Khái niệm xã hội dân sự từ lâu đã trở thành một khái niệm quan trọng và ngày 
càng trở nên quan trọng khi quá trình toàn cầu hoá đang làm thế giới xích lại gần 
nhau hơn. Và khi các giá trị cá nhân ngày càng được khẳng định thì một xã hội 
dân sự nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của con người ngày càng trở nên cần thiết.
              
                                            
                                
            
 
            
                 14 trang
14 trang | 
Chia sẻ: maiphuongzn | Lượt xem: 1365 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Bàn về xã hội dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bàn về xã hội dân sự - 1 
Khái niệm xã hội dân sự từ lâu đã trở thành một khái niệm quan trọng và ngày 
càng trở nên quan trọng khi quá trình toàn cầu hoá đang làm thế giới xích lại gần 
nhau hơn. Và khi các giá trị cá nhân ngày càng được khẳng định thì một xã hội 
dân sự nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của con người ngày càng trở nên cần thiết. 
Thế kỷ Khai Sáng với nhiều tác phẩm bất hủ của các nhà triết học nổi tiếng như 
Rousseau hay Montesquier tuy chưa thực sự nhắc đến một xã hội dân sự nhưng 
những tư tưởng về chủ quyền nhân dân và sự phủ định vai trò tuyệt đối của nhà 
nước đã góp phần tạo nền tảng cho sự hình thành khái niệm xã hội dân sự. Từ đó 
đến nay, xã hội dân sự không còn là một khái niệm mới song cũng chưa đủ cũ để 
người ta thôi luận bàn về nó. Nói cách khác, hơn 300 năm sau Thế kỷ Khai Sáng, 
gần 300 năm sau khi "Khế ước xã hội" của Rousseau ra đời, loài người đã có một 
bước tiến dài về phía xã hội dân sự nhưng vẫn còn sự nhận thức khác nhau giữa 
các cộng đồng dân tộc. Xã hội dân sự, ở một số nơi, chưa được thừa nhận và tôn 
trọng, do đó, nó không phát huy được vai trò của mình trong tiến trình phát triển. 
Vậy xã hội dân sự là gì? Vai trò của nó cũng như tương quan giữa nó và sự phát 
triển của con người là gì? Sự thiếu vắng hay không được thừa nhận xã hội dân sự 
ở một số quốc gia đang phát triển có ảnh hưởng thế nào đến quá trình tổ chức và 
rèn luyện nền dân chủ của các quốc gia này? Đây là một vấn đề cần được nghiên 
cứu và thảo luận một cách rất nghiêm túc. 
1. Xã hội dân sự và đặc điểm của nó 
Xã hội dân sự là xã hội phi nhà nước 
Tôi cho rằng, xã hội dân sự, hiểu một cách đơn giản nhất là xã hội phi nhà nước, ở 
đó, mối quan hệ giữa con người với nhau dựa trên sự tự thảo luận và tạo ra sự 
đồng thuận trên các vấn đề của cuộc sống mà không cần có sự can thiệp của nhà 
nước. Xã hội dân sự là xã hội tự cân bằng. Nó có các tổ chức do xã hội lập ra để 
thể hiện những loại hình ý chí khác nhau của cộng đồng. Nói cách khác, tự bản 
thân xã hội dân sự sẽ điều chỉnh, hạn chế tất cả những sự cực đoan, những hành vi 
không phù hợp với lợi ích cộng đồng bằng các quy tắc bất thành văn mà không 
cần sự tham gia của các yếu tố nhà nước. Có thể nói tính tự lập là bản chất của xã 
hội dân sự, tức là xã hội tự giải quyết các vấn đề của nó. Xã hội dân sự là xã hội tự 
quản lấy mình và đến một mức độ mà nó không có khả năng để tự quản nữa thì 
phần còn lại rơi vào nhà nước. Rất nhiều quốc gia chậm phát triển đã không nhận 
thức được điều này. Người ta luôn cho rằng nhà nước phải có mặt trong mọi lĩnh 
vực của cuộc sống mà không biết rằng nhà nước là bộ phận nối dài của xã hội dân 
sự để giải quyết những công việc mà bản thân xã hội không tự giải quyết được. 
