Trong 2 năm, từ6/2005-6/2007, 90 cơsởnuôi cá biển tại tỉnh Khánh Hòa đã được phỏng vấn và 
736 mẫu cá bệnh đã được thu đểphát hiện các loại bệnh thường gặp trên các loài cá biển nuôi tại địa 
phương. Đã có 10 loại bệnh khác nhau được phát hiện ởcác trang trại nuôi cá biển tại Khánh Hòa. 
Đó là: bệnh Vibriosis, bệnh sán lá da, bệnh sán lá mang, bệnh rận cá, bệnh đỉa cá, bệnh hoại tửthần 
kinh, bệnh mòn vây và đuôi, bệnh đốm trắng ởthận, bệnh lymphocystic và hội chứng dịdạng. Một số
trong các bệnh này xuất hiện quanh năm, một sốkhác lại thểhiện tính mùa vụcủa bệnh. Người nuôi 
cá biển ở địa phương đã dùng các loại hóa chất, kháng sinh đểchữa bệnh cho cá nuôi, nhưng kết quả
trịbệnh còn thấp. 
Từkhóa: Vibriosis, lymphocystic, tỉnh Khánh Hòa, nuôi cá biển 
              
                                            
                                
            
 
            
                
9 trang | 
Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1552 | Lượt tải: 0
              
            Nội dung tài liệu Các loại bệnh thường gặp trên cá biển nuôi ở khánh hòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 02/2008 Trường Đại học Nha Trang 
16 
CÁC LOẠI BỆNH THƯỜNG GẶP TRÊN CÁ BIỂN NUÔI Ở KHÁNH HÒA 
COMMON DISEASES IN CULTURED MARINE FINFISHES IN KHANH HOA PROVINCE 
PGS.TS. Đỗ Thị Hòa, ThS. Trần Vỹ Hích, KS. Nguyễn Thị Thùy Giang, 
ThS. Phan Văn Út, KS. Nguyễn Thị Nguyệt Huệ 
Khoa Nuôi trồng Thủy sản - Trường Đại học Nha Trang 
Tóm tắt: 
Trong 2 năm, từ 6/2005-6/2007, 90 cơ sở nuôi cá biển tại tỉnh Khánh Hòa đã được phỏng vấn và 
736 mẫu cá bệnh đã được thu để phát hiện các loại bệnh thường gặp trên các loài cá biển nuôi tại địa 
phương. Đã có 10 loại bệnh khác nhau được phát hiện ở các trang trại nuôi cá biển tại Khánh Hòa. 
Đó là: bệnh Vibriosis, bệnh sán lá da, bệnh sán lá mang, bệnh rận cá, bệnh đỉa cá, bệnh hoại tử thần 
kinh, bệnh mòn vây và đuôi, bệnh đốm trắng ở thận, bệnh lymphocystic và hội chứng dị dạng. Một số 
trong các bệnh này xuất hiện quanh năm, một số khác lại thể hiện tính mùa vụ của bệnh. Người nuôi 
cá biển ở địa phương đã dùng các loại hóa chất, kháng sinh để chữa bệnh cho cá nuôi, nhưng kết quả 
trị bệnh còn thấp. 
Từ khóa: Vibriosis, lymphocystic, tỉnh Khánh Hòa, nuôi cá biển 
Abstract: 
In two years, from 6/2005- 6/2007, 90 marine finfish culturing farms in Khanh Hoa Province had 
been surveyed and 736 diseased fish samples had been collected for detecting common diseases in 
some species of cultured marine finfishes. There ware 10 common diseases ware deteced that having 
caused losses in marine fish culturing farms in Khanh Hoa. These are vibriosis disease, fin and tail rot 
disease, gill monogenean disease, skin monogenean disease, sea lice disease, leech disease, white spot 
kidney disease, lymphocystic disease, viral nervous necrosis disease and deformity syndrome. Some of 
the diseases occurred all year round, but other diseases have seasonal characterization. Diseased 
marine cultured fishes were treated by chemicals or antibiotics but effect of treatment is not hight. 
