Bàn về hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật ở nước ta hiện nay

1. Đặt vấn đề

Hiệu quả hoạt động nhà nước, xã hội và

cá nhân đang là vấn đề được quan tâm đặc

biệt hiện nay. Ở nước ta, việc nghiên cứu,

đánh giá vấn đề hiệu quả các loại hình hoạt

động vẫn còn là những bước đi đầu tiên, đặc

biệt đối với các lĩnh vực pháp luật trong đó

có phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL).

PBGDPL về bản chất sẽ mang lại những lợi

ích to lớn cho xã hội do vậy cần thiết phải

tính đến chất lượng, hiệu quả trên cả bình

diện cá nhân, tổ chức và toàn xã hội.

pdf62 trang | Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 309 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bàn về hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
S), vấp phải sự chống đối từ các quốc gia đang phát triển. Nhưng, chí ít, ta cũng đã xây dựng nên những cơ chế giúp chia sẻ sự hiểu biết, tăng cường ý thức về sự khác biệt cũng như về nhu cầu được hỗ trợ kỹ thuật. WTO còn tỏ ra là nơi cung cấp thông tin và kinh nghiệm chuyên môn cho các quốc gia thành viên. Chương trình do Hội đồng thương mại dịch vụ triển khai liên quan đến công tác đánh giá lĩnh vực thương mại này là một ví dụ điển hình cho nhận định trên. Giai đoạn một của chương trình tập trung vào việc trao đổi thông tin nhằm thu thập các dữ liệu liên quan đến các rào cản trong thương mại dịch vụ trong 16 lĩnh vực; giai đoạn hai là giai đoạn đánh giá thật sự, giúp làm rõ các khiếm khuyết về số liệu thống kê cũng như về dữ liệu, cũng như tình hình tuân thủ những cam kết liên quan đến việc mở cửa thị trường của các quốc gia thành viên WTO. Việc thu thập dữ liệu được bổ sung bằng một nghiên cứu của UNCTAD2, tổ chức đã giúp các quốc gia đang phát triển xác định vị thế của mình tại những cuộc đàm phán trong các lĩnh vực này. Thêm vào đó, vì các quốc gia đàm phán luôn cần được cung cấp thông tin bằng một biểu đồ về tình hình thương mại dịch vụ, mà điều này thì đòi hỏi một công việc mang tính liên thông về dữ liệu, nên từ năm 1995 WTO đã tham gia vào nhóm làm việc liên tổ chức về thống kê trong lĩnh vực thương mại dịch vụ quốc tế cùng với OECD, IMF, UNCTAD, Cơ quan thống kê của liên minh châu Âu EUROSTAT và Cơ quan thống kê của Liên Hiệp Quốc UNSD. Nhờ vào công việc của họ mà cẩm nang về thống kê trong lĩnh vực thương mại dịch vụ quốc tế mới được ấn hành và đặt nền móng cho một khung tham chiếu chung. Như vậy, WTO là một trong những thể chế mấu chốt trong việc thu thập và phổ biến thông tin trong lĩnh vực này. Vai trò hài hòa hóa Ngoài ra, công việc của các ủy ban trong lĩnh vực dịch vụ cũng nói lên vai trò hài hòa hóa của các ủy ban này, vai trò ấy được thể hiện theo hai cách chính. Một mặt, những cuộc tranh luận về ý nghĩa của các điều khoản chưa rõ nghĩa trong các quy định về các dịch 2 Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển (ND) 48 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011 vụ sẽ là dịp để cùng đạt được những cách diễn giải được các bên chấp nhận. Chúng ta có thể kể ra trường hợp của cuộc tranh luận về sự phân biệt giữa tự do hóa thương mại các dịch vụ tài chính và