Thực ra, nếu chúng ta thừa nhận sự phát triển các hình thái kinh tế xã hội dẫn đến 
sự ra đời của nhà nước nhằm dung hoà lợi ích của các cộng đồng người trong một 
xã hội hay nếu chúng ta thừa nhận nhà nước được hình thành từ sự góp vốn tự do 
của con người thì chúng ta sẽ thấy rằng, rõ ràng xã hội dân sự có trước nhà nước. 
Nhà nước là bộ phận thượng tầng của xã hội, là nơi giải quyết những vấn đề xã hội 
đòi hỏi, hay nói cách khác, con người tạo ra nhà nước để giải quyết những vấn đề 
mà tự nó không giải quyết được. Còn nếu chúng ta quy lịch sử phát triển loài 
người vào lịch sử phát triển các nhà nước, tức là nếu chúng ta cho rằng, con người 
chỉ trở thành con người xã hội khi có nhà nước thì chúng ta sẽ biến nhà nước trở 
thành kẻ sinh ra xã hội. Và như thế, chúng ta sẽ không thừa nhận tình trạng không 
có con người nằm ngoài nhà nước, và nó dẫn đến một logic là Xã hội = Nhà nước. 
Hầu hết các nước chậm phát triển hay đang phát triển đều nhận thức chưa đúng về 
vai trò của nhà nước. Sự phong cho nhà nước một quyền lực quá lớn đã dẫn đến 
một logic ngược lại, nhà nước không phải là nơi giải quyết những vấn đề xã hội 
đòi hỏi mà xã hội là nơi để nhà nước áp đặt những đòi hỏi của mình. Sự phủ bóng 
quá lớn của nhà nước xuống xã hội đã khiến đời sống dân sự của con người bị thu 
hẹp lại thậm chí trở thành bất hợp pháp. Pháp luật ở một số quốc gia không thừa 
nhận tình trạng không có nhà nước trong một loạt các khu vực khác nhau của đời 
sống và làm mất đi những yếu tố của xã hội dân sự. Ví dụ, nhà nước không thừa 
nhận vai trò làm chứng của một luật sư cho các cam kết dân sự của khách hàng mà 
chỉ thừa nhận sự làm chứng của các cơ quan công chứng nhà nước. Nhận thức sai 
lầm về vai trò của nhà nước, con người cũng nhận thức sai lầm về địa vị xã hội. 
Một số người luôn quan niệm là phải làm việc ở cơ quan nhà nước mới có địa vị 
xã hội và danh dự. Do đó, con người bằng mọi giá phấn đấu để được vào biên chế, 
để được bao cấp, được bảo vệ bởi nhà nước. Con người mất tự tin khi bị tách khỏi 
nhà nước và con người bơ vơ về tinh thần khi ra khỏi nhà nước. Trạng thái này 
kéo dài ở một số quốc gia, làm hình thành nên một nền văn hóa không có dấu hiệu 
dân sự. Nền văn hóa mà người ta lấy tất cả những ưu thế trong hệ thống nhà nước 
làm thước đo của giá trị thì không còn đời sống dân sự, tức là con người không có 
quyền lợi nào nếu không gắn với một nhà nước cụ thể. Nhưng trong hàng trăm 
hành vi của con người hàng ngày, có bao nhiêu phần trăm là hành vi mang chất 
lượng nhà nước và bao nhiêu hành vi mang chất lượng tự nhiên? Và con người 
lành mạnh là con người hành động tự giác hay con người hành động trong sự giục 
giã, giám sát và điều chỉnh của nhà nước? Nói như thế không có nghĩa là phủ nhận 
vai trò điều chỉnh và giám sát của nhà nước vì rõ ràng, có những vấn đề mà nếu 
nhà nước không đảm nhiệm, xã hội dân sự không thể giải quyết nổi. 