Keywords: Vibriosis, lymphocystic, Khanh Hoa province, cultured marine finfish, disease. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Khánh Hòa là một tỉnh ven biển, nằm ở 
khu vực Nam Trung bộ, nơi có nhiệt độ ấm 
nóng và độ mặn cao quanh năm, nơi có tiềm 
năng to lớn cho nghề nuôi cá biển phát triển. 
Nhiều loài cá biển có giá trị kinh tế đang được 
nuôi ở địa phương, như cá mú (Epinephelus 
spp); cá chẽm (Lates calcarifer), cá hồng 
(Lutjanus spp) và cá giò (Rachycentron 
canadum). Cá biển nuôi trong ao hay trong 
lồng tại Khánh Hòa vẫn thường xuyên bị nhiều 
loại bệnh khác nhau, ảnh hưởng tới sinh 
trưởng và tỷ lệ sống của cá nuôi. Trong khi đó, 
đến 2005, nghiên cứu về bệnh ở cá biển nuôi 
và các biện pháp phòng trị bệnh ở Khánh Hòa 
vẫn còn bỏ ngỏ, vẫn chưa có công trình nghiên 
cứu nào về về lĩnh vực này tại địa phương 
được công bố. Qua 2 năm điều tra và nghiên 
cứu (từ 6/2005- 6/2007), 10 loại bệnh đã và 
đang gây tác hại ở các ao, lồng nuôi cá biển tại 
tỉnh Khánh Hòa đã được phát hiện, mô tả bệnh 
lý và một số đặc điểm dịch tễ của bệnh. 
II. PHƯƠNG PHÁP VÀ VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU 
- Nguồn thông tin thứ cấp dựa vào các số 
liệu tổng hợp của Sở Thủy sản (nay là Sở 
NNPTNT), các phòng Nông nghiệp về các 
vùng nuôi cá biển ở Khánh Hòa. 
- Dựa trên kết quả phỏng vấn trực tiếp 
những người nuôi cá biển bằng lồng (30 hộ), 
bằng đìa (60 hộ) ở trong tỉnh Khánh Hòa 
(n=90) và kết hợp với thu mẫu cá bệnh: 267 
con cá mú (10-32cm); 180 con cá chẽm (3-
VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 02/2008 Trường Đại học Nha Trang 
17
32cm); 82 con cá hồng (6-28cm) và 207 con 
cá giò (5-40cm). Các mẫu cá đã được phân 
tích tại phòng thí nghiệm bệnh học thủy sản để 
xác định các loại bệnh thường xảy ra ở cá 
biển nuôi và một số đặc điểm dịch tễ của 
bệnh: tác nhân gây bệnh, các dấu hiệu có ý 
nghĩa chẩn đoán, kích thước cá thường bị 
bệnh, mùa vụ chính của bệnh và hiệu quả của 
các phương pháp phòng trị mà người dân đã 
áp dụng. 
