Củi là sản phẩm phụcủa ngành lâmnghiệp được sửdụng chủyếu làmchất đốt, đun nấu, 
sưởi ấm cho các hộgia đình ởnông thôn, đặc biệt đối với các hộthuộc địa bàn miền núi, vùng sâu, 
vùng xa. Sốliệu củi khai thác hàng năm do Tổng cục Thống kê thu thập và cung cấp, được tính 
toán trên cơsở điều tra mẫu suy rộng kết quảkhai thác các sản phẩm phụcủa ngành lâmnghiệp. Số
liệu vềkhối lượng củi khai thác được tính bằng đơn vị: Ste (1 ste tương đương 700 kg). 
              
                                            
                                
            
 
            
                 19 trang
19 trang | 
Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1105 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Các chỉtiêuvềChương trình chếbiến và thương mại lâm sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 9. Các chỉ tiêu về Chương trình chế biến và thương mại lâm sản 
Báo cáo Ngành Lâm nghiệp 2005 
121
Khối lượng củi khai thác Chỉ tiêu 3.3.3 
Củi là sản phẩm phụ của ngành lâm nghiệp được sử dụng chủ yếu làm chất đốt, đun nấu, 
sưởi ấm cho các hộ gia đình ở nông thôn, đặc biệt đối với các hộ thuộc địa bàn miền núi, vùng sâu, 
vùng xa.. Số liệu củi khai thác hàng năm do Tổng cục Thống kê thu thập và cung cấp, được tính 
toán trên cơ sở điều tra mẫu suy rộng kết quả khai thác các sản phẩm phụ của ngành lâm nghiệp. Số 
liệu về khối lượng củi khai thác được tính bằng đơn vị: Ste (1 ste tương đương 700 kg). 
Theo số liệu của Tổng cục Thống 
kê, năm 2005 cả nước khai thác 26.240,5 
ngàn ste củi, trong đó các địa phương miền 
Bắc khai thác 19.256,7 ngàn ste, chiếm 
73,4% tổng sản lượng củi khai thác của cả 
nước. Sản lượng củi được khai thác nhiều 
nhất tại các vùng miền núi Đông Bắc 
chiếm 35,6% tổng sản lượng khai thác của 
cả nước, tiếp đến là vùng Bắc Trung bộ 
với 19,9%, vùng Tây Bắc 15,9%, vùng 
Đồng bằng sông Cửu Long 11,7%. Đáng 
lưu ý là vùng Tây Nguyên thuộc địa bàn 
miền núi, nhiều rừng nhưng sản lượng củi 
khai thác chỉ chiếm 6,7% tổng sản lượng 
củi khai thác của cả nước. 
Lượng gỗ củi khai thác khoảng 
28 triệu m3/ năm được một nghiên cứu của UNDP1 coi là nhu cầu củi cho cả khu vực thành 
thị (5 triệu m3/ năm) và khu vực nông thôn (23 triệu m3/ năm) của Việt nam. Tuy nhiên nhu 
cầu củi ở trên thế giới nói chung và Việt nam nói riêng đang giảm dần cả ở khu vực thành thị 
và nông thôn do có nhiều loại nhiên liệu thay thế ( gas, điện ở thành thị và các sản phẩm nông 
nghiệp và vườn nhà. Ngoài ra, giá củi cao và khả năng thu lượm củi ngày càng khó khăn 
cũng buộc người dân phải tiết kiệm tiêu dùng. Số liệu khối lượng củi khai thác tính bình quân 
đầu người cho 83 triệu dân Việt nam (2005) là 0,3 ste / người và cho 60,77 triệu dân khu vực 
nông thôn là 0,43 ste / người là hợp lý. Tuy nhiên số liệu của các vùng có sự khác biệt lớn từ 
0,04 ste/ người / năm cho vùng Đồng bằng sông Hồng đến 1,89 ste/ người / năm cho vùng 
Tây Bắc. Lượng gỗ củi trên đầu người ở vùng Tây Bắc và Đông Bắc cao do thói quen sử 
dụng nhiều củi để đun nấu hàng ngày và sưởi ấm trong mùa đông dẫn đến lượng củi cho tiêu 
dùng rất lớn. Nhu cầu gỗ củi quá thấp cuả các vùng đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ và 
Tây Nguyên là do phương pháp thống kê mẫu không đủ chính xác, chỉ nghe khai báo mà 
không có các nghiên cứu chuyên đề về năng lượng củi ở các vùng. 
