Trình bày kỹ thuật và đánh giá kết quả hóa trị 134 trường hợp ung thư phổi không tế bào nhỏ 
(UTPKTBN) giai đoạn tiến xa tại BVUB TPHCM 2001 – 2002. Bệnh nhân có các đặc điểm nam chiếm đa 
số (64%), tuổi trung bình 59,3. Carcinôm tuyến chiếm tỉ lệ 80%, giai đoạn lâm sàng gồm IIIB và IV với tỉ 
lệ đồng đều. Hóa trị bước một được thực hiện với cácphối hợp kinh điển chiếm tỉ lệ cao (gần 80%), 42,5% 
bệnh nhân hóa trị bước hai, số chu kỳ hóa trị trung bình là 5,6. 
Kết quả ghi nhận tỉ lệ đáp ứng chủ quan 68,6%, tỉ lệ đáp ứng khách quan toàn bộ là 29,8% với tỉ lệ 
đáp ứng một phần 28,3%, tỉ lệ không thay đổi 58,9% và tiến triển bệnh 11,2%. Trung vị thời gian sống 
còn bệnh nhân hóa trị là 9,3 tháng so với nhóm khônghóa trị là 4,7 tháng. 23,5% bệnh nhân hóa trị sống 
qua một năm so với 4,5% của nhóm không hóa trị. Độctính nghiêm trọng chủ yếu của hóa trị là giảm 
bạch cầu hạt grad 3/4 ghi nhận trong 4,5% số chu kỳ,có 4,4% bệnh nhân tử vong liên quan đến hóa trị. 
Một số yếu tố được xác lập có tương quan với thời gian sống còn bao gồm: có hóa trị, đáp ứng với hóa trị 
bước một, số chu kỳ hóa trị, tuổi, chỉ số hoạt động cơ thể, CEA/máu, các triệu chứng tiên lượng nặng. Hóa 
trị cần được cân nhắc áp dụng cho bệnh nhân UTPKTBN giai đoạn tiến xa vì có ích lợi làm thuyên giảm 
triệu chứng và cải thiện thời gian sống còn. 
              
                                            
                                
            
 
            
                 11 trang
11 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1429 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Báo cáo Hóa trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh 2001 - 2002, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HÓA TRỊ UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN TIẾN XA 
TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU TPHCM 2001 - 2002 
Vũ Văn Vũ*, Đặng Thanh Hồng*, Nguyễn Thị Minh Khang*, Trần Quang Thuận*, 
Nguyễn Mạnh Quốc*, Trần Thị Ngọc Mai*, Nguyễn Tuấn Khôi*, Lê Thị Nhiều*, 
Võ Thị Ngọc Điệp*, Nguyễn Thị Bích Thủy* 
TÓM TẮT 
Trình bày kỹ thuật và đánh giá kết quả hóa trị 134 trường hợp ung thư phổi không tế bào nhỏ 
(UTPKTBN) giai đoạn tiến xa tại BVUB TPHCM 2001 – 2002. Bệnh nhân có các đặc điểm nam chiếm đa 
số (64%), tuổi trung bình 59,3. Carcinôm tuyến chiếm tỉ lệ 80%, giai đoạn lâm sàng gồm IIIB và IV với tỉ 
lệ đồng đều. Hóa trị bước một được thực hiện với các phối hợp kinh điển chiếm tỉ lệ cao (gần 80%), 42,5% 
bệnh nhân hóa trị bước hai, số chu kỳ hóa trị trung bình là 5,6. 
Kết quả ghi nhận tỉ lệ đáp ứng chủ quan 68,6%, tỉ lệ đáp ứng khách quan toàn bộ là 29,8% với tỉ lệ 
đáp ứng một phần 28,3%, tỉ lệ không thay đổi 58,9% và tiến triển bệnh 11,2%. Trung vị thời gian sống 
còn bệnh nhân hóa trị là 9,3 tháng so với nhóm không hóa trị là 4,7 tháng. 23,5% bệnh nhân hóa trị sống 
qua một năm so với 4,5% của nhóm không hóa trị. Độc tính nghiêm trọng chủ yếu của hóa trị là giảm 
bạch cầu hạt grad 3/4 ghi nhận trong 4,5% số chu kỳ, có 4,4% bệnh nhân tử vong liên quan đến hóa trị.. 