tự do hóa dòng chảy tư bản, một trong những thách thức là phải làm rõ xem liệu các cam kết đưa ra trong khuôn khổ WTO, dưới hình thức hiện tại, có kéo theoviệc mở cửa cho dòng chảy tư bản hay không. Ít nhất thì thông qua những cuộc tranh luận đó ta cũng thấy rằng các thành viên của ủy ban dịch vụ tài chính đã thống nhất rằng có một sự khác biệt và rằng đa số các quốc gia thành viên WTO không mong muốn bị lôi cuốn vào tự do hóa các dòng chảy tư bản vì đối với họ việc mở cửa các dịch vụ tài chính không đồng nghĩa với việc mở cửa thị trường vốn. Cũng cần nói rõ rằng không phải lúc nào các Thành viên của WTO cũng sẵn sàng tham gia vào những cuộc tranh luận như vậy (ví dụ về các dịch vụ cung cấp qua internet). Một hình thức đóng góp khác vào việc hài hòa hóa là kết quả của mối liên hệ giữa các ủy ban với các tổ chức chuẩn hóa hoặc điều chỉnh; chính những mối liên hệ này đã thôi thúc các quốc gia thành viên WTO tham gia vào công việc của các tổ chức này. Lĩnh vực các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật (SPS) là một minh chứng cho điều ý trên. Trên nguyên tắc, các Thành viên WTO tự do lựa chọn cấp độ bảo vệ về mặt y tế mà họ muốn. Tuy vậy, họ cũng cần đưa ra lời giải thích cho sự chọn lựa này để chứng minh rằng họ không dùng những biện pháp hạn chế vào mục đích bảo hộ. Họ sẽ được miễn không phải đưa ra lời giải thích nếu họ chọn một cấp độ bảo vệ tương ứng với cấp độ nêu trong các chuẩn đã thống nhất trên phạm vi quốc tế, các chuẩn tham chiếu là các chuẩn của Codex alimentarius (Ủy ban chuyên môn của FAO/ WHO về các quy chuẩn và tiêu chuẩn quốc tế thuộc lĩnh vực an toàn thực phẩm), Ủy ban quốc tế về dịch động vật hoặc Công ước quốc tế về bảo vệ thực vật. Phù hợp với quy định của Hiệp định SPS, Ủy ban SPS đã lập ra một quy trình theo dõi việc các Thành viên của WTO sử dụng các chuẩn quốc tế. Sau đó, mọi người mới nhận thấy rằng đây cũng là quy trình theo dõi việc áp dụng các bước hài hòa hóa quốc tế, và nó cho phép đánh giá xem có cần đưa ra một chuẩn mới hay không hoặc đánh giá rằng một chuẩn nào đó đã không còn phù hợp. Do đó, Ủy ban SPS là một đối tác của các tổ chức ban hành các tiêu chuẩn. Một lần nữa, cần phải nhắc lại rằng các chức năng này không phải lúc nào cũng được thực hiện với một kết quả cao. Thật vậy, những công việc trên đã cho thấy rằng các quốc gia đang phát triển thiếu trình độ chuyên môn trong các lĩnh vực trên, đồng thời cũng cho thấy họ hầu như vắng mặt trong các quy trình hài hòa hóa. Câu hỏi đặt ra bây giờ là những quốc gia nào là những quốc gia thực sự tham gia và tác động vào việc hình thành các quy trình này? Tuy nhiên, những năm gần đây, WTO cũng đã có một số nỗ lực để tăng cường sự tham gia của các quốc gia đang phát triển. Các điểm trên cho thấy ảnh hưởng của WTO, tuy tầm ảnh hưởng này ít được nhận thức rõ do tính bấp bênh và do tính chất đặc thù về quản lý của WTO. Ảnh hưởng này có thể lan tỏa đến các đàm phán đang tiến hành và tạo điều kiện thuận lợi cho các đàm phán, thậm chí ra ngoài phạm vi đàm phán, và làm giảm đi các nguy cơ “đụng độ” giữa luật đa phương với luật khu vực. Ảnh hưởng này cũng làm dấy lên một vấn đề