Bảng 42: Tình hình khai thác và sử dụng củi
Địa bàn Tổng số (1000 Ste) 
Củi đầu 
người NT 
(ste) 
Cả nước 26.240,5 0,43
Miền Bắc 19.256,7 
Đồng bằng sông Hồng 521,9 0,04
Đông Bắc 9.330,7 1,24
Tây Bắc 4.172,1 1,89
Bắc Trung Bộ 5.232 0,57
Miền Nam 6.983,8 
Duyên Hải Trung Bộ 1.576,6 0,32
Tây Nguyên 1.771,1 0,16
Đông Nam Bộ 562 0,09
Đồng bằng sông Cửu Long 3.074,1 0,22
Nguồn: Tổng cục Thống kê 
1 UNDP/ESMAP, Việt nam- Các vấn đề và giải pháp về năng lượng hộ gia đình và nông thôn, Tháng 9/1993 
Chương 9. Các chỉ tiêu về Chương trình chế biến và thương mại lâm sản 
Báo cáo Ngành Lâm nghiệp 2005 
122
Giá trị sản xuất của công 
nghiệp chế biến gỗ Chỉ tiêu 3.3.4 
Giá trị sản xuất của công nghiệp chế biên lâm sản là giá trị sản xuất được tính theo 
phương pháp công xưởng bao gồm: (i) doanh thu công nghiệp(doanh thu bán sản phẩm, dịch 
vụ công nghiệp, bán phế liệu, phế phẩm và doanh thu cho thuê máy móc, thiết bị có kèm theo 
người điều khiển); (ii) chênh lệch cuối kỳ, đầu kỳ thành phẩm tồn kho, hàng gửi bán, sản 
phẩm dở dang. 
Bảng 43 dưới đây cho thấy tổng giá trị sản xuất công nghiệp chế biến lâm sản của cả 
nước đã tăng từ 13.500 tỷ đồng năm 2000 lên 60.060 tỷ đồng năm 2005 theo giá thực tế và 
7.529 tỷ đồng năm 2000 lên 21.532 tỷ đồng năm 2005 theo giá so sánh 1994. 
Bảng 43: Giá trị sản xuất công nghiệp chế biến lâm sản năm 2000- 2005 
Đơn vị: tỷ đồng
Giá trị sản xuất công nghiệp chế biến lâm sản các năm 
Hoạt động 
2000 2002 2003 2004 2005 
a) Sản xuất sản phẩm gỗ và lâm sản 
- Giá thực tế 6059,3 8587,0 11.249,0 14.786,8 19.539,3
- Giá so sánh 1994 3598,0 4488,0 5485,4 6570,3 8120,4
b) Sản xuất giường, tủ,bàn ghế 
- Giá thực tế 7435,5 12.971,6 20.719,7 30.356,7 40.519,9
- Giá so sánh 1994 3930,9 6057,3 7846,3 10179,0 13411,1
Tổng GTSX giá thực tế 13.494,8 21.558,6 31.968,7 45.143,5 60.059,2
Tổng GTSX giá so sánh 
1994 
7528,9 10.545,3 13.331,7 16.749,3 21531,5
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2006 của TCTK 
Chương 9. Các chỉ tiêu về Chương trình chế biến và thương mại lâm sản 
123
Biểu đồ 29: giá trị sản xuất của công nghiệp chế biến gỗ năm 2000 – 2005
Đơn vị: tỷ đồng
-
10.000
20.000
30.000
40.000
50.000
60.000
70.000
2000 2002 2003 2004 2005
Tổng
GTSX giá
thực tế 
Tổng
GTSX giá
so sánh
1994
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2006 
Như vậy giá trị sản xuất của công nghiệp chế biến gỗ đã tăng 4,5 lần trong thời kỳ 
2000-2005 đạt giá trị gần 4 tỷ đô la Mỹ vào năm 2005 (giá thực tế). Đây là kết quả to lớn của 
ngành chế biến đồ gỗ. Tuy nhiên, biến động về giá gỗ nguyên liệu nhập khẩu lớn đã có ảnh 
hưởng tiêu cực đến việc xuất khẩu và ngành lâm nghiệp cần phải tập trung các nguồn lực để 
tăng tốc độ trồng rừng gỗ lớn và gỗ nhỏ cao sản phục vụ cho chiến lược xuất khẩu bền vững 
của ngành trong thập kỷ tới để đến 2020 có thể đáp ứng 80% nhu cầu gỗ cho xuất khẩu, sản 
xuất 12 triệu m3 gỗ lớn và 8 triệu m3 gỗ nhỏ chủ yếu từ rừng trồng và xuất khẩu 7 tỷ USD đồ 
gỗ và 0,8 tỷ USD hàng từ LSNG (Chiến lược PTLNQG 2006-2020). 