- Một số phương pháp nghiên cứu bệnh ở 
động vật thủy sản thông thường đã được dùng 
để nghiên cứu về tác nhân gây bệnh: Phương 
pháp nghiên cứu ký sinh trùng ở cá của Dogiel 
(1929) và của Hà Ký (2003); Phương pháp 
nghiên cứu bệnh nhiễm khuẩn ở cá xương 
của Kimberley A. Whitman (2004). Ngoài ra, 
chúng tôi còn dùng kỹ thuật mô bệnh học- 
Histopathology để tìm hiểu các biến đổi bệnh 
lý bên trong và kỹ thuật PCR để chẩn đoán sự 
nhiễm của virus gây hoại tử thần kinh ở các 
mẫu có trạng thái bệnh lý bơi xoắn. Tên gọi 
các loại bệnh phụ thuộc vào các dấu hiệu 
chính đã quan sát được và dựa vào tác nhân 
gây bệnh đã được phát hiện của các bệnh. 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 
Bảng 1. Phân bố số phiếu điều tra theo hình thức nuôi và giống loài cá nuôi (n=90) 
Các giống loài cá nuôi (%) Hình 
thức 
nuôi 
cá biển 
Cá Mú (%) 
(Epinephelus spp) 
Cá Hồng (%) 
(Lutjanus 
argentimaculat) 
Cá Chẽm (%) 
(Lates 
calcarifer) 
Cá Giò (%) 
(Rachycentron 
canadum) 
Cá khác 
(%) 
Nuôi lồng 
(n=30) 
66,7 % 
(20/30) 
33,3% 
(10/30) 
33,3% 
(5/30) 
6,67,0 
(2/30) 
23,3% 
(7/30) 
Nuôi đìa 
(n=60) 
75,0% 
(45/60) 
16,6% 
(10/60) 
41,6 % 
(25/60) 
(3,54 %) 
2/60 
16,7% 
(10/60) 
(Chú thích: Có nhiều hộ dân nuôi không phải một mà nhiều loài cá biển) 
3.1. Một số bệnh thường gặp trong nuôi cá 
biển và đặc điểm dịch tễ. 
Có 9 loại bệnh và 1 hội chứng bệnh ở cá 
biển nuôi tại Khánh Hoà đã được phát hiện. 
Các bệnh với dấu hiệu chính và kết quả 
nghiên cứu tác nhân gây bệnh được trình bày 
sau đây. 
3.1.1. Bệnh Vibriosis (bệnh xuất huyết lở loét) 
Cá bệnh xuất hiện các vết thương tổn 
trên bề mặt cơ thể, tróc vẩy và xuất huyết dưới 
da, nặng hơn có các vết loét sâu trên bề mặt 
cơ thể. Cá bệnh bơi lờ đờ trên mặt nước, kém 
ăn hoặc bỏ ăn và chết lác đác. Tần xuất gặp 
(65/90): trong đó cá mú: 40/65, cá hồng: 
12/20, cá chẽm: 10/25. Mùa khô (nhiệt độ cao) 
là thời gian xuất hiện chính của bệnh này 
(64,6%). Mọi kích cỡ của cá đều có thể nhiễm 
bệnh. Bệnh Vibriosis gặp cao ở cá nuôi lồng 
(100%), cá nuôi ao gặp thấp hơn (58,3%). Một 
số loài vi khuẩn Vibrio spp đã phân lập được 
từ nội tạng cá bệnh, trong đó Vibrio 
anguillarum đã gây bệnh trong điều kiện cảm 
nhiễm nhân tạo (60-80%) với liều tiêm 0,3ml 
huyền dịch có mật độ vi khuẩn 4.106 - 4.107 
tb/ml sau 3 ngày thử thách. 
Mắt lồi 
Loét 
Cá lô lô đối chứng 
Cá bệnh 
1 
Hình 1: Cá bị bệnh Vibriosis ở lồng và ao nuôi (1 và 3); Cá bị bệnh trong cảm nhiễm nhân tạo (2) 
2 3 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 02/2008 Trường Đại học Nha Trang 
18 
3.1.2. Bệnh mòn vây và đuôi 
Cá bệnh có màu sắc nhợt nhạt, hoạt 
động kém, các vây đặc biệt là vây đuôi bị ăn 
mòn. Trường hợp nặng, toàn bộ thịt phần đuôi 
bị hủy hoại để lộ xương sống, trên thân có các 
vệt trắng nhợt do mất nhớt, mất vẩy. Bệnh đã 
gây chết loạt rải rác hoặc hàng loạt cá trong ao 
lồng nuôi tại Khánh Hòa, đặc biệt ở giai đoạn 
cá con. Tần xuất gặp của bệnh là 25/90, trong 
đó cá mú: 20/65, cá hồng: 10/20, cá 
hồng:10/20, cá chẽm: 5/25 . Tần xuất gặp theo 
mùa trong một năm không rõ ràng: Quanh 
năm: 48%, mùa mưa 20% và mùa khô: 32%. 