về các cú hích chính trị mà nó nhận hay không nhận. Ít nhất thì công việc của các ủy ban khác nhau cũng có thể là những véc-tơ giúp các mô hình tạo ảnh hưởng và tạo ra điểm gặp gỡ của các quy chuẩn. Theo một số quan điểm, điều này cũng không làm thay đổi hiện trạng các tương quan lực lượng hoặc các luồng ảnh hưởng. Nhưng cũng khó khẳng định rằng nó hoàn toàn không có tác động. Vì hai lý do chính, ta cũng không nên cường điệu hóa các tác động trên. Một mặt, mỗi ủy ban đứng ở vị trí riêng trong công việc của mình và, dù có một nỗ lực hài hòa hóa hay 49LUẬT QUỐC TẾ sự chuẩn bị từ phía các tổ chức thì sự tách biệt trong công việc của họ cũng sẽ không giúp dàn xếp được nhượng bộ đưa ra trong khuôn khổ của các đàm phán toàn thể. Mặt khác, đây là những ủy ban liên chính phủ và khó có thể hình dung ra rằng các cơ quan quản lý nhà nước của các Thành viên sẽ lơ là công tác giám sát hoạt động của các ủy ban. Tuy vậy, ta cũng không nên xem nhẹ tác động của việc quản lý thường xuyên này, do những ràng buộc mà sự quản lý này tạo ra hoặc do những mối lợi mà các Thành viên sẽ đạt được khi họ đi theo những xu hướng được tạo ra bởi quá trình quản lý. Có lẽ cần nhìn nhận giả thuyết rằng việc tuân thủ các quy định chung, hoặc khuynh hướng của các quy định chung, sẽ mang lại lợi ích cho tất cả các Thành viên. Theo một số quan điểm, vẫn còn thiếu một mắt xích giúp kết nối thành tựu của việc quản lý thường xuyên với sự hướng tới tương lai mà hiện thân là cuộc đàm phán đa phương. Dù sao, hoạt động của các ủy ban được phân tích ở phía trên đây giải thích, ít ra là một phần, cho thành công của cơ chế giải quyết tranh chấp (Dispute settlement mechanism, DSM). Giải quyết tranh chấp thương mại Cơ chế giải quyết tranh chấp (DSM) thương mại có thể được áp dụng cho tất cả các thỏa thuận của WTO, là “trọng tâm của hệ thống thương mại đa phương và là sự đóng góp cao nhất của WTO vào việc ổn định nền kinh tế thế giới”, nếu ta dựa trên ý tưởng rằng “không có một công cụ giải quyết tranh chấp, toàn bộ hệ thống dựa trên các quy định sẽ không còn giá trị gì vì các quy định sẽ không thể được thực thi” (website của WTO). DSM đã được lập ra để giúp giải quyết nhanh chóng và hữu hiệu các tranh chấp. Bất kể các chỉ trích liên quan đến án lệ của WTO, DSM ngày nay thật sự là một cơ chế giải quyết tranh chấp liên quốc gia thành công nhất trên phạm vi toàn thế giới. Sở dĩ đạt được kết quả như vậy, không phải vì trong lĩnh vực thương mại có nhiều tranh chấp hơn trong những lĩnh vực khác mà vì WTO đã được trang bị một cơ chế đặc biệt mạnh. Trong những lĩnh vực khác, do không có cơ chế tương đương với DSM, nên các quốc gia dễ dàng né tránh cơ chế giải quyết tranh chấp. Thực lực của DSM Ngay từ đầu các quốc gia đã muốn có được một DSM mạnh và trong thực tế thì DSM còn mạnh hơn mong muốn ban đầu vì một số lý do liên quan đến bản chất của DSM cũng như vì tình hình hiện tại của WTO. Cơ chế DSM có hiệu lực ở giai đoạn GATT, dù đã phát triển nhiều qua thực tiễn, vẫn không vận hành trơn tru, vì lúc đó các quốc gia có khả năng cản trở hoạt động của cơ chế và khó mà cản trở toan tính của một quốc gia “bị tuyên án” nhưng