Tạo mặt ván ép tại một nhà máy chế biến gỗ ở Tây Nguyên
Báo cáo Ngành Lâm nghiệp 2005 
Chương 9. Các chỉ tiêu về Chương trình chế biến và thương mại lâm sản 
Báo cáo Ngành Lâm nghiệp 2005 
124
Giá trị xuất khẩu hàng hoá 
của ngành Lâm nghiệp Chỉ tiêu 3.3.5 
Đây là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động xuất khẩu của ngành lâm nghiệp 
trong một thời gian nhất định. Giá trị xuất khẩu hàng hóa của ngành lâm nghiệp bao gồm giá 
trị tất cả các mặt hàng, từ nguyên liệu đến thành phẩm có xuất xứ từ rừng được bán ra khỏi 
lãnh thổ Việt Nam, bao gồm cả phần giá trị hàng hóa lâm sản được sử dụng cho các khu công 
nghiệp, khu chế xuất có 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 
Theo số liệu thống kê Hải quan, năm 2005 
tổng giá trị xuất khẩu các mặt hàng lâm sản 
của Việt Nam đạt gần 1,79 tỷ USD, trong 
đó giá trị mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ đạt 
1,56 tỷ USD, chiếm 87,4% tổng giá trị xuất 
khẩu, phần giá trị còn lại (230 triệu USD) 
thuộc về các mặt hàng làm từ mây, tre ( 
khoảng 10%), quế, hồi và các sản phẩm 
khác (khoảng 2,6%). 
Giá trị xuất khẩu của ngành lâm 
nghiệp tăng mạnh trong các năm gần đây. 
Nếu lấy năm 2005 so với năm 2003 thì tổng 
giá trị xuất khẩu lâm sản nói chung và giá trị 
xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đều tăng gần 3 
lần. Đáng chú ý là giá trị xuất khẩu của gỗ và 
sản phẩm gỗ qua các năm đều chiếm một tỷ 
trọng rất cao (bình quân trên 90%) trong tổng 
giá trị xuất khẩu chung của ngành lâm 
nghiệp trong những năm gần đây. 
Biểu đồ 30: Cơ cấu giá trị xuất khẩu hàng 
lâm sản
Gỗ và SP gỗ
88%
Sản phẩm từ
 mây tre
10% Khác
2%
Nguồn: Tổng cục Hải quan, 2005 
Biểu đồ 31: Giá trị xuất khẩu lâm sản 
2003-2005
633
1.207
1.787
567
1.139
1.563
2003
2004
2005
Giá trị XK
gỗ và SP gỗ
(triệu USD)
Tổng giá trị
XK lâm sản
(triệu USD)
Nguồn: Tổng cục Hải quan, 2005 
Chương 9. Các chỉ tiêu về Chương trình chế biến và thương mại lâm sản 
125
Thị trường xuất khẩu mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ năm 2005 của Việt Nam tập trung 
vào một số thị trường truyền thống, đứng đầu là Mỹ, tiếp đến là các nước Nhật Bản, Anh,... 
Thị phần của 3 thị trường quan trọng nói trên (Mỹ, Nhật, Anh) thu hút gần 60% tổng giá trị 
xuất khẩu của nhóm mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam. Tổng giá trị 10 nước đứng 
đầu về nhập khẩu mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam chiếm 84% tổng thị phần của 
mặt hàng này. Đáng chú ý là thị trường Mỹ đang chiếm một thị phần rất lớn và có tốc độ tăng 
nhanh nhất, nếu như trong năm 2004 thị trường Mỹ chiếm 28% tổng thị phần mặt hàng gỗ và 
sản phẩm gỗ của Việt Nam thì năm 2005 con số này đã lên tới 36,3%. 
Bảng 44: 10 thị trường xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ chính của Việt Nam, 2005 
Đơn vị: 1000 USD
Thị phần (%) 
Tên nước Năm 2004 Năm 2005 05/04 (%) 
2004 2005 
Tổng giá trị xuất khẩu 1.139.090 1.562.533 137,2 100 100
Trong đó: 
MỸ 318.856 566.968 177,8 28,0 36,3
NHẬT BẢN 180.016 240.873 133,8 15,8 15,4
ANH 107.319 114.929 107,1 9,4 7,4
CHLB ĐỨC 60.088 75.311 125,3 5,3 4,8
PHÁP 60.026 74.202 123,6 5,3 4,7
TRUNG QUỐC 35.077 60.341 172,0 3,1 3,9
HÀN QUỐC 32.005 49.678 155,2 2,8 3,2
HÀ LAN 35.019 45.443 129,8 3,1 2,9
Ô X TRÂY LIA 38.001 41.865 110,2 3,3 2,7
ĐÀI LOAN 56.631 40.627 71,7 5,0 2,6
Nguồn: Tổng cục Hải quan, 2006 
Các mặt hàng xuất khẩu làm từ 
mây, tre, tuy đem lại giá trị xuất khẩu 
không lớn so với các sản phẩm từ gỗ, 
nhưng đã tạo ra nhiều công ăn việc làm, 
góp phần cải thiện đời sống đáng kể cho 
khu vực nông thôn, đặc biệt đối với địa bàn 
miền núi. Năm 2005, giá trị xuất khẩu các 
mặt hàng này đạt hơn 180 triệu USD và 
các thị trường thu hút các sản phẩm này 
của Việt Nam cũng chủ yếu từ Mỹ 
(15,2%), Đức (15%), Nhật Bản (12,3%), 
Đài Loan (8,5%),... 