Ở đây, phải nói thêm một khía cạnh là trong một quốc gia bao giờ cũng có nhiều 
cộng đồng dân sự, có nhiều quy tắc và điều này đã khiến một số người nhầm lẫn 
giữa các quy tắc dân sự của cộng đồng với hương ước, lệ làng. Họ tưởng rằng đó 
là thể hiện cơ bản của xã hội dân sự. Phải khẳng định rằng hương ước hay lệ làng 
thực chất là những quy tắc phản ánh một xã hội khu trú và chậm tiến bộ. Nó là 
những thói quen văn hóa rất chậm thay đổi, lưu truyền từ đời nọ sang đời kia, con 
người mặc nhiên chấp nhận nó như một quy ước. Còn những quy tắc trong xã hội 
dân sự được hình thành dựa trên cơ sở sự đồng thuận xã hội, tức là con người trực 
tiếp tham gia vào quá trình thương thảo về những quy tắc và đấy là biểu hiện của 
trình độ phát triển cao, trong đó mỗi người dân đều ý thức được vai trò, quyền và 
lợi ích của mình. Những quy tắc này có thể biến đổi theo thời gian tùy thuộc vào 
trạng thái phát triển của xã hội. 
Sự khác biệt giữa xã hội dân sự và xã hội công dân 
Các cuộc tranh luận giữa các học giả còn xoay quanh khái niệm xã hội công dân 
hay xã hội dân sự. Ban đầu, ý tưởng về "xã hội dân sự" và "xã hội công dân" gần 
như đồng nhất, nhưng dần dần hai khái niệm ấy tách khỏi nhau vì trong tiến trình 
phát triển, con người ngày càng thấy rõ mỗi công dân đồng thời cũng là con người 
với tất cả những đặc tính phong phú của mình. Cho nên, không thể quy toàn bộ 
tính phong phú ấy vào trong khái niệm công dân. Vậy xã hội công dân là gì? Tôi 
cho rằng, xã hội công dân là một xã hội mà các thành viên của nó là công dân theo 
đúng nghĩa. Vấn đề đặt ra là công dân là gì? Công dân là các thành viên của một 
xã hội hiện đại, ở đó mọi quyền của con người đều được tôn trọng, tức là mỗi một 
con người trở thành chủ sở hữu xã hội và có các quyền hiến định và pháp định 
rành mạch. Nói cách khác, nếu xã hội dân sự là xã hội nằm ngoài nhà nước, không 
cần đến nhà nước thì xã hội công dân là pháp chế hóa xã hội dân sự. Như vậy, xã 
hội dân sự rộng lớn hơn và cũng căn bản hơn nhiều so với xã hội công dân. 
Có thể nói, 80-90% hành vi hàng ngày của mỗi con người là hành vi tự nhiên, phi 
nhà nước. Thử tưởng tượng con người sẽ sống, sinh hoạt như thế nào nếu hàng 
ngày, hàng giờ, hàng phút anh ta mang trong mình ý niệm là một công dân? Con 
người làm sao có đủ cảm hứng sáng tạo khi luôn phải mang nặng nghĩa vụ này, 
nghĩa vụ kia. Tuy vậy, một con người khi sống với cộng đồng dân sự của mình, họ 
cũng có những thỏa thuận, có những sự cân bằng tự nhiên của mình. Nói cách 
khác, xã hội dân sự đó phải nằm trong một nhà nước cụ thể hay các cộng đồng dân 
sự phải nằm trong một thể chế nhà nước cụ thể, và tất cả mọi người đều bình đẳng 
với nhau trước pháp luật bởi tư thế công dân của mình. Xã hội công dân là xã hội 
cần đến nhà nước và nhà nước phải tuân thủ các quy luật của xã hội công dân để 
hành xử. Còn xã hội dân sự là xã hội không lệ thuộc vào nhà nước. Nói cách khác, 
nói đến xã hội dân sự là nói đến nhân quyền còn nói đến xã hội công dân là nói 
đến dân quyền. Tuy nhiên, ở các quốc gia chậm phát triển, người ta thường đề cao 
xã hội công dân thay vì xã hội dân sự, người ta cho rằng chỉ cần xã hội công dân là 
đủ bởi vì họ không muốn thừa nhận nhân quyền, họ muốn khoả lấp nhân quyền 
vào trong dân quyền. Xã hội dân sự là xã hội mà ở đó nhân quyền thống trị còn 
dân quyền là mảnh đất chung nhau giữa con người tự nhiên với con người xã hội. 