từ chối không thực thi phán quyết của DSM. WTO đã muốn sửa chữa thiếu sót này bằng sự phối hợp của nhiều yếu tố nhằm đảm bảo hoạt động hữu hiệu của cơ chế DSM. Đầu tiên là DSM, mà phạm vi hoạt động bao phủ tất cả luật WTO, được độc quyền xử lý các tranh chấp liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ được qui định trong luật của WTO. Thứ hai, tất cả các yếu tố gây cản trở đã bị loại bỏ: đưa ra thời hạn đối với tất cả các bước của qui trình, chỉ cần một bên đơn phương đưa vụ việc ra trước DSM là cơ chế sẽ khởi động và các bên liên quan đến một vụ tranh chấp sẽ không thể ngăn cản tiến trình diễn ra. Nói cách khác, trừ trường hợp đình chỉ quy trình (điều mà chỉ có bên nguyên được yêu cầu hoặc là các bên đã chọn giải pháp thương lượng, hoặc là các bên đã giải quyết ổn thỏa vụ việc), chắc chắn sẽ có một phán quyết mang tính bắt buộc. Thứ ba, sự can dự của DSM chưa dừng lại khi các quyết định được thông qua vì việc thực thi các phán quyết này sẽ được đặt dưới sự giám sát đa phương. Khi một Thành viên WTO áp dụng một biện pháp bị DSM cho là không phù hợp với luật WTO thì phải báo cáo hướng điều chỉnh của mình cho phù hợp; nếu điều này không được thực hiện trong thời hạn quy định, Thành viên đó có thể bị bên nguyên áp dụng những biện pháp trả đũa (với điều kiện là WTO bật đèn xanh). Do hệ thống mang tính ràng buộc rất cao 50 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011 nên các quốc gia đã hình thành một số đảm bảo đi kèm. Đầu tiên là cơ chế hai cấp xét xử. Các phán quyết được đưa ra ở cấp sơ thẩm bởi một panel gồm ba thành viên, đây là một cơ quan ad hoc, nếu có kháng cáo thì vẫn có thể được xét xử lại ở Cơ quan phúc thẩm, là một cơ quan thường trực gồm có 7 thành viên, chỉ giải quyết các tranh chấp thuần túy về pháp lý. Chức năng chính của cơ quan này là giám sát (và điều chỉnh) cách thức mà các nhóm đặc biệt đã diễn giải và áp dụng các thỏa thuận cấu thành khung pháp lý WTO. Tiếp theo, phải kể đến cơ chế giám sát việc thực thi. Trong trường hợp có sự bất đồng về thời hạn thực thi thì có thể nhờ vào trọng tài. Trong trường hợp bất đồng về sự tồn tại hoặc về tính tương thích của các biện pháp thi hành thì cũng có thể, một lần nữa, theo một quy trình rút gọn, đưa vụ việc ra trước một nhóm đặc biệt, sau đó, ra trước Cơ quan phúc thẩm. Cuối cùng, nếu không có sự thực thi, bên nguyên xin phép được áp dụng những biện pháp trả đũa. Giá trị của các biện pháp này có thể được giám sát thông qua trọng tài. Điều đó cho thấy rõ vai trò quan trọng của những “thẩm phán”. Số lượng lớn những vụ việc tranh chấp Theo đúng logic, các Thành viên WTO đã không do dự nhờ đến sự can thiệp của DSM, và trong vòng 15 năm DSM đã thụ lý hơn 400 vụ việc (con số rất lớn vì đây là các vụ tranh chấp liên quốc gia). Gần ba phần tư các vụ việc này đã không cần đi đến cùng về mặt pháp lý. Điều này cho phép ngầm hiểu rằng chỉ cần việc nộp đơn kiện cũng đủ để làm xuất hiện một hướng giải quyết. Số vụ việc còn lại đã là cơ sở cho việc hình thành một án lệ phong phú về khối lượng (hơn 30 000 trang báo cáo) cũng như về nội dung. Kết quả là ngày nay, để hiểu rõ luật WTO thì không thể