 Sản phẩm mây, tre đan 
Báo cáo Ngành Lâm nghiệp 2005 
Chương 9. Các chỉ tiêu về Chương trình chế biến và thương mại lâm sản 
Báo cáo Ngành Lâm nghiệp 2005 
126
Giá trị gỗ và nguyên liệu gỗ 
nhập khẩu Chỉ tiêu 3.3.6 
Giá trị gỗ và nguyên liệu gỗ nhập khẩu là chỉ tiêu thống kê quan trọng phán ánh mức 
độ đáp ứng nhu cầu sử dụng gỗ và nguyên liệu gỗ cho sản xuất và tiêu dùng của xã hội trong 
bối cảnh rừng tự nhiên bị đóng cửa, sản lượng gỗ khai thác từ rừng trồng chưa nhiều. Gỗ và 
nguyên liệu gỗ nhập khẩu về Việt Nam rất đa dạng về chủng loại, mẫu mã, hiện chưa cơ quan 
thống kê nào thống kê được đầy đủ, chi tiết về lượng. Thống kê ngành Hải Quan cũng chỉ 
mới thu thập được số liệu về giá trị nhập khẩu theo các tháng trong năm và theo thị trường 
nhập khẩu chính. 
Bảng 45: 10 thị trường nhập khẩu gỗ và nguyên liệu chính của Việt Nam, 2005 
Đơn vị: 1000 USD
Thị phần (%) 
Tên nước Năm 2004 Năm 2005 05/04 (%) 
2004 2005 
Tổng giá trị nhập 
khẩu 538.545 650.714 120,8 100,0 100,0 
Malaysia 150.583 135.088 89,7 28,0 20,8 
Lào 59.042 69.515 117,7 11,0 10,7 
Campuchia 43.678 57.680 132,1 8,1 8,9 
Trung quốc 24.989 54.808 219,3 4,6 8,4 
Mỹ 30.765 39.339 127,9 5,7 6,0 
Thái Lan 21.994 36.481 165,9 4,1 5,6 
Đài Loan 29.089 31.069 106,8 5,4 4,8 
Mianma 7.985 30.073 376,6 1,5 4,6 
Niuzilân 19.035 27.157 142,7 3,5 4,2 
Braxin 17.812 24.303 136,4 3,3 3,7 
Nguồn: Tổng cục Hải quan, 2006 
Năm 2005, tổng giá trị gỗ và nguyên 
liệu gỗ nhập nhập khẩu cả nước đạt hơn 650,7 
triệu USD, tăng 20,8% so với tổng giá trị nhập 
khẩu của năm trước. Trong khối lượng gỗ và 
nguyên liệu gỗ nhập khẩu một khối lượng 
không nhỏ được chế biến thành các sản phẩm 
thành phẩm và được xuất khẩu trở lại thị 
trường thế giới. Tuy nhiên, thị trường nhập 
khẩu gỗ và nguyên liệu gỗ không giống với thị 
trường xuất khẩu sản phẩm gỗ. 
 Gỗ nhập khẩu 
Chương 9. Các chỉ tiêu về Chương trình chế biến và thương mại lâm sản 
127
Cũng theo số liệu thống kê năm 2005, thị trường nhập khẩu gỗ và nguyên liệu gỗ 
chính vào Việt Nam đứng đầu là Malaysia với 20,8% tổng thị phần, tiếp theo là thị trường 
Lào cung cấp gần 11% tổng nhu cầu nhập khẩu gỗ của Việt Nam, sau Lào là Campuchia, 
Trung Quốc, Mỹ,… 
Thị trường Thái Lan chỉ đứng vị trí thứ 6, nhưng thị phần tăng đáng kể so với năm 
trước từ 4,1% lên 5,6%. Cũng trong năm 2005, theo nguồn số liệu thống kê của Tổng cục Hải 
Quan, ngoài các thị trường chính kể trên, một khối lượng lớn gỗ cây được nhập khẩu trực tiếp 
từ Myanma vào Việt Nam với tổng giá trị lên tới 28,5 triệu USD, tăng gần 4 lần so với năm 
trước. Số gỗ này chủ yếu được sử dụng cho các nhu cầu xây dựng dân dụng. 
 Trồng rừng và khai thác gỗ hiệu quả sẽ góp phần giảm lượng gỗ nhập khẩu. 