Sự xuất hiện bệnh mòn vây và đuôi hầu như 
không liên quan tới kích cỡ của cá: mọi kích 
cỡ cá: 36%, cá lớn: 24% và cá giống: 40%. 
Kết quả phân lập của chúng tôi đã gặp với tần 
số cao loại vi khuẩn dài (8- vài chục µm), gram 
(-), có đặc điểm sinh hóa tương tự như loài 
Flexibacter maritimus. Vi khuẩn này đã được 
dùng để thử thách trên cá mú khỏe với liều 
tiêm dưới da 0, 1ml huyền dịch có mật độ vi 
khuẩn: 4. 106, 5.106 và 6.106 tb/ml và đặc 
khúm khuẩn lạc ở vùng da bị thương tổn, kết 
quả đã gây chết từ 30-60% cá thí nghiệm 
trong thời gian 7 ngày. 
3.1.3. Bệnh sán lá da (bệnh mè cá): 
Cá bệnh thường bị cảm nhiễm sán lá đơn 
chủ (Monogenea) dạng hạt mè trên bề mặt cơ 
thể với cường độ cao (100% và 26-78 
trùng/con cá), có thể làm cá đục mắt, hoạt 
động không bình thường do ngứa ngáy, giai 
đoạn cuối thường nổi lờ đờ trên mặt nước. 
Trường hợp nhiễm nặng, cá bệnh thể hiện đục 
mắt, suy kiệt sức khỏe mà chết. Tần xuất gặp 
của bệnh này là 35/90, trong đó lần lượt gặp ở 
các loài cá là: cá mú: 20/65, cá hồng: 12/20, 
cá chẽm: 3/25, cá giò: 2/4. Bệnh thường xuất 
hiện vào thời gian giao thời giữa 2 mùa khô và 
mưa, khi nhiệt độ khoảng 25-300C (71,4 %). 
57,1% trường hợp bệnh gặp ở cá có kích cỡ 
nhỏ (<20cm) và cá nuôi ở lồng gặp bệnh này 
cao hơn (83,3%) so với cá nuôi ở ao (16,7%). 
Kết quả nghiên cứu các mẫu bị “ bệnh 
mè cá” cho thấy một tỷ lệ và cường độ nhiễm 
cao của sán lá đơn chủ (100% và 26-89 
trùng/con cá) ở bề mặt cơ thể cá bệnh, trong 
khi các mẫu cá khỏe thường không bị nhiễm 
hoặc bị nhiễm ký sinh trùng này với tỷ lệ và 
cường độ thấp. Bốn loài sán lá đơn chủ: 
Neobenedenia melleni, Neobenedenia girellae, 
Benedenia epinepheli và Benedenia sp đã 
được xác định gây bệnh sán lá da trên cá biển 
nuôi ở Khánh Hòa. 