Một số yếu tố được xác lập có tương quan với thời gian sống còn bao gồm: có hóa trị, đáp ứng với hóa trị 
bước một, số chu kỳ hóa trị, tuổi, chỉ số hoạt động cơ thể, CEA/máu, các triệu chứng tiên lượng nặng. Hóa 
trị cần được cân nhắc áp dụng cho bệnh nhân UTPKTBN giai đoạn tiến xa vì có ích lợi làm thuyên giảm 
triệu chứng và cải thiện thời gian sống còn. 
SUMMARY 
CHEMOTHERAPY FOR ADVANCED NON-SMALL-CELL LUNG CANCER IN HO CHI 
MINH CITY ONCOLOGY HOSPITAL 2001 – 2002 
Vu Van Vu, Dang Thanh Hong, Nguyen Thi Minh Khang, Tran Quang Thuan, Nguyen Manh Quoc, 
Tran Thi Ngoc Mai, Nguyen Tuan Khoi, Le Thi Nhieu, Vo Thi Ngoc Diep, Nguyen Thi Bich Thuy 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 9 * Supplement of No 1 * 2005: 146 – 156 
Review of technique and results of chemotherapy for 134 patients of NSCLC in HCMC Oncology 
Hospital 2001 – 2002. Patients’ characteristics are: predominant male (64%), average age 59.3, majority 
of adenocarcinoma 80%, equal distribution of clinical stages of IIB and IV. First line chemotherapies were 
given with the old drug combinations in approximately 80% of cases. There were 42.5% patients treated 
by second line chemotherapy. The mean number of chemotherapy cycles was 5.6. Results noted a 68.6% 
of subjective response rate. The objective response rate is 29.8% with almost partial response in 28.3%, no 
change of disease seen in 58.9% patients and 11.2% of patients whose diseases progressed on 
chemotherapy. The median survival is 9.3 months in chemotherapy group versus 4,7 months in non-
chemotherapy one. One-year overall survival rate is 23.5% in chemotherapy group versus 4.5% in non-
chemotherapy one. The most serious toxicity is grad 3/4 neutropenia observed in 4,5% of treatment 
cycles. 4.4% chemotherapy patients died of treatment-relating complication. 
* Khoa Nội I, Bệnh viện Ung bướu TPHCM
 146
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
There were some established factors have associations with survival including: chemotherapy, 
responsibility to first line chemotherapy, number of treatment cycles, age, performance status, serum 
CEA, poor prognostic factors. 
Chemotherapy should be considered in advanced NSCLC patients due to its benefits in palliation of 
disease-relating symptoms and prolongement of survival. 
Ung thư phổi nguyên phát (UTPNP) là một trong 
những ung thư hàng đầu về xuất độ và tử suất trên 
phạm vi toàn cầu(3,4). Tại Việt nam cũng như tại nhiều 
nước đang phát triển khác, ung thư phổi nguyên phát 
(UTPNP) là loại bệnh lý ác tính có tầm quan trọng 
đặc biệt vì xuất độ cao và có chiều hướng ngày càng 
gia tăng liên quan đến sự tiêu thụ thuốc lá. 
Các kết quả ghi nhận ung thư quần thể bước đầu 
ở nước ta cho thấy UTPNP có xuất độ cao ở cả hai 
giới. Tại Hà nội trong khoảng 1991-1995, UTPNP 
được ghi nhận là loại ung thư thường gặp nhất ở giới 
nam chiếm tỉ lệ 21,9% tổng số ung thư các loại và 
xuất độ chuẩn theo tuổi là 34,9/100.000. Ở nữ giới Hà 
nội được ghi nhận cùng khoảng thời gian trên, 
UTPNP thường gặp hàng thứ ba chiếm 7,1% tổng số 
ung thư các loại và xuất độ chuẩn theo tuổi là 
7,1/100.000(1). Các kết quả bước đầu của ghi nhận 
ung thư quần thể tại Thành phố Hồ Chí Minh cho 
thấy UTPNP thường gặp hàng thứ hai ở nam (sau 
ung thư gan; 16,5% tổng số ung thư các loại, xuất độ 
chuẩn theo tuổi 23,7/100.000) và hàng thư sáu ở nữ 
(5,4% % tổng số ung thư các loại, xuất độ chuẩn theo 
tuổi là 5,6/100.000)(3). Như vậy ước tính mỗi năm có 
khoảng 9.000 ca UTPNP mới xuất hiện trên phạm vi 
cả nước, đây thật sự là gánh nặng cho ngành y tế và 
cho cả xã hội. 