Báo cáo Ngành Lâm nghiệp 2005 
Chương 9. Các chỉ tiêu về Chương trình chế biến và thương mại lâm sản 
Báo cáo Ngành Lâm nghiệp 2005 
128
Sản lượng một số sản phẩm công 
nghiệp chế biến lâm sản chính Chỉ tiêu 3.3.7 
Ngoài các hoạt động lâm sinh (trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng), khai thác (gỗ và lâm 
sản ngoài gỗ), công nghiệp chế biến lâm sản cũng góp phần quan trọng làm tăng giá trị các 
sản phẩm của ngành. Sản phẩm chế biến trong lâm nghiệp rất đa dạng bao gồm nhiều chủng 
loại, từ chế biến thô như: xẻ gỗ, gỗ ván sàn, gỗ dán, ván ép,… đến chế biến các sản phẩm 
phục vụ tiêu dùng trực tiếp như: giường, tủ, bàn ghế, salong, sập gụ, tủ chè,…hoặc lâm sản 
ngoài gỗ qua tinh chế, như các loại dầu (quế, hồi,…). Tổng cục Thống kê thông qua hệ thống 
báo cáo hành chính của ngành hiện mới chỉ thống kê được sản lượng một số sản phẩm công 
nghiệp chế biến chính phân theo thành phần kinh tế là nhà nước và tư nhân. 
Bảng 46: Sản lượng một số sản phẩm công nghiệp chế biến lâm sản chính năm 2005
Trong đó 
Loại sản phẩm Đơn vị tính Sản lượng 
Nhà nước Tư nhân 
 Gỗ xẻ các loại 1000 m3 3.111 85,5 3.025,0
 Gỗ ván sàn m2 85.905 1.765 84.140
 Gỗ dán m2 42.640 7.720 34.920
 Ván ép m2 286.745 72.135 214.610
 Bàn làm việc, học tập bằng gỗ 1000 cái 6.140 275,3 5.864,5
 Sa lông gỗ có khảm Bộ 35.420 0 35.420
 Gường bằng gỗ các loại 1000 cái 1.387 58,2 1.328,6
 Sập gụ Cái 5.720 0 5.720
 Tủ chè Cái 64.775 0 64.775
 Tủ đựng tài liệu bằng gỗ các loại 1000 cái 9.918 8,4 9.909,9
 Tủ đựng đồ đạc bằng gỗ các loại 1000 cái 580 0,0 580,1
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2006 
Trong năm 2005, cả nước đã chế biến được hơn 3,1 triệu m3 gỗ xẻ các loại, bao gồm 
cả gỗ khai thác trong nước và gỗ nhập khẩu; gần 86 triệu m2 gỗ ván sàn; 42,6 triệu m2 gỗ 
dán, 286,7 triệu m2 ván ép và hàng triệu bàn làm việc, giường, tủ; hàng chục triệu bộ salong, 
sập gụ, tủ chè phục vụ nhu cầu tiêu dùng của xã hội và xuất khẩu. 
 Theo số liệu thống kê thì phần lớn các hoạt động chế biến lâm sản hiện nay ở nước ta 
do thành phần kinh tế tư nhân thực hiện. Khu vực tư nhân đã sản xuất 100% khối lượng các 
mặt hàng gia dụng từ gỗ như: Salong gỗ có khảm, sập gụ, tủ chè, các loại tủ đựng tài liệu và 
tủ đựng đồ đạc. Ngoài ra, đối với các sản phẩm, như: gỗ xẻ, gỗ ván sàn, gỗ dán và ván ép, 
khối tư nhân chiếm tỷ lệ từ 75-98% khối lượng sản xuất, trong khi thành phần kinh tế nhà 
nước chỉ chiếm một tỷ lệ khiêm tốn, như: ván ép là sản phẩm có tỷ lệ cao nhất cũng chỉ 
chiếm 25,2%, tiếp đến là gỗ dán chỉ 18,1% trong tổng sản lượng sản phẩm chế biến. 
Chương 9. Các chỉ tiêu về Chương trình chế biến và thương mại lâm sản 
129
Khu vực tư nhân đóng vai trò chủ đạo trong các trong hoạt động chế biến lâm sản và 
được thể hiện khá rõ trong cơ cấu tỷ lệ % sản lượng sản phẩm công nghiệp chế biến các mặt 
hàng lâm sản chính năm 2005 và xu hướng này còn tiếp tục phát triển trong thời gian tới. Do 
các sản phẩm chế biến lâm sản rất đa dạng bao gồm rất nhiều chủng loại, nên việc thống kê 
chi tiết theo từng chủng loại sản phẩm được sản xuất là rất cần thiết để làm cơ sở xác định 
giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm của ngành một cách đầy đủ và khoa học hơn. 