Hình 2. Cá bị bệnh mòn vây và đuôi ở ao lồng nuôi (1 và 3); Cá bệnh trong cảm nhiễm nhân tạo (2) 
1 
2 3 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 02/2008 Trường Đại học Nha Trang 
19
3.1.4. Bệnh sán lá mang (bnh sng mang, 
hay bnh m mang) 
Cá bệnh thường hoạt động yếu, bỏ ăn, 
màu sắc nhợt nhạt. Khi bơi nắp mang phồng 
lên, mang tiết nhiều dịch nhầy (mủ mang), 
trường hợp bệnh nặng có thể gây chết cá rải 
rác hoặc hàng loạt ở giai đoạn cá con 
(<20cm). Tần xuất gặp của bệnh này là 32/90, 
trong đó đã gặp lần lượt ở các loài cá như 
sau: cá mú: 20/65, cá hồng: 10/20, cá chẽm: 
2/30, chưa gặp bệnh này ở cá giò. Bệnh xuất 
hiện chủ yếu vào thời gian giao thời giữa mùa 
mưa và mùa khô và duy trì bệnh này trong 
suất mùa khô 78,2%. Cỡ cá nhỏ (<20cm) 
thường bị nhiễm cao (71,8%) so với cỡ cá lớn 
(6,3%). Bệnh sán lá mang cũng xuất hiện ở cá 
nuôi lồng cao hơn (66,7 với n=30) so với cá 
nuôi ao (20% với n=60) 
Khi phân tích các mẫu cá bị bệnh mủ 
mang, chúng tôi đã phát hiện nhiều giống loài 
sán lá đơn chủ ký sinh ở mang cá bệnh với tỷ 
lệ và cường độ nhiễm rất cao (100% và 40 - 
350 trùng/ phiến mang), như: 
Pseudorhabdosynochus spp, Diplectanum spp 
(Diplectanidae: Monogenea) và Haliotrema 
spp (Ancyrocephalidae: Monogenea). Trong 
khi đó, các mẫu cá khỏe thường không hoặc 
nhiễm các ký sinh trùng này với tỷ lệ và cường 
độ thấp (10-53% và 0-7 trùng/ lá mang). Do 
vậy chúng tôi kết luận rằng, nguyên nhân gây 
bệnh sưng mang ở cá biển nuôi của Khánh 
Hòa là nhiều giống loài sán lá đơn chủ ký khác 
nhau sinh với cường độ và tỷ lệ cao. Do vậy 
bệnh này được gọi là bệnh sán lá mang. 
3.1.5. Bệnh rận cá 
Cá bị bệnh do rận có hiện tượng kém ăn, 
chậm lớn, khi cảm nhiễm với mức độ cao gây 
cá chết rải rác. Khi quan sát bằng mắt thường 
thấy rõ từng đám rận cá (giáp xác ký sinh) 
bám từng đám ở các khe mang, hốc mắt, hốc 
mũi, xương cung mang, các tơ mang và trên 
bề mặt cơ thể. Tần xuất gặp của bệnh là 
30/90, trong đó gặp ở các loài cá là: cá mú: 
20/65, cá giò: 2/4, cá chẽm: 8/30, chưa gặp ở 
cá hồng. Bệnh rận ở cá xuất hiện quanh năm, 
nhưng có tới 73,3% trường hợp xuất hiện vào 
mùa mưa. Tất cá các cỡ cá nuôi đều bị nhiễm 
bệnh này. Nguy cơ bị bệnh rận ở cá nuôi lồng 
và nuôi ao là như nhau. 
Hình 3: Cá giò và cá mú bị nhiễm bệnh sán lá da do sán lá đơn chủ ký sinh ở da với cường độ 
cao (1. cá giò bị đục mắt do nhiễm Neobenedenia sp; 2. cá mú bị bệnh nhiễm nhiều 
Neobenedenia sp trên bề mặt cơ thể; 3. Hình dạng của Neobenedenia meleni 
(Monogenea) là tác nhân gây bệnh SLD) 
1 2 3 
Hình 4. Cá mú bị bệnh sán lá mang do sán lá đơn chủ (Monogenea) ký sinh [cá bị bệnh có 
mầu tối, nắp mang phồng lên (1); Sán lá đơn chủ ký sinh ở các mang với cường độ cao (2,3)] 
1 2 3 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 02/2008 Trường Đại học Nha Trang 
20 
Kết quả nghiên cứu các mẫu cá bị bệnh 
đã cho thấy, tác nhân gây bệnh rận ở cá là 
một số loài giáp xác bậc thấp thuộc giống 
Caligus spp, Parapetalus sp và Lepeophtheirus 
sp (Caligidae: Copepoda) và Lernanthropus sp 
(Lernanthropidae: Copepoda) ký sinh ở cá với 
tỷ lệ và cường độ cao. 