UTPNP là loại bệnh ác tính mà kết quả điều trị 
hiện còn rất thấp. Phần lớn UTPNP (80%) là loại 
không tế bào nhỏ (UTPKTBN) tuy có mức độ ác tính 
thấp hơn loại tế bào nhỏ nhưng bệnh nhân thường 
được chẩn đoán vào giai đoạn trễ (giai đoạn III - IV) 
do vị trí kín đáo về mặt giải phẫu học và diễn tiến âm 
thầm. Phương pháp điều trị chủ yếu hiện nay là phẫu 
thuật, xạ trị và hóa liệu pháp. Tính chung trên toàn 
thế giới, hơn 70% ung thư phổi không tế bào nhỏ 
(UTPKTBN) được chẩn đoán ở giai đoạn trễ không 
còn khả năng phẫu thuật, việc điều trị ở giai đoạn này 
chủ yếu nhằm vào xoa dịu làm nhẹ triệu chứng cũng 
như kéo dài thời gian sống còn cho người bệnh. Hóa 
liệu pháp là vấn đề đã và đang được đẩy mạnh nghiên 
cứu để tăng hiệu quả điều trị xoa dịu cũng như tăng 
thời gian sống còn cho bệnh nhân UTPKTBN giai 
đoạn tiến xa(5). Điều này đặc biệt quan trọng đối với 
các nước đang phát triển có nền kinh tế còn nhiều 
khó khăn như nước ta hiện nay. 
Bệnh viện Ung Bướu TPHCM tiếp nhận số lượng 
lớn bệnh nhân ung thư phổi nói chung và UTPKTBN 
nói riêng. Trung bình mỗi năm có khoảng 400 bệnh 
nhân UTPNP đến khám và điều trị tại Bệnh viện với 
hơn 80% là loại UTPKTBN(5). Hóa liệu pháp được áp 
dụng trong điều trị triệu chứng các trường hợp 
UTPKTBN giai đoạn tiến xa từ năm 1990. Chúng tôi 
nghiên cứu các trường hợp bệnh nhân UTPKTBN giai 
đoạn tiến xa được điều trị bằng hóa liệu pháp tại 
Bệnh viện Ung Bướu TPHCM với mong muốn rút ra 
được một số nhận định về vấn đề mới mẻ và còn 
nhiều bàn luận này. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
Các trường hợp bệnh nhân được chẩn đoán 
UTPKTBN giai đoạn tiến xa điều trị tại Khoa Nội I 
Bệnh viện Ung Bướu TPHCM từ 30/6/2001 đến 
30/6/2002. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Có xác định giải phẫu bệnh lý hoặc tế bào học 
Tuổi: mọi tuổi, cả hai giới 
Không có những rối loạn chức năng nặng kèm 
theo 
Có chỉ số hoạt động cơ thể theo Karnofski từ 60 
trở lên 
Có tổn thương đo được (tối thiểu theo hai chiều 
không gian) 
Có điều kiện theo dõi được tình trạng bệnh và 
 147
sống còn cho đến ngày kết thúc ghi nhận 
(30/7/2003). 
Bệnh nhân chưa từng được điều trị đặc hiệu bằng 
các phương pháp tại chỗ như phẫu thuật hoặc xạ trị 
trước đó ngoại trừ phẫu thuật mổ đặt ống dẫn lưu 
màng phổi... 
Bệnh nhân được điều trị bằng hóa liệu pháp hoặc 
chăm sóc điều trị nội khoa triệu chứng theo chỉ định 
lâm sàng 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Các trường hợp tiến triển, tái phát hoặc di căn 
sau điều trị tại chỗ tại vùng 
Có những rối loạn chức năng nặng kèm theo 
Không theo dõi đánh giá được 
Phương pháp nghiên cứu chung: tiền cứu mở, 
quan sát. 
KẾT QUẢ 
Chúng tôi thu thập được tổng cộng 267 trường 
hợp UTPKTBN giai đoạn tiến xa được điều trị và theo 
dõi tại Khoa Nội 1 Bệnh viện Ung Bướu TPHCM từ 
30/6/2001 đến 30/6/2002. 
Đặc điểm chung của nhóm khảo sát 
Giới tính của nhóm bệnh nhân khảo sát đa số là 
nam (64%), tuổi trung bình 59,3. Hơn phân nửa bệnh 
nhân có chỉ số hoạt động cơ thể thấp <80 theo KPS). 