Báo cáo Ngành Lâm nghiệp 2005 
Chương 10. Các chỉ tiêu về Chương trình Nghiên cứu, giáo dục đào tạo và khuyến lâm 
B
10 
Chương 
Các chỉ tiêu Chương trình 
Nghiên cứu, giáo dục đào tạo 
và khuyến lâm
Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp Việt Nam 2006 – 2020: Nâng cao chất lượng và 
hiệu quả của các hoạt động nghiên cứu, giáo dục, đào tạo và khuyến lâm nhằm phát 
triển nguồn nhân lực có chất lượng cao cho ngành Lâm nghiệp. Lấy khoa học công 
nghệ làm động lực cho phát triển ngành, gắn nghiên cứu, đào tạo với sản xuất và thị 
trường nhằm nâng cao các đóng góp vào tăng trưởng kinh tế lâm nghiệp, bảo vệ môi 
trường và cải thiện mức sống cho những người dân làm nghề rừng. 
 áo cáo Ngành Lâm nghiệp 2005 130
Chương 10. Các chỉ tiêu về Chương trình Nghiên cứu, giáo dục đào tạo và khuyến lâm 
Báo cáo Ngành Lâm nghiệp 2005 
131
Số người làm khoa học và 
công nghệ lâm nghiệp Chỉ tiêu 3.4.1 
Số người làm khoa học và công nghệ lâm nghiệp là số cán bộ khoa học các cấp có 
trình độ từ kỹ sư hoặc tương đương trở lên của các viện, trường, doanh nghiệp ...đang có các 
hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ hoặc quản lý KHCN trong ngành lâm nghiệp tại 
thời điểm thống kê. Hiện nay đã có một mạng lưới các đơn vị nghiên cứu khoa học lâm 
nghiệp bao gồm các Viện nghiên cứu, các trường đào tạo về lâm nghiệp, các cơ sở sản xuất, 
các đơn vị ở địa phương và các tổ chức phi chính phủ. Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam 
là Viện nghiên cứu duy nhất của ngành lâm nghiệp được thành lập từ năm 1961 với chức 
năng và nhiệm vụ chính là nghiên cứu tất cả các lĩnh vực của lâm nghiệp phục vụ cho phát 
triển của ngành. Hiện nay, Viện có 6 phòng nghiên cứu về các lĩnh vực: lâm sinh, kinh tế lâm 
nghiệp, chế biến lâm sản, bảo quản lâm sản, tài nguyên thực vật rừng, bảo vệ rừng; 4 trung 
tâm nghiên cứu chuyên đề về Giống cây rừng, sinh thái và môi trường rừng, lâm đặc sản và 
công nghệ sinh học lâm nghiệp; 8 Trung tâm vùng đóng tại các tỉnh: Sơn La, Vĩnh Phúc, Phú 
Thọ, Quảng Trị, Gia Lai, Lâm Đồng, Đồng Nai, 
Cà Mau và 1 phân viện đóng tại TP Hồ Chí Minh. 
Trường đại học Lâm nghiệp Xuân Mai là đơn vị 
thực hiện chức năng đào tạo và nghiên cứu về lâm 
nghiệp, được thành lập từ năm 1964. Hiện nay, 
với đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu đông 
đảo, trường Đại học Lâm nghiệp cũng là một đơn 
vị nghiên cứu khoa học lớn của ngành. Ngoài ra, 
các trường có đào tạo về lâm nghiệp khác như: 
Đại học Nông lâm Thủ Đức, Đại học Tây 
Nguyên, Đại học Nông lâm Thái Nguyên và Đại 
học Nông Lâm Huế, Trường Trung học Lâm 
nghiệp Quảng Ninh cũng là những đơn vị tham gia nghiên cứu các vấn đề thuộc lĩnh vực lâm 
nghiệp. Nhiều đơn vị sản xuất cũng thành lập các trung tâm nghiên hoặc tham gia nghiên cứu 
như Công ty Giống lâm nghiệp Trung ương, Viện nghiên cứu cây nguyên liệu giấy thuộc 
Tổng công ty giấy Việt Nam; các Vườn quốc gia, Khu bảo tồn thiên nhiên, Các Trung tâm 
bảo vệ rừng do Cục Kiểm lâm quản lý,…cũng tham gia thực hiện các đề tài nghiên cứu về 
giống và xây dựng các vườn giống, rừng giống, sản xuất và cung cấp giống cho các địa 
phương; nghiên cứu các loài cây cung cấp nguyên liệu giấy, nghiên cứu bảo tồn nguồn gien 
và một số vấn đề khác. 