không hiểu rõ về án lệ. Toàn bộ các Thành viên đều quan tâm đến các vụ việc cho dù không phải vụ xét xử nào cũng có tầm quan trọng như nhau. Tuy nhiên, DSM của WTO, sản phẩm của đàm phán, cũng chứa đựng nhiều vùng mập mờ, vốn là cái giá phải trả cho sự thỏa hiệp. Thế mà, một trong những nhiệm vụ quan trọng của cơ chế giải quyết tranh chấp là “làm sáng tỏ” các quy định pháp lý của WTO, nói một cách khác là diễn giải những nghĩa vụ của các Thành viên. Chức năng này càng quan trọng hơn khi ta nhớ rằng cấp xét xử thứ hai chỉ tập trung vào những vấn đề mang tính pháp lý mà thôi. Cơ quan phúc thẩm tập trung hoạt động của mình vào nội dung này. Nếu ít khi cơ quan này bác bỏ kết luận của những nhóm đặc biệt thì trong thực tế nó điều chỉnh lối suy luận đã dẫn đến kết luận của các nhóm này. Như vậy, vai trò làm sáng tỏ đã hoàn thành, đôi khi cái giá phải trả là những nghĩa vụ nặng nề ngoài mong muốn mà một số Thành viên phải chấp nhận. Nhìn chung, bên thua phải chấp nhận những nghĩa vụ nặng nề mà mình không mong muốn và do đó thường phản ứng lại bằng cách chỉ trích. Sản phẩm được tạo ra, khi ấy, đã thoát khỏi tầm kiểm soát của người tạo ra nó. Trước những lệch lạc khó dự báo được của các panel, Cơ quan phúc thẩm, được thành lập chủ yếu do mong muốn tự vệ của các nước thành viên vốn bị ràng buôc bởi các quyết định do DSM đưa ra, đã bị cuốn vào guồng máy, và ngay từ những ngày đầu tiên đã áp dụng một lối tiếp cận mang tính hệ thống về luật WTO. Đây là kết quả của một cách tiếp cận luật WTO như là một hệ thống, từ đó có một suy nghĩ về tính thống nhất và tính đồng bộ, nhưng cũng là một cách tiếp cận luật WTO trong hệ thống luật quốc tế với tư cách là một bộ phận cấu thành nên hệ thống luật này. Khía cạnh này càng đáng lưu tâm khi chính thông qua kênh này mà xuất hiện một số câu hỏi nhạy cảm về chính trị. Chính sách pháp lý Thật vậy, luật của WTO được xây dựng trên cơ sở có dự trù khả năng cho phép các quốc gia thành viên từ chối thực hiện những cam kết thương mại của họ khi lý do của việc từ chối này được xem là chính đáng, như các lý do liên quan đến bảo vệ sức khỏe, môi trường, hoặc liên quan đến đạo đức cộng đồng. Tuy nhiên, luật chơi là không được lợi dụng lối thoát này vào những mục đích mang tính bảo 51LUẬT QUỐC TẾ hộ. Nhưng các cám dỗ thì nhiều, nhất là khi thông qua kênh này, các vấn đề xã hội được đặt ra. Cơ quan phúc thẩm đã xem xét các vụ việc một cách thẳng thắn, theo cách mà các tòa án tối cao thường làm, không do dự thể hiện sự lựa chọn chính trị khi phải thụ lý những vụ việc mà các chính quyền đã không đối đầu trực diện. Nói một cách khác, Cơ quan phúc thẩm đã không nghiêng về quan điểm nhất thiết phải đặt các cam kết thương mại lên trên các mối quan tâm khác. Không phải mọi quốc gia thành viên đều ủng hộ việc đi tìm sự cân bằng này của Cơ quan phúc thẩm. Điều đó có nghĩa là quan tòa của WTO không tự đặt mình vào thế chỉ chọn lựa một luận điểm nào đó của một trong các bên trong một cuộc tranh chấp mà mình xử lý, mà sẽ tự tạo cho mình một khoảng lùi cần thiết để có thể có một góc tiếp cận vấn đề một cách bao quát. Điều này dẫn đến việc tăng cường đáng kể hiệu lực