Về giai đoạn bệnh lý, giai đoạn IV (có di căn xa) và 
giai đoạn IIIB phân bố đồng đều (gần 50% trường 
hợp), chỉ có 8 trường hợp ở giai đoạn IIIA. Dạng mô 
học chiếm ưu thế là carcinôm tuyến (79,4%), 
carcinôm tế bào vảy chỉ chiếm 13,5%. 
Tuy thiết kế nghiên cứu không phải là phân bố 
ngẫu nhiên mà chỉ là quan sát mở ghi nhận theo tình 
huống chỉ định lâm sàng nhưng số trường hợp có can 
thiệp hóa liệu pháp và không hóa liệu pháp được ghi 
nhận đồng đều (49,8 và 50,2%). Có 24,3% bệnh nhân 
được can thiệp dẫn lưu và xơ hoá màng phổi do có 
tràn dịch màng phổi ác tính kèm theo. 
Khảo sát sự phân bố một số đặc điểm dân số học 
và lâm sàng theo hai nhóm có hoặc không có can 
thiệp hóa liệu pháp ghi nhận các đặc điểm được phân 
bố khá đồng đều theo giới, tuổi, nơi cư trú, giai đoạn 
lâm sàng, dạng giải phẫu bệnh, dấu hiệu tiên lượng 
nặng, tổn thương di căn xa và ngay cả biện pháp dẫn 
lưu xơ hóa màng phổi để xử lý tràn dịch màng phổi. 
Tuy nhiên, nhóm hóa liệu pháp có chỉ số hoạt động 
cơ thể tốt hơn (69% có chỉ số KPS 90 – 100 so với 
39%, p<0,001)(Bảng 3.11). 
Bảng 1. Phân bố đặc điểm dân số học và lâm sàng 
theo hai nhóm có hoặc không hóa liệu pháp 
Đặc điểm Nhóm có hóa 
liệu pháp 
(134 bệnh 
nhân) 
Nhóm không 
hóa liệu 
pháp (131 
bệnh nhân)
Giới: nam 
 nữ 
Tuổi trung bình 
Nơi cư trú: thành thị 
 thôn quê 
Giai đoạn lâm sàng: IIIA 
giai đoạn IIIB 
giai đoạn IV 
Giải phẫu bệnh: 
carcinôm tuyến 
carcinôm tế bào vảy 
carcinôm kém biệt hóa 
không định loại 
Chỉ số hoạt động cơ thể 
90 – 100 
70 – 80 
50 – 60 
Triệu chứng tiên lượng nặng 
không có 
sụt cân >10% 
sốt 
bạch cầu hạt >10.000 
cả ba 
Tổn thương di căn: không 
phổi 
xương 
não 
gan 
thượng thận 
hạch lymphô 
vị trí khác 
nhiều vị trí 
Dẫn lưu, xơ hóa màng phổi 
84 
50 
56,51 
80 
54 
7 
64 
63 
107 
17 
7 
3 
69 
57 
8 
115 
8 
1 
6 
4 
7 
26 
7 
10 
4 
9 
3 
8 
33 
83 
48 
62,05 
82 
51 
1 
72 
60 
105 
19 
7 
2 
39 
73 
21 
105 
13 
1 
10 
4 
74 
23 
5 
5 
5 
1 
10 
5 
5 
32 
Kỹ thuật hóa liệu pháp 
Trong tổng số 134 trường hợp bệnh nhân 
UTPKTBN được hóa liệu pháp, phân nửa trường hợp 
 148
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
bệnh nhân (50,7%) chỉ được hóa liệu pháp bước một 
với một phác đồ. Số bệnh nhân được thay đổi thuốc 
chuyển sang hóa liệu pháp bước hai (phác đồ thứ hai) 
chiếm 42,5% do không đáp ứng, do bệnh tiếp tục tiến 
triển hoặc do độc tính của thuốc. Tương tự, tỉ lệ bệnh 
nhân chuyển sang hóa liệu pháp liệu bước ba và bốn 
là 5,2% và 1,5%. 
Tổng số chu kỳ hóa liệu pháp cũng thay đổi trong 
khoảng từ 1 đến 14 với số chu kỳ trung bình là 5,6. 
Phần nhiều bệnh nhân được điều trị từ 4 – 6 chu kỳ. 