Tập huấn trồng rừng ngập mặn 
Các Trung tâm Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp, Trung tâm khuyến nông khuyến 
lâm, Lâm trường thực nghiệm ở các tỉnh,…cũng tham gia nghiên cứu khoa học, ứng dụng kỹ 
thuật tiến bộ, chuyển giao công nghệ hay phổ cập,… như: Nông lâm trường thực nghiệm Yên 
Lập, Quảng Ninh; Trung tâm nghiên cứu thực nghiệm Bình Thanh, Hoà Bình,…Các Hội 
Chương 10. Các chỉ tiêu về Chương trình Nghiên cứu, giáo dục đào tạo và khuyến lâm 
132
Khoa học kỹ thuật Lâm nghiệp Việt Nam; Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam; 
Viện kinh tế sinh thái,… cũng tham gia ngày càng nhiều hơn vào nghiên cứu lâm 
nghiệp.Viện Điều tra quy hoạch rừng với chức năng và nhiệm vụ chính là điều tra, quy hoạch 
rừng và theo dõi diễn biến tài nguyên rừng nhưng cũng đã thực hiện một số công trình nghiên 
cứu về phân cấp phòng hộ đầu nguồn, cấu trúc và tăng trưởng rừng, lâm sản ngoài gỗ,… 
Bảng 47: Số lượng cán bộ nghiên cứu khoa học của Viện Khoa học lâm nghiệp Việt nam
Chức danh 2005 2006 
GS, PGS 5 4 
Tiến sỹ 25 26 
Thạc sỹ 76 91 
Đại học 195 204 
Tổng số 301 325 
Nguồn: Viện Khoa học Lâm nghiệp, 2006 
Số cán bộ nghiên cứu đầu đàn (giáo sư, phó giáo sư) giảm do đến tuổi về hưu, nhưng 
chưa được bổ sung. Cán bộ có trình độ tiến sĩ và kỹ sư ít thay đổi trong khi số thạc sĩ vẫn tiếp 
tục tăng. 
Việc thiếu các số liệu thống kê về số cán bộ nghiên cứu ngay trong các Cục, vụ của 
Bộ cũng như các Viện, trường chứng tỏ công tác thống kê của Bộ NN&PTNT còn nhiều bất 
cập và cần có các giải pháp để cải thiện công tác thống kê của ngành. 
Tập huấn trồng Tràm trên cát
Báo cáo Ngành Lâm nghiệp 2005 
Chương 10. Các chỉ tiêu về Chương trình Nghiên cứu, giáo dục đào tạo và khuyến lâm 
Báo cáo Ngành Lâm nghiệp 2005 
133
Số lượng giống cây lâm 
nghiệp được cấp chứng chỉ Chỉ tiêu 3.4.2 
Số lượng giống cây lâm nghiệp được cấp chứng chỉ là số giống từ các rừng giống, 
vườn giống, vườn cây đầu dòng được công nhận, giống của các loài được phép sản xuất kinh 
doanh nhưng có nguồn gốc là rừng chuyển hoá hoặc từ các cây mẹ được công nhận., có 
nguồn gốc từ các lâm phần tuyển chọn họăc được phép nhập khẩu. Theo số liệu điều tra, hiện 
có 163 nguồn giống với tổng diện tích 5.967 ha tại 35/64 tỉnh, thành phố, trong đó: Lâm phần 
tuyển chọn: 813,7 ha (chiếm 13,6%), rừng giống chuyển hóa: 4.768 ha (chiếm 79,9% về diện 
tích) rừng giống: 215,2 ha (chiếm 3,6%), vườn giống: 169,7 ha (chiếm 2,9%), bảo đảm cung 
cấp chủ yếu lượng hạt giống phục vụ trồng rừng. Tuy nhiên những nguồn giống có chất 
lượng di truyền cao (rừng giống, vườn giống) còn quá ít cả về số loài cũng như về quy mô 
diện tích (trừ các loài Thông), nguồn giống của các loài cây gỗ lớn, cây đặc sản còn chưa 
được chú ý; Các lâm phần tuyển chọn có chất lượng di truyền kém. 