của luật WTO, đến mức mà hiện nay ta có thể xem WTO là một tổ chức hoạt động dựa trên luật. Điều này diễn ra trong một bối cảnh các phòng xử án đã trở thành nơi tranh luận công cộng, nơi mà các quốc gia khi có điều muốn nói thì sẽ có cơ hội để nói. Về điểm này, dù các thể nhân không thể nhờ đến WTO với tư cách là các bên trong một cuộc tranh chấp, nhưng trong thực tế cơ chế xét xử của WTO đã hé mở hơn qua cơ chế sử dụng các amicus curiae (“những người bạn của tòa án” vẫn có thể nêu quan điểm của họ với DSM trong một vụ việc mà DSM thụ lý). Quan điểm này không phải lúc nào cũng được chấp nhận vì điều này hoàn toàn phụ thuộc vào cơ quan xét xử; nhưng dù gì thì xã hội, các NGO và các chủ thể kinh tế cũng có được cho mình một lối vào độc lập và điều này có một ý nghĩa quan trọng về mặt biểu tượng. Trước diễn biến này, các cơ quan xét xử chọn một lối hành xử thận trọng. Bởi lẽ các “quan tòa” đã làm như họ không hề bị tác động bởi những ý kiến đến từ các thể nhân khi mà các quốc gia thành viên WTO, nhất là các quốc gia đang phát triển, đã thể hiện sự bất bình trước thực tế DSM đã hé mở. Tuy nhiên, các quan tòa vẫn tiếp nhận các ý kiến từ bên ngoài và, theo mạch này, thực tế là các thủ tục tố tụng, ban đầu rất hạn chế, đã được mở rộng hơn nhiều. Phải chăng đây là một bước phát triển của tính minh bạch? Dĩ nhiên ta cũng cần tương đối hóa. Không phải bất kỳ ai cũng có khả năng hiểu các bản báo cáo hàng trăm trang về những vấn đề thường là rất kỹ thuật (trừ khi chúng được dùng thay thuốc ngủ?). Nhưng điều quan trọng là đây là dịp đề cập đến một số vấn đề cơ bản đã làm lùi bước nhiều chính quyền. Khác với các chính quyền, một khi nhận thụ lý một vụ việc thì “quan tòa” không thể từ chối việc đưa ra quyết định. Tuy nhiên, tùy theo mức độ táo bạo của mình mà mỗi “quan tòa” có thể đưa ra những quyết định khác nhau. Về điểm này, Cơ quan phúc thẩ; đã tỏ ra táo bạo, thể hiện qua thời gian một đường lối pháp lý thực sự vững vàng. Thật đối nghịch với sự bất lực của giới chính trị khi phải đưa ra quyết định. Sự mất cân bằng về quyền lực Tình huống này đưa ta đến nhiều sự suy diễn khác nhau. Rõ ràng là DSM góp phần vào việc phát triển luật của WTO và nó mang đến cho WTO một làn gió mới giúp cho tổ chức không bị lạc hậu. Một số vấn đề mà tự động ta nghĩ rằng phải thông qua đàm phán (tính chất liên đới giữa thương mại và môi trường, y tế v.v) thì lại được xử lý thông qua con đường xét xử. Đây là một sự việc đã rồi có thể khiến cho các chính quyền phản đối nhưng cũng đôi khi lại đi đúng với ý đồ của họ - điều không lạ. Điều đáng ngạc nhiên hơn là chúng ta nhận thấy rằng các chính quyền, trên nguyên tắc, lẽ ra là bên có tiếng nói sau cùng đã không có được tiếng nói sau cùng trong WTO (trong mọi hệ thống luật, bên lập pháp sẽ có thể đưa ra một biện pháp để vượt qua một quyết định của “quan tòa” không phù hợp với mình trong tương lai). Không phải do tự bản thân quyền lực của quan tòa mà sở dĩ quyền lực của quan tòa càng phát huy là vì mảng chính trị của WTO đã không có khả năng thực thi quyền đưa ra quyết định của mình. Sự mất cân bằng này đương nhiên là làm phát sinh vấn đề. Về mặt thực