Có 32,1% bệnh nhân được điều trị hơn 6 chu kỳ và 
11,2% hơn 8 chu kỳ. Số chu kỳ điều trị thay đổi tuỳ 
thuộc vào tình trạng đáp ứng, độc tính của thuốc và 
tình trạng dung nạp của bệnh nhân. 
Về phương diện sử dụng hóa liệu pháp liệu đơn 
chất hay phối hợp, chúng tôi ghi nhận đại đa số 
(96,3%) bệnh nhân được dùng hóa liệu pháp phối hợp 
trong lần đầu tiên (bước một) và chỉ có 3,7% bệnh 
nhân được dùng hóa liệu pháp đơn chất. Tuy nhiên tỉ 
lệ bệnh nhân được dùng hóa liệu pháp đơn chất có 
khuynh hướng tăng dần trong các bước hóa liệu pháp 
liệu tiếp theo (13,3% ở bước ba và 28,6% ở bước bốn) 
Ghi nhận về các phối hợp thuốc sử dụng, phối 
hợp cisplatin (hoặc carboplatin) và etoposide được 
dùng nhiều nhất như là phối hợp đầu tay (bước một) 
với tỉ lệ 66,4%. Có 23,1% bệnh nhân được sử dụng 
các phối hợp “thuốc mới” (paclitaxel hoặc 
gemcitabine) trong hóa liệu pháp bước một. Các phối 
hợp khác như CAP (Cyclophosphamide, Adriamycine, 
Cisplatin), MIC (Mitomycin C, Ifosfamide, Cisplatin) 
hay các phối hợp khác có Ifosfamide thường được 
dùng bước hai sau phối hợp platin/etoposide ở bước 
một (Bảng 2). 
Bảng 2. Các thuốc và phối hợp thuốc sử dụng 
Phối hợp thuốc Bước một Số ca (%) 
Bước hai 
Số ca (%) 
Bước ba 
Số ca (%)
Cisplatin/Etoposide 
Carboplatin/Etoposide 
CAP 
MIC 
Paclitaxel/Carboplatin 
Gemcitabine/Cisplatin 
Phối hợp có IFM 
59 (44) 
30 (22,4) 
8 (6) 
16 (11,9) 
15 (11,2) 
1 (0,7) 
4 (7) 
2 (3,5) 
16 (28) 
1 (1,7) 
13 (22,8) 
4 (7) 
8 (14) 
2 
2 
Phối hợp thuốc Bước một 
Số ca (%) 
Bước hai
Số ca (%)
Bước ba 
Số ca (%)
Khác 5 (3,7) 9 (15,8) 3 
Tổng cộng 134 (100) 57 (100) 7 
(Ghi chú: CAP: Cyclophosphamide, Adriamycine, 
Cisplatin – MIC: Mitomycin C, Ifosfamide, Cisplatin – 
IFM: Ifosfamide) 
Độc tính của thuốc dùng trong hóa 
liệu pháp 
Kết quả ghi nhận về độc tính và các tác dụng phụ 
nghiêm trọng của hóa liệu pháp được trình bày trong 
bảng 3 theo số chu kỳ có độc tính trên tổng số 769 
chu kỳ điều trị. 
Bảng 3. Độc tính grad 3 và 4 của hóa liệu pháp 
Độc tính Số chu kỳ Tỉ lệ % 
Huyết học 
Giảm bạch cầu hạt 
Giảm tiểu cầu 
Thiếu máu 
Ngoài huyết học 
Nôn ói nặng 
Viêm thần kinh ngoại biên
Tim mạch 
35 
12 
16 
62 
6 
3 
4,5 
1,5 
2 
8 
4,5 (/134 bệnh nhân 
hoá liệu pháp) 
2,2 (/134 bệnh nhân 
hoá liệu pháp) 
Tỉ lệ giảm bạch cầu hạt grad 3 và 4 là 4,5% số chu 
kỳ điều trị nhưng trong đó chỉ có 1/3 trường hợp (13 
trường hợp) phải nằm viện vì sốt giảm bạch cầu. Độc 
tính ngoài hệ tạo huyết gặp chủ yếu là tình trạng nôn 
ói nặng xảy ra trong khoảng 8% số chu kỳ hóa liệu 
pháp. Viêm thần kinh ngoại biên gặp ở 4,5% bệnh 
nhân sau một số chu kỳ hóa liệu pháp có thuốc thuộc 
nhóm platin. 