3.1.6. Bệnh hoại tử thần kinh (bệnh cá bơi xoắn) 
Cá bị bệnh có màu sắc đen sậm, bơi lội 
không định hướng, bơi xoắn ốc, đuôi cong và 
liệt cứng, bụng cá chướng do bóng hơi căng 
phồng, ruột không có thức ăn nhưng có 
thường chứa chất dịch màu xanh lá cây. Trên 
thân và nội tạng không có dấu hiệu bị tổn 
thương. Bệnh này đã gây chết nhiều ở cá con. 
Tần xuất gặp của bệnh cá bơi xoắn là 23/90, 
trong đó gặp ở các loài cá biển nuôi ở Khánh 
hòa là: cá mú: 18/65, cá chẽm: 5/30 và cá giò: 
2/4. Đây là bệnh xuất hiện chủ yếu vào mùa 
khô, mùa có nhiệt độ cao trong năm (78,3 %) 
và cỡ cá con cũng thường chịu tác hại của 
bệnh hoại tử thần kinh lớn hơn (65,2%) so với 
cỡ cá lớn (21,7%). Cá nuôi ao hay lồng đều 
có nguy cơ bị bệnh này như nhau. 
Kết quả phân tích mẫu cá bơi xoắn tại 
phòng thí nghiệm bằng kỹ thuật mô bệnh học 
đã cho thấy các biến đổi mô học ở não và ở 
mắt của cá bệnh rất đặc trưng cho bệnh nhiễm 
virus gây hoại tử thần kinh ở cá biển đã được 
thông báo ở nhiều nơi trên thế giới [Yukio 
Maeno &CTV, 2004; Tanaka S &CTV, 2004]. 
Một số mẫu cá bị bệnh bơi xoắn đã được kiểm 
tra bằng kỹ thuật PCR, cho kết quả dương 
tính với virus gây hoại tử thần kinh (Viral 
Nervous Necrosis- VNN). 
3.1.7. Bệnh đỉa cá 
Cá bị bệnh này có da, vây, mang, hốc mũi 
khe miệng bị nhiễm ký sinh trùng thuộc họ đỉa 
(Hirunidae) với cường độ cao (81-152 con đỉa 
đu bám trên một con cá) làm cho cá bệnh gầy 
yếu, suy kiệt sức khỏe và chết rải rác do mất 
máu hoặc do bị nhiễm khuẩn cơ hội. Kết quả 
điều tra đã thể hiện tần xuất gặp khá cao của 
Hình 5: Cá giò bị bệnh do ký sinh trùng thuộc họ Caligidae [Từng đám Parapetalus sp ký sinh 
ở mang và khe mang của cá giò (1); Parapetalus sp và Caligus sp (Caligidae) gây bệnh rận ở 
cá biển nuôi tại Khánh Hòa (2 và 3)]. 
1 2 3 
Hình 6: Cá mú con bị bệnh hoại tử thần kính do virus (VNN). 
[Các dấu hiệu chính của cá khi bị nhiễm bệnh hoại tử thần kinh (1 và 2); 
Mô bệnh học não của cá mú nuôi ở Khánh Hòa bị bệnh VNN (3)] 
1 3 2 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 02/2008 Trường Đại học Nha Trang 
21
bệnh đỉa trên cá biển nuôi ở khánh Hòa 
(30/90), trong đó cá mú nhiễm:15/65, cá chẽm: 
13/30 và cá hồng: 5/20. Có 66,7% trường hợp 
hặp bệnh đỉa vào mùa mưa và tất cá các cỡ 
cá đều có thể bị nhiễm ký sinh trùng này, tuy 
vậy tác hại gây chết cao hơn ở cá con khi 
cùng bị nhiễm với cường độ đỉa như nhau. 
3.1.8. Bệnh đốm trắng ở