tế, điều này dẫn đến ba hiệu ứng chính. Thứ nhất, 52 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011 các quan tòa có khuynh hướng, khi thực hiện nhiệm vụ, có một cách tiếp cận càng tinh tế càng tốt để không phải nhận chỉ trích rằng họ đang xây dựng một “nhà nước của các quan tòa”. Thứ hai, một số Thành viên WTO muốn làm giảm ảnh hưởng của DSM. Cụ thể là, do không cải tổ được hệ thống, họ sẽ tìm cách tác động trên thành phần của Cơ quan phúc thẩ;, và đây đã trở thành một vấn đề mang nhiều tính chính trị. Dù không chắc chắn rằng sẽ có được những kết quả trông đợi, xu hướng rõ nét nghiêng về việc chọn lựa các nhà ngoại giao thay cho chuyên viên pháp lý hay giới giảng dạy (những vị hay suy nghĩ quá sâu mà xa rời thực tế). Thứ ba là, các Thành viên WTO có xu hướng chuyển cho WTO xem xét một số vấn đề mà họ nghĩ là cần phải có được quyết định, điều này họ có thể đạt được nếu giao cho “quan tòa” WTO thụ lý. Tuy nhiên, không vì thế mà ta đánh giá quá cao hay quá thấp DSM. Hiệu quả của DSM đã được khẳng định. Đây là một cơ chế mà trong đó bên nguyên thường thắng cuộc. Điều này cũng không có gì lạ, vì thường chỉ khi chắc thắng thì bên nguyên mới nộp đơn. Từ đó cũng có thể nhận xét rằng có những lĩnh vực ít xảy ra tranh chấp, không phải do những quy định trong những lĩnh vực này được tuân thủ đầy đủ mà vì các quốc gia thành viên WTO biết cách điều khiển tranh chấp theo hướng mong muốn. Ngoài ra, các quốc gia thường nghe theo phán quyết của DSM. Ít khi xảy ra trường hợp kháng cự lâu dài, và khi có điều này thì sự việc thường hay bị đem ra tranh luận. Chỉ có các cường quốc mới hay chống đối vì chỉ có họ mới có khả năng làm được điều đó. Nhưng có hai cách nhìn nhận về tình hình này. Nhìn chung, sự tồn tại của DSM là một nhân tố đem lại sự bình đẳng vì DSM mang đến cho các quốc gia yếu nhất một khả năng buộc các quốc gia mạnh phải nhìn nhận quyền của mình, thậm chí khiến cho các quốc gia mạnh bị trừng phạt. Nhưng không vì thế mà DSM tự xem là kẻ phân phối lại quyền lực và, như vậy, DSM không trao cho các quốc gia yếu khả năng thực tiễn phản ứng lại một cách hữu hiệu khi họ không có một tiềm lực thương mại đủ mạnh. Hơn nữa, ngay cả những quốc gia mạnh nhất cũng có thể sẽ không tìm thấy được lợi ích trong việc đưa ra các biện pháp trừng phạt thông qua hình thức dựng lên những rào cản thương mại. Do vậy, không hiếm trường hợp những biện pháp trừng phạt được phép tiến hành nhưng chỉ được áp dụng một phần, thậm chí không hề được áp dụng. Thêm vào đó, rất khó duy trì lâu dài biện pháp trừng phạt và vì thế bên bị hoàn toàn có thể trông đợi vào đàm phán để có một thỏa hiệp, và điều này sẽ có lợi hơn là việc tuân thủ đầy đủ án phạt đưa ra. Cho dù mọi người có nói gì đi chăng nữa, hệ thống WTO vẫn chịu tác động đặc thù của một môi trường quốc tế mà nét đặc trưng là sức mạnh không đồng đều của các quốc gia. Cuối cùng, nhiệm vụ của DSM là phân xử những vụ việc đã xảy ra, giống như công việc của mọi quan tòa. Tức là đưa ra phán quyết về một vụ việc đã qua. Dĩ nhiên ta không thể loại trừ những tác động sẽ diễn ra trong tương lai và đó chính là vai trò của án lệ là phác họa nên những