 Độc tính của thuốc dùng trong hóa liệu pháp có 
ảnh hưởng đến việc điều trị và là một trong những lý 
do ngưng hóa liệu pháp. Có 7,4% bệnh nhân phải 
ngưng hóa liệu pháp bước một vì độc tính và tác dụng 
phụ của thuốc. Tỉ lệ này lần lượt là 2,2% đối với hóa 
liệu pháp bước hai và 11% đối với hóa liệu pháp bước 
ba. Ngoài ra có 6 trường hợp tử vong do độc tính của 
hóa liệu pháp (4,4% số bệnh nhân hóa liệu pháp) bao 
gồm 5 trường hợp giảm bạch cầu hạt và một biến 
chứng tim mạch. 
 149
Thời gian sống còn Kết quả hóa liệu pháp 
Thời gian sống còn toàn bộ của hai nhóm bệnh 
nhân có và không có hóa liệu pháp được trình bày 
trong bảng 5 và biểu đồ 1 dưới đây. 
Các tỉ lệ đáp ứng 
Các tỉ lệ đáp ứng của 134 bệnh nhân hóa liệu 
pháp được ghi nhận trong bảng 4. Tỉ lệ đáp ứng chủ 
quan là 68,6%. Các tỉ lệ đáp ứng khách quan gồm: 
1,5% đáp ứng hoàn toàn, 28,3% đáp ứng một phần, 
58,9% bệnh không thay đổi (ổn định) và có 11,2% 
bệnh tiến triển. 
Bảng 5. Thời gian sống còn toàn bộ hai nhóm bệnh 
nhân (tháng) 
Chỉ số Chung 
hai nhóm 
Hóa liệu 
pháp 
Không hóa 
liệu pháp
Trung bình 
Độ lệch chuẩn 
Khoảng 
Trung vị 
Tỉ lệ % sống trên 1 năm 
7,03 
4,78 
1 – 24 
6 
13,9 
9,33 
4,67 
1 – 24 
10 
23,1 
4,71 
3,65 
1 – 17 
4 
4,5 
Thời gian đáp ứng trung bình 5,1 tháng (độ lệch 
chuẩn 2,9 tháng). 
Ghi nhận các tỉ lệ đáp ứng theo hai nhóm bệnh 
nhân dùng các phối hợp “thuốc cũ” và “thuốc mới”, 
các tỉ lệ đáp ứng cao hơn ở nhóm “thuốc mới” nhưng 
không đủ ý nghĩa thống kê. 
Trung vị thời gian sống còn toàn bộ của cả nhóm 
bệnh nhân là 6 tháng. Nhóm bệnh nhân có hóa liệu 
pháp có trung vị thời gian sống còn toàn bộ dài hơn 
nhóm không can thiệp đáng kể (9,3 tháng so với 4,7 
tháng, p < 0,05). Tỉ lệ bệnh nhân sống qua một năm 
của nhóm hóa liệu pháp là 23,1% so với 4,5% của 
nhóm không can thiệp. 
Bảng 4. Các tỉ lệ đáp ứng 
Loại đáp ứng Số ca Tỉ lệ % 
Đáp ứng chủ quan 
Đáp ứng khách quan 
đáp ứng hoàn toàn 
đáp ứng một phần 
không thay đổi 
bệnh tiến triển 
Thời gian đáp ứng (tháng) 
trung bình 
lệch chuẩn 
92 
2 
38 
79 
15 
5,1 
2,9 
68,6 
1,5 
28,3 
58,9 
11,2 
Survival Functions
3020100
C
um
 S
ur
vi
va
l
1.2
1.0
.8
.6
.4
.2
0.0
-.2
Tỉ lệ sống còn 
Có hóa liệu pháp 
CDHOATRI
co
khong
Không hóa liệu pháp 
thangt ù 
Biểu đồ 1. Thời gian sống còn toàn bộ của hai nhóm bệnh nhân 
 150
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
Tổng hợp tương quan của các yếu tố 
khảo sát với thời gian sống còn 
Bảng 6. Tương quan của các yếu tố khảo sát với thời 
gian sống còn 
Yếu tố Phép kiểm Ý nghĩa 
Giới 
Tuổi 
Triệu chứng nặng 
KPS 
Tổn thương di căn 
Giai đoạn lâm sàng 
Giải phẫu bệnh 
CEA/máu 
Có hoá liệu pháp 
Loại phối hợp bước 
một 
Đáp ứng hóa liệu 
pháp bước một 
Số bước hóa liệu 
pháp 
Số chu kỳ điều trị 
0,027 (Spearman) 
0,217 (Pearson) 
-0,190 (Spearman) Tương quan mức 0,01
0,213 (Pearson) 
-0,116 (Spearman) 