Dân quyền là cơ sở của việc hình thành nhà nước. Sau khi làm nghĩa vụ công dân 
thì con người mới có quyền đòi hỏi quyền làm chủ nhà nước tức là quyền tạo ra 
nhà nước. Quyền tạo ra, cải tạo và cấu trúc lại nhà nước là quyền công dân, là kết 
quả của việc thực thi các nghĩa vụ công dân. Ví dụ, đóng thuế là biểu hiện cơ bản 
của dân quyền, còn các quyền tự nhiên thuộc về cá nhân con người là biểu hiện 
của nhân quyền. Như vậy, xã hội công dân là xã hội có liên quan chặt chẽ với nhà 
nước, với pháp luật còn xã hội dân sự là xã hội tự nó, không lệ thuộc vào nhà 
nước. Vậy xã hội dân sự lệ thuộc vào cái gì? Bởi nếu pháp luật là công cụ điều 
chỉnh mối quan hệ trong xã hội công dân thì cái gì điều chỉnh các mối quan hệ 
trong xã hội dân sự? Tôi cho rằng, đó là văn hoá. Văn hoá giúp con người xử lý 
các quan hệ với nhau, với cộng đồng, xử lý với những khái niệm thiêng liêng trong 
đời sống dân sự, đời sống tinh thần. Và những quy tắc bất thành văn mà con người 
sử dụng để điều chỉnh, để hạn chế tất cả sự cực đoan, những hành vi không phù 
hợp với lợi ích công cộng chính là văn hoá. Vì thế, trong nhiều nghiên cứu về 
pháp luật và nhà nước, tôi đã cho rằng mọi khế ước xã hội nếu không được xây 
dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hoá hay có khả năng biến thành văn hoá thì 
những khế ước xã hội ấy chắc chắn sẽ thất bại. Do vậy, xã hội dân sự rộng hơn và 
cũng cơ bản hơn nhiều so với xã hội công dân. 
2. Những hệ quả của việc xã hội dân sự không được thừa nhận 
Một xã hội lành mạnh là Xã hội = Nhà nước + Xã hội dân sự. Nhưng ở những 
quốc gia mà nhà nước được trao cho quyền lực quá lớn thì xã hội dân sự sẽ biến 
dạng và trở thành đối tượng bất hợp pháp. Phải khẳng định rằng xã hội dân sự là 
một không gian sống tất yếu của con người. Vì thế, việc không thừa nhận xã hội 
dân sự ở một số quốc gia chậm phát triển đã gây ra nhiều hệ quả nghiêm trọng. 
Các giá trị cá nhân của con người không được tôn trọng 
Một trong những cuộc cách mạng vĩ đại nhất của con người là vào thế kỷ XV, 
XVI, XVII, con người bỗng nhận ra mình là một cá nhân. Chính vì nhận thức 
được nguyên lý ấy mà phương Tây đã phát triển mạnh mẽ chỉ sau vài trăm năm. 
Rất đáng tiếc rằng cho đến bây giờ rất nhiều dân tộc ở phương Đông vẫn chưa 
thức tỉnh, chưa thức tỉnh một thực tế, một chân lý, một sự thật vô cùng quan trọng 
đối với tiến trình phát triển của nhân loại là: mỗi con người là một cá nhân. Các xã 
hội phương Đông nói chung vẫn không tôn trọng các giá trị cá nhân, giá trị con 
người, không xem giá trị con người là một trong những chiến lược phát triển. Họ 
vẫn xem các giá trị chính trị, giá trị lãnh đạo, giá trị thủ lĩnh quan trọng hơn các 
giá trị con người mà không biết rằng cơ sở khoa học của mọi chính sách chính là 
để phục vụ con người với tư cách là một cá nhân chứ không phải với tư cách là 
một khái niệm. 