giải pháp cho tương lai được xây dựng nên từ kinh nghiệm của quá khứ. Nhưng điểm hạn chế là những khó khăn sẽ gặp phải khi phải thụ lý những vấn đề thực sự mới. Các vấn đề mới này xuất hiện trong khi ta vẫn phải giải quyết chúng bằng một bộ máy pháp lý chưa được cải cách nhiều, bất chấp những nỗ lực để vận dụng nó theo hướng tiến bộ. Như thế, quan tòa càng phải cân nhắc đến mức độ mà xã hội chấp nhận những quyết định mà mình sẽ đưa ra. Nếu từ giai đoạn thành lập, EU và Mỹ là những ông lớn đồng thời cũng là những bên tranh chấp thường xuyên nhất thì nay các trường hợp đối đầu giữa các quốc gia phát triển với nhau và/hoặc có liên lụy đến Trung Quốc đã gia tăng nhiều. Điều này cũng sẽ dẫn đến những tác động mới với sự đa dạng của các nền văn hóa tư pháp trong phòng xử và quan tòa cũng cần phải ý thức về yếu tố mới này. Như thế, các phiên xét xử cũng sẽ bớt phần nhàm chán. 53LUẬT QUỐC TẾ chú ý, nhưng công việc gần như là thường nhật được tiến hành trong những lĩnh vực này đã tác động lên thói quen và cách thức của nhiều nhóm nước, giúp họ nắm vững cơ chế của WTO và trên cơ sở đó, tiếng nói của họ có thể được lắng nghe nhiều hơn là ta vẫn nghĩ, trong một tổ chức thường xuyên bị xem như là sự lột xác thuần túy từ một diễn đàn của những cường quốc truyền thống thành nơi cạnh tranh của một vài nhóm lợi ích lớn, trong đó có nhóm các quốc gia mới nổi chủ chốt. Đây là một thực tế, nhưng WTO, và nhất là những gì tổ chức này mang đến cho các quốc gia thành viên, không chỉ có thế. Xem xét những lợi ích do việc giải quyết tranh chấp mang lại sẽ giúp ta khẳng định luận điểm trên đây. Do các bên đàm phán, và nói rộng ra, là các lực lượng chính trị trong WTO cân bằng quyền lực lẫn nhau nên họ thường giao cho “quan tòa” đưa ra những quyết định liên quan đến nhiều lợi ích khác nhau, dù đó là những lợi ích thuần túy mang tính thương mại hay, quan trọng hơn, những quan tâm không thuần túy thương mại. Chẳng phải WTO đang lên tiếng về những gì sẽ xảy ra nếu có một tranh chấp liên quan đến các biện pháp đấu tranh chống lại sự hâm nóng khí quyển? Tác động của điều này sẽ vượt ra ngoài khuôn khổ của chính tổ chức WTO. Tổng thể các yếu tố trên dẫn đến sự thay đổi một cách rõ nét cách nhìn nhận một chiều về WTO, thường bị gán cho tính từ thất bại do những cuộc đàm phán kéo dài lê thê của vòng đàm phán Doha. Tình hình thực tế không phải là bất biến. Cán cân lực lượng giữa các quốc gia đang dịch chuyển, hình thành nên các quy định và án lệ mới, các tiến trình tuy chưa được làm rõ nhưng tồn tại trên thực tế cũng đang được thực hiện. Theo hình ảnh của một nền toàn cầu hóa ngày càng được diễn giải như là kéo theo những tương tác của quốc gia và thị trường, lĩnh vực công và tư. Để phân tích các hiện tượng lai tạp với sự chuyển giao quyền lực khó nắm bắt được trên, cần thay đổi cách phân loại cổ điển và có một cách tiếp cận mở. WTO chính là minh chứng cho luận điểm vừa nêu. Kết luận Tóm lại, WTO là một tổ chức hai mặt. Hoạt động như là một tổ chức dạng “memb

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfban_ve_hieu_qua_pho_bien_giao_duc_phap_luat_o_nuoc_ta_hien_n.pdf
Tài liệu liên quan