-0,083 (Spearman) 
0,010 (Spearman) 
-0,289 (Pearson) 
0,497 (Spearman) 
0,092 (Spearman) 
0,361 (Spearman) 
0,148 (Pearson) 
0,702 (Pearson) 
Không tương quan 
Tương quan mức 0,05
Tương quan mức 0,05
Không tương quan 
Không tương quan 
Không tương quan 
Tương quan mức 0,05
Tương quan mức 0,01
Không tương quan 
Tương quan mức 0,01
Không tương quan 
Tương quan mức 0,01
Như vậy qua khảo sát này, thời gian sống còn của 
bệnh nhân UTPKTBN có tương quan thuận lợi với các 
yếu tố được xác lập như sau: 
-có hóa liệu pháp (mức tương quan 0,01) 
-đáp ứng với hóa liệu pháp bước một tốt (mức 
tương quan 0,01) 
-có số chu kỳ điều trị nhiều, phù hợp (mức tương 
quan 0,01) 
-không có các triệu chứng tiên lượng nặng (mức 
tương quan 0,01) 
-không có CEA/máu cao (mức tương quan 0,05) 
-chỉ số hoạt động cơ thể tốt (mức tương quan 
0,05) 
-không ở hai “đầu mút” của nhóm tuổi (mức 
tương quan 0,05) 
Các yếu tố không xác lập được tương quan với 
thời gian sống còn: 
-giới 
-giai đoạn lâm sàng 
-tổn thương di căn 
-dạng giải phẫu bệnh 
-loại phối hợp thuốc sử dụng bước một 
-số bước hóa liệu pháp sử dụng. 
BÀN LUẬN 
Độc tính của hóa liệu pháp 
Độc tính trên hệ tạo huyết nghiêm trọng và 
thường gặp nhất là tình trạng giảm bạch cầu. Tỉ lệ 
giảm bạch cầu hạt grad 3 và 4 là 4,5% số chu kỳ điều 
trị nhưng trong đó chỉ có 1/3 trường hợp (13 trường 
hợp) phải nhập viện vì sốt giảm bạch cầu. Việc điều 
trị chủ yếu dựa vào kháng sinh toàn thân, nâng đỡ cơ 
thể và dùng các thuốc trợ tủy kích thích tăng bạch 
cầu trong một số trường hợp. Tỉ lệ giảm bạch cầu này 
khá thấp so với nhiều công trình nghiên cứu ở nước 
ngoài nhưng tương tự như kết quả khảo sát tại cùng 
Bệnh viện vào thời điểm trước có thể do việc dùng 
liều thường thấp(4,7,8,9). 
Tỉ lệ giảm bạch cầu hạt grad 3 hoặc 4 ghi nhận 
được trong loạt khảo sát của chúng tôi cũng ở mức độ 
thấp (4,5% số chu kỳ) do dùng liều thấp. Tuy nhiên 
đây lại là nguyên nhân chính dẫn đến tử vong liên 
quan đến điều trị. Trong số 6 bệnh nhân tử vong liên 
quan đến điều trị (chiếm 4,4% bệnh nhân) có đến 5 
trường hợp là do biến chứng giảm bạch cầu. 
Tình trạng giảm tiểu cầu grad 3 hoặc 4 chỉ được 
ghi nhận trong 1,5% số chu kỳ hóa liệu pháp và liên 
quan đến dùng carboplatin. Tuy vậy giảm tiểu cầu 
không đưa đến biến chứng nghiêm trọng nào, bệnh 
nhân phần nhiều tự hồi phục, có hai trường hợp phải 
nhập viện truyền tiểu cầu vì xuất huyết dưới da. 
Trên bệnh nhân hóa liệu pháp UTPKTBN giai 
đoạn tiến xa, việc đánh giá tình trạng thiếu máu có 
hay không liên quan đến điều trị là điều rất khó khăn. 
Dù các dẫn chất platin (cisplatin, carboplatin) thường 
được dùng trong các phối hợp có độc tính tích tụ trên 
tủy xương nhưng các yếu tố khác như tình trạng 
chán ăn, nôn ói, đau nhức, tâm lý lo lắng... của bệnh 
nhân cũng có thể ảnh hưởng đến tình trạng dinh 
dưỡng và góp phần gây thiếu máu. 