Phải nói rằng, khi không thừa nhận các các giá trị cá nhân và đồng nhất nó với cá 
nhân chủ nghĩa là con người đã sai. Cá nhân chủ nghĩa cũng là một thuật ngữ sai 
hoàn toàn về mặt triết học. Không có cá nhân chủ nghĩa mà chỉ có trạng thái cực 
đoan của mỗi cá nhân. Trạng thái cực đoan của mỗi cá nhân là trạng thái hàng 
ngày của đời sống, do vậy mới cần nhà nước để điều chỉnh. Con người ai cũng có 
khuyết điểm, nếu không có khuyết điểm thì nhà nước sẽ không tồn tại, khuyết 
điểm của mỗi cá nhân là tiền đề khách quan để nhà nước tồn tại, bởi nhà nước điều 
chỉnh các sai lầm của mỗi cá nhân. 
Tuy nhiên, chúng ta đang sống trong thời đại toàn cầu hóa, thời đại mà quá trình 
tương tác và cạnh tranh giữa các nền kinh tế ngày càng quyết liệt, bản thân con 
người hàng ngày cũng phải tham gia vào cuộc cạnh tranh ấy thì mỗi con người 
buộc phải mài sắc nhất khả năng của mình để có thể giành chiến thắng. Và khả 
năng mài sắc năng lực của mỗi con người được quyết định bởi các giá trị cá nhân 
của họ. Nói cách khác, giá trị cá nhân là sức cạnh tranh và sức cạnh tranh chính là 
nhân tố quan trọng nhất của một quốc gia. Do vậy, các quốc gia phải tìm mọi cách 
huy động hay giải phóng nhân tố này một cách tối đa. Điều đó có nghĩa là chúng 
ta cần phải củng cố địa vị nhân quyền, tôn trọng nhân quyền, xây dựng không gian 
pháp luật và chính trị để bảo vệ các quyền con người. Không có các quyền cá nhân 
làm tiền đề thì con người không thể có cuộc sống dân sự lành mạnh được. Con 
người hành động, sáng tạo theo lẽ phải của tâm hồn. Khi con người luôn luôn có 
những yếu tố nhắc nhở rằng họ là công dân thì con người không còn cuộc sống 
dân sự nữa. Vì thế, một hệ thống chính trị hợp lý là con người tự giác nghĩ đến 
công dân, đến quyền, đến trách nhiệm công dân của mình chừng nào cuộc sống 
đòi hỏi. Do đó, xã hội phải tồn tại xã hội dân sự với tất cả tính chất tự quản của nó 
để hạn chế đến mức tối đa sự cần thiết phải huy động sự can thiệp của nhà nước 
vào các vấn đề của đời sống của người dân. Cần nhận thức rằng, tỷ lệ lệ thuộc 
hành vi hàng ngày của xã hội vào nhà nước càng ít bao nhiêu thì xã hội càng lành 
mạnh bấy nhiêu vì xã hội bao gồm những con người biết tự quản, tự lo và biết tự 
giác. Một xã hội mà con người biết tự quản, tự lo và tự giác là một xã hội đòi hỏi 
chi phí ít tốn kém nhất cho các quản lý hành chính. Hơn nữa, khi "tiết kiệm" nhân 
lực cho việc quản lý hành chính nhà nước là chúng ta làm cho xã hội có thêm lực 
lượng lao động, xã hội có thêm lực lượng lao động nghĩa là có thêm lực lượng dân 
sự và làm mạnh hơn khu vực sản xuất, khu vực kinh doanh... 