Diện tích rừng giống chuyển hóa chiếm 
tỷ trọng cao nhất, đây là nguồn giống quan 
trọng trong cung ứng giống hiện nay. Chất 
lượng di truyền đã được nâng lên một bước do 
có sự chọn lọc lâm phần và áp dụng một số biện 
pháp kỹ thuật lâm sinh. Tuy nhiên, đối với một 
số loài cây, đây chỉ là bước trung gian trong khi 
chưa thiết lập được các khu rừng giống, vườn 
giống có chất lượng cao hơn để thay thế. Trong 
số các rừng giống chuyển hoá được công nhận 
có nhiều khu đã bị chặt phá và nhiều khu không 
bảo đảm chất lượng do không được đầu tư 
chăm sóc, nuôi dưỡng thích đáng. Giống Tràm ở Quảng Bình 
Thành phần loài cây tương đối phong phú, với 52 loài (bản địa 37, nhập nội 15). Tuy 
nhiên, vẫn còn nhiều loài trong cơ cấu các loài cây trồng rừng chưa có nguồn giống (Mấm, 
Xoan ta, Sồi phảng, Bạch đàn trắng, Bời lời, Đước, Giổi, Huỷnh, các loài Keo, Trám, Dó 
trầm,…). Một số loài có diện tích nguồn giống khá lớn, sản lượng giống cao nhưng nhu cầu 
trồng rừng lại ít (Thông ba lá, thông nhựa, Tếch, Phi lao…). Trong khi đó, có nhiều loài có 
nhu cầu sử dụng giống nhiều nhưng nguồn giống lại quá ít (Giổi, Keo lá tràm, Trám…), chất 
lượng không cao, chưa đáp ứng nhu cầu trồng rừng nguyên liệu cho xuất khẩu cũng như cho 
tiêu dùng nội địa. 
Chương 10. Các chỉ tiêu về Chương trình Nghiên cứu, giáo dục đào tạo và khuyến lâm 
134
Bảng 48: Hiện trạng cơ cấu các loại nguồn giống trong toàn quốc
Số lượng nguồn giống Diện tích nguồn giống 
STT Loại nguồn giống 
Số lượng Tỷ lệ (%) Diện tích (ha) Tỷ lệ (%) 
1 Lâm phần tuyển chọn 27 16,6 813,7 13,6
2 Rừng giống chuyển hóa 84 51,5 4.768,35 79,9
3 Rừng giống 25 15,3 215,2 3,6
4 Vườn giống 27 16,6 169,7 2,9
4.1 Vườn giống vô tính 18 11,1 123,7 2,1
4.2 Vườn giống hữu tính 3 1,8 38,0 0,7
4.3 Vườn cây đầu dòng 6 3,7 8,0 0,1
 Tổng cộng 163 100,0 5.966,95 100,0
Nguồn: Chiến lược phát triển giống cây lâm nghiệp, tháng 8/2006 
Ngành lâm nghiệp đã tập trung vào khảo nghiệm loài, xuất xứ, chọn lọc cây trội, khảo 
nghiệm hậu thế, khảo nghiệm dòng vô tính; lai tạo giống mới; nhân giống sinh dưỡng (giâm 
hom và nuôi cấy mô); ứng dụng di truyền phân tử vào chọn giống và bảo tồn nguồn gen cây 
rừng; chế biến và bảo quản hạt giống. Kết quả là: 30 xuất xứ ( thuộc các nhóm loài thông, 
keo, bạch đàn, tràm, phi lao, lát hoa) được công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật; 3 giống Keo 
lai được công nhận là giống quốc gia, 8 dòng keo lai, 7 dòng bạch đàn và 31 dòng thuộc 8 tổ 
hợp Keo và Bạch đàn có ưu thế lai cao được công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật. Nhiều kết 
quả nghiên cứu đã được ứng dụng vào sản xuất làm tăng đáng kể năng suất và hiệu quả của 
trồng rừng. 
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn ban hành “Danh mục giống cây lâm nghiệp 
được phép sản xuất kinh doanh”, bao gồm 5 loại sau: 
1) Các giống được công nhận và giống từ các rừng giống, vườn giống, vườn cây đầu 
dòng được công nhận. 
2) Giống của các loài được phép sản xuất, kinh doanh nhưng tối thiểu phải có nguồn 
giống là rừng chuyển hoá hoặc có các cây mẹ được công nhận. 
3) Giống của các loài được phép sản xuất, kinh doanh nhưng phải có nguồn giống từ các 
lâm phần tuyển chọn. 
4) Giống của các loài được phép sản xuất, kinh doanh không cần có nguồn giống được 
công nhận. 
5) Các giống được phép kinh doanh qua nhập khẩu. 
Báo cáo Ngành Lâm nghiệp 2005 
Chương 10. Các chỉ tiêu về Chương trình Nghiên cứu, giáo dục đào tạo và khuyến lâm 
Báo cáo Ngành Lâm nghiệp 2005 
135
Số đề tài khoa học lâm nghiệp được 
nghiệm thu và đưa vào ứng dụng Chỉ tiêu 3.4.3 
Số đề tài khoa học được nghiệm thu và đưa vào ứng dụng là số các đề tài thuộc các 
lĩnh vực lâm sinh, bảo vệ & bảo tồn rừng, công nghiệp rừng, kinh tế và chính sách lâm 
nghiệp được nghiệm thu, đưa vào sử dụng trong quản lý, sản xuất kinh doanh lâm nghiệp tại 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 bao_cao_so_lieu_split_7_1026.pdf bao_cao_so_lieu_split_7_1026.pdf