Độc tính ngoài hệ tạo huyết gặp chủ yếu là tình 
trạng nôn ói nặng xảy ra trong khoảng 8% số chu kỳ 
hóa liệu pháp. Cisplatin là thuốc có khả năng gây nôn 
ói mạnh và có đặc tính là nôn ói muộn xảy ra nhiều 
 151
ngày sau điều trị. Đây là điều gây khó khăn cho nhiều 
bệnh nhân đặc biệt là bệnh nhân ngoại trú ở các tỉnh 
xa. Việc xử trí thường đòi hỏi phải nhập việc, bù hoàn 
nước điện giải, năng lượng, dùng thuốc chống nôn 
(corticoid và metoclopramide liều cao)... Đối với bệnh 
nhân được đánh giá kém khả năng dung nạp với tác 
dụng phụ này, carboplatin thường được chỉ định 
dùng thay thế. 
Viêm thần kinh ngoại biên gặp ở 4,5% bệnh nhân 
sau một số chu kỳ hóa liệu pháp có nhóm platin. 
Bệnh nhân thường biểu hiện tê, dị cảm đầu tay, chân 
đưa đến cản trở ít nhiều khi cằm nắm, đi đứng. 
Triệu chứng đau cơ khớp rất đặc thù cho 
paclitaxel được ghi nhận xảy ra với tỉ lệ 5 – 10% bệnh 
nhân đau cơ khớp grad 3 hoặc 4(15,16). Chúng tôi ghi 
nhận tác dụng phụ này rất hiếm gặp (dưới 5% số chu 
kỳ hóa liệu pháp với paclitaxel) và thường nhẹ (grad 1, 
2), thoáng qua. Các tác dụng phụ khác tuy ít nghiêm 
trọng hơn nhưng rất thông thường là rụng tóc, thay 
đổi màu sắc da, móng, táo bón hay tiêu chảy, giả cúm 
v.v... cũng được ghi nhận ở nhóm bệnh nhân khảo 
sát này. 
Độc tính của hóa liệu pháp có ảnh hưởng đến 
việc điều trị và là một trong những lý do ngưng hóa 
liệu pháp: 7,4% trong ngưng hóa liệu pháp bước một, 
2,2% hóa liệu pháp bước hai và 11% đối với hóa liệu 
pháp bước ba. Ngoài ra có 6 trường hợp tử vong do 
độc tính của hóa liệu pháp (4,4% số bệnh nhân điều 
trị) bao gồm 5 trường hợp giảm bạch cầu hạt và một 
biến chứng tim mạch. Tỉ lệ tử vong liên quan đến 
điều trị tuy thấp nhưng có ảnh hưởng đến kết quả 
sống còn của toàn bộ nhóm bệnh nhân nghiên cứu 
và làm mờ nhạt đi ích lợi sống còn của hóa liệu pháp 
trên nhóm bệnh nhân có đáp ứng(23,). Đây cũng là 
điều cần ghi nhận để cân nhắc chỉ định hóa liệu pháp 
cho phù hợp với từng trường hợp bệnh nhân cụ thể. 
Kết quả hóa liệu pháp 
Các tỉ lệ đáp ứng 
Các tỉ lệ đáp ứng khách quan gồm: 1,5% đáp ứng 
hoàn toàn, 28,3% đáp ứng một phần, 58,9% bệnh 
không thay đổi (ổn định) và có 11,2% bệnh tiến triển. 
Như vậy tỉ lệ đáp ứng toàn bộ là 29,8%. So sánh với 
kết quả ghi nhận cũng tại Bệnh viện Ung Bướu 
TPHCM thời điểm 1995-1997, các tỉ lệ đáp ứng đều 
cao hơn rõ rệt(9). Chúng tôi cho rằng điều này phản 
ảnh sự khác biệt trong phương pháp ghi nhận. Trong 
tổng kết trước, tỉ lệ bệnh nhân hóa liệu pháp bước hai 
và bước ba là 18,8 và 4,9%, số chu kỳ điều trị trung 
bình chỉ là 2,6(9). Nghiên cứu này ghi nhận số bệnh 
nhân hóa liệu pháp các bước hai và ba cao hơn rõ rệt 
(42,5 và 5,2%), số chu kỳ điều trị trung bì
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 7078_hoa_tri_ung_thu_phoi_khon.pdf 7078_hoa_tri_ung_thu_phoi_khon.pdf