Con người không có không gian tái xác lập trạng thái cân bằng 
Người ta thường nói nhiều đến vai trò chính trị của xã hội dân sự như là vai trò 
tiên quyết nhưng tôi cho rằng, vai trò quan trọng nhất của xã hội dân sự chính là 
nó tạo ra một không gian sống của con người, nơi con người tái xác lập lại sự cân 
bằng sau những quá trình tìm kiếm và chinh phục. Bởi dường như vẫn tồn tại một 
nghịch lý là sự phát triển của con người đồng nghĩa với việc phá vỡ tỷ lệ cân bằng 
tự nhiên. Làm thế nào để duy trì được tỷ lệ hợp lý mà con người vẫn phát triển là 
một vấn đề cực kỳ khó bởi theo tôi, con người vẫn phải trả giá. Tuy vậy, con 
người phải kiên nhẫn tìm kiếm ra tỷ lệ hợp lý. Không có cách nào khác cả, không 
thể xây dựng lý thuyết để đưa ra một đáp số có tính chất định lượng và chỉ ra sự 
hợp lý. Con người thận trọng là con người không lao đầu vào sự mất cân bằng, 
con người xác lập được, tìm thấy được sự cân bằng trong sự bừng tỉnh của mình 
trong quá trình phát triển. Còn khi con người lấn lướt tự nhiên, con người ào ào 
chiến thắng, con người đi lên một cách bất kể thì con người không tìm thấy, không 
nhận ra các giới hạn hợp lý. Nhưng không phải tất cả mọi người đều đi tìm tỷ lệ 
hợp lý, tỷ lệ hợp lý bao giờ cũng do bộ phận tinh khôn nhất, tinh túy nhất, có tầm 
nhìn nhất của cộng đồng con người phát hiện. Cần phải có một đội ngũ chuyên 
nghiệp như vậy và đó chính là đội ngũ trí thức. Đội ngũ trí thức là đội ngũ sinh ra 
để xác lập tỷ lệ hợp lý giữa tự nhiên và phát triển. Nếu như chính trị lấn át đời 
sống trí tuệ, chính trị trở thành yếu tố chỉ huy vô điều kiện đời sống trí tuệ thì thực 
chất con người đã phá vỡ khả năng kiểm soát tốc độ để tìm kiếm các giới hạn của 
sự cân bằng. Cho nên, khi con người đi tìm một tỷ lệ hợp lý giữa phát triển và tự 
nhiên thì đấy chính là đi tìm tỷ trọng của nhà nước chính trị, nhà nước ở quy mô 
nào thì còn giữ được đời sống dân sự. Đời sống dân sự là cách thể hiện tập trung 
nhất của cái gọi là thái độ đi tìm sự cân bằng của con người. Xã hội dân sự là công 
cụ duy nhất, là cấu trúc duy nhất mà con người duy trì trạng thái bình tĩnh, trạng 
thái cân bằng trong quá trình phát triển. Do vậy, nếu trả lại cho đời sống con người 
trạng thái phát triển tự nhiên và nó tự cân bằng thì bản thân sự tự cân bằng đó đã là 
sự phát triển vì nó hạn chế sự sai của quá trình phát triển. Còn ở một quốc gia mà 
xã hội dân sự không được thừa nhận thì Xã hội = Nhà nước. Khi Xã hội = Nhà 
nước thì tất cả mọi người đều phụ thuộc vào nhà nước, đều trông chờ vào nhà 
nước và khi chính phủ có vấn đề thì xã hội không hoạt động được nữa, thậm chí 
rối loạn và dẫn đến tan rã. 
Con người không có nơi trở về sau một chu trình chính trị 
Con người, dù là người lao động bình thường hay một nhà lãnh đạo cấp cao thậm 
chí cả tầng lớp hoạt động chính trị chuyên nghiệp, sau công việc, bao giờ cũng là 
sự trở về với cuộc sống dân sự bình thường của mình. Đời sống dân sự là nơi năng 
lực và phẩm hạnh của con người được tái tạo lại hàng ngày sau một chu trình làm 
việc, tuy nhiên, không phải ai cũng nhận ra điều ấy, và chính vì gán vào cho nhà 
nước quá nhiều công việc nên con người đã vô tình co xã hội dân sự của mình. Ở 
đây, tôi muốn nhấn mạnh đến một đối tượng "nhạy cảm" là nhà chính trị và những 
nhà quản lý hoạt động nhà nước. Bởi nhà nước cũng bao gồm những con người, 
cũng có những lúc họ rời khỏi địa vị của người cầm quyền. Cùng với lý thuyết về 
nhiệm kỳ thì mọi người đều trở thành dân, cho nên, phải có một xã hội dân sự để 
nhà chính trị quay trở về làm người bình thường. Nếu không có một xã hội dân sự 
đủ hợp pháp, không có một cơ sở tạo ra nguồn sống hợp pháp cho họ thì họ quay 
về đâu? Trong tác phẩm "Chiến tranh và hòa bình", tôi nhớ đoạn người ta tả về 
công tước Nikolai Bolkonski, bố của Andrei Bolkonski, khi về ông ta có một trang 
trại, ông ta có một xưởng cơ khí, ông ta làm thợ tiện, ông ta dạy con gái làm toán 
giải tích.... Hiện nay, ở rất nhiều quốc gia chưa đạt đến trạng thái ấy. Có rất nhiều 
nhà lãnh đạo không hiểu, thậm chí không ủng hộ khái niệm xã hội dân sự, cho nên 
con người không có chỗ hạ cánh, không có chỗ quay về khi rời khỏi nhà nước. 
