gọi. Điều này về cơ bản là làm thế nào để mô hình cuộc gọi làm việc, và nó là một thành phần quan trọng trong AIN. Khái niệm này khác với khái niệm chuyển mạch AIN trước kia trong đó những cuộc gọi được xử lý từ trạng thái bắt đầu đến trạng thái kết thúc cuộc gọi mà không có sự trì hoãn cuộc gọi. 6. Phiên bản AIN 0 Mô hình cuộc gọi Phiên bản AIN 0 có 3 điểm kiểm tra trigơ (TCPs). Ở tại mỗi một TCP có một hay nhiều hơn các trigơ. Chẳng hạn, TCP nhấc máy tính cả đến trigơ trực tiếp nhấc máy. Nếu một đường dây thuê bao được trang bị với trigơ này, truyền thông với SCP sẽ xuất hiện nếu hệ thống chuyển mạch phát hiện tình trạng nhấc máy. Cho một trigơ trì hoãn nhấc máy, một hoặc hơn số đã được quay trước khi bắt đầu một quá trình đến SCP. Với tập hợp số và phân tích TCP, các số được thu thập được phân tích trước khi bắt đầu một quá trình. Khởi sự một quá trình cũng có thể xuất hiện khi định tuyến trạng thái cuộc gọi. Mô hình cuộc gọi được thể hiện trong hình 7. Khi một hệ thống chuyển mạch đoán nhận một cuộc gọi cần đến sự bao hàm AIN, nó kiểm tra những điểu kiện quá tải trước khi truyền thông với SCP. Quá trình xử lý này được gọi là gián đoạn mã. Gián đoạn mã cho phép SCP thông báo hệ thống chuyển mạch giảm thiểu thông báo các NPA hay NPA-NXX một cách chắc chắn. Khi gián đoạn mã bị tác động, một vài cuộc gọi có thể nhận được cách xử lý cuối cùng. Cách khác, một thông báo tài liệu cung cấp được gửi đến SCP. Phụ thuộc vào phương thức thực hiện dịch vụ SCP, nó Hình 7: Mô hình cuộc gọi Phiên bản AIN 0 Rỗi Nhấc máy Phân tích & Tập hợp số Định tuyến TCPs • Nhấc máy trực tiếp • Nhấc máy • Chiếm dụng trung kế đến • Kênh PRI B • Các bộ hoạt động đặc trưng BRI • Mã hoá đặc trưng PODP (*XX) • Các mã tiến hành quay só theo yêu câu của khách hàng • Chia sẻ trung kế giữa các phòng (Truy nhập trigơ quá giang) • Tự động định tuyến mềm dẻo • Số danh bạ điện thoại 10 sẽ hồi đáp đến hệ thống chuyển mạch với một vài kiến thức xử lý cuộc gọi được thể hiện trên hình 8. Phiên bản AIN 0 cung cấp thông cáo tại hệ thống chuyển mạch. Phiên bản 0 căn cứ vào Công nghiệp tiêu chuẩn quốc gia Mỹ (ANSI) và Phần ứng dụng khả năng trao đổi (TCAP) số 1. TCAP ở lớp số 7 của chồng nghi thức SS7. Điều này có nghĩa rằng có duy nhất một tin nhắn được gửi từ SSP đến SCP, không có trigơ nào đạt được một trong 3 TCP. 7. Phiên bản AIN 0.1 AIN 0.1 là tập hợp con đầu tiên của Phiên bản AIN 1. Có 2 sự khác nhau cơ bản giữa Phiên bản AIN 0 và AIN 0.1. Đầu tiên là mô hình cuộc gọi cân đối và thứ 2 là thiết lập truyền thông giữa hệ thống chuyển mạch và SCP. Mô hình cuộc gọi cân đối được tách ra bên trong mô hình cuộc gọi phát sinh (một nửa cuộc gọi phát sinh) và mô hình cuộc gọi kết thúc (một nửa cuộc gọi kết thúc). Mô hình cuộc gọi Phiên bản AIN 0 không phân biệt giữa điểm bắt đầu và điểm kết thúc. Một tiêu chuẩn hay một mô hình cuộc gọi cân đối là cần thiết trong khi chúng ta phát triển tới khả năng của Phiên bản AIN 1, bởi vì những khả năng đó sẽ có nhiều các PIC và TDP hơn. Đông thời, sẽ có các kiểu chuyển mạch phức tạp và gồm các phần tử mạng. Bởi vậy, phương thức thực hiện dịch vụ sẽ cần tương tác với mỗi phần tử mà sẽ được yêu cầu trong mạng. AIN 0.1 bao gồm một vài đặc tính chính khác. Có 254 thông cáo trong hệ thống chuyển mạch, nó cung cấp những thông báo linh hoạt hơn, sẵn sàng đến những khách hàng. Có thêm các chức năng cuộc gọi có liên quan và không có cuộc gọi liên quan cũng như 3 trigơ thêm vào - trigơ N11, trigơ số 3, 6, 10, và trigơ cuối cùng. Nhiều trigơ hơn cung cấp thêm những cơ hội cho phương thức thực hiện dịch vụ SCP ảnh hưởng đến quá trình xử lý cuộc gọi. (Chú ý: TCP là một Phiên bản AIN 0 hoàn thành thay đổi đến TDP trong AIN 0.1). Có một vài khả năng không cuộc gọi liên quan trong AIN 0.1. SCP có khả năng kích hoạt và khử kích hoạt những trigơ được thuê. SCP trong AIN 0.1 cũng có thể theo dõi tài AIN Phiên bản 0 khởi sự một hành động Kiểm tra khe hở mã Sử lý cuối cùng Truy vấn TCAP gửi đến SCP Thực hiện thông báo và tập hợp số Định tuyễn cuộc gọi Cuộc gọi kết thúc khi có thông báo Báo cho SCP biết khi cuộc gọi được giải phóng Thông tin khe hở mã Đưa ra những chỉ dẫn Hình 8: Các chức năng của Phiên bản AIN 0 11 nguyên. Ngoài việc gửi một thông báo định tuyến cuộc gọi cho hệ thống chuyển mạch, SCP có thể đòi hỏi hệ thống chuyển mạch theo dõi trạng thái bận và ngừng của đường dây đặc biệt và những thay đổi của báo cáo. AIN 0.1 cũng hỗ trợ những tính năng ISDN chuẩn. Như đã được đề cập trước đó, có một sự phân biệt giữa ranh giới khởi tạo và ranh giới kết thúc của một điểm chuyển mạch dịch vụ. Điều này có nghĩa cả hai trigơ khởi tạo và kết thúc và phương thức thực hiện dịch vụ có thể ảnh hướng đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmang_thong_minh_9242.pdf
Tài liệu liên quan