Cùng với xã hội dân sự, phẩm hạnh và năng lực của con người được tái tạo lại 
hàng ngày đồng nghĩa với việc con người có thể trở thành nguyên liệu tốt của các 
chu trình chính trị khác. Nói cách khác, khi phẩm hạnh và năng lực của con người 
được tái tạo lại hàng ngày, con người có thể trở thành đầu vào cho một chu trình 
làm việc, chu trình chính trị khác. Nhưng quan trọng hơn cả, chỉ với xã hội dân sự, 
sau mọi chu trình chính trị, con người vẫn còn là chính nó. 
Không có nguồn các giải pháp cho tương lai 
Tại sao ở rất nhiều quốc gia lạc hậu, các chính sách chính phủ đưa ra thường 
không đạt hiệu quả như mong muốn thậm chí còn mang tính rủi ro cao? Đó là vì 
chúng thường được hoạch định một cách chủ quan bởi bộ máy cầm quyền chứ 
không phải bằng sự thảo luận giữa nhà nước và nhân dân, tức là nhân dân không 
có cơ hội thể hiện sự phản biện nhằm làm hợp lý hóa các chính sách. Và sự không 
có cơ hội để thực hiện phản biện xã hội lại bắt nguồn từ việc xã hội dân sự không 
được thừa nhận. 
Một trong những vai trò chính trị quan trọng nhất của xã hội dân sự là nó là đối tác 
bình đẳng của nhà nước, là không gian mà ở đấy mỗi người dân được thực sự 
tham gia vào việc hoạch định, thực hiện và quan trọng hơn là phản biện lại các 
chương trình hành động của Nhà nước. Càng ngày người ta càng thấy rõ hơn 
những ý nghĩa tích cực của phản biện xã hội bởi nó tạo ra sự tương tác, sự hợp tác 
của các lực lượng xã hội và từ đó, nảy sinh ra các nguồn của các giải pháp, nguồn 
của các ý kiến, nguồn của các sáng kiến để tăng cường chất lượng của sự sáng suốt 
của những người lãnh đạo đất nước. Phản biện xã hội còn là sự tự cân bằng về các 
ý kiến giữa các lực lượng xã hội khác nhau và làm cho các hành vi của các lực 
lượng xã hội trở nên cân bằng hơn, hợp lý hơn. Do vậy, nếu không có xã hội dân 
sự hay ở những quốc gia chậm phát triển, xã hội dân sự chưa được thừa nhận thì 
xã hội đã thiếu đi một nguồn, một kênh các giải pháp để có thể điều chỉnh hoặc 
làm hợp lý các chương trình hành động xã hội. 
Sự bế tắc của các chính sách phát triển có thể dẫn đến sự sụp đổ của một số nhà 
nước nhưng không phải lúc nào sự bế tắc của nhà nước đồng nghĩa với sự bế tắc 
của xã hội bởi xã hội luôn tiềm ẩn những nhân tố mới, những giải pháp bất ngờ và 
vô cùng duyên dáng. Và chính xã hội dân sự là vườn ươm những yếu tố mới để 
phục vụ cho sự phát triển trong tương lai. Nguồn của việc phát triển các lực lượng 
phục vụ nhà nước là từ xã hội dân sự, nếu không lấy được từ xã hội dân sự những 
nguồn để thay thế các lực lượng phục vụ nhà nước thì nhà nước sẽ thoái hoá. Đầu 
tiên là thoái hóa về chính trị, sau đó là thoái hóa về trí tuệ và cuối cùng là thoái 
hóa về đạo đức. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 103_9829.pdf 103_9829.pdf
 102_7748.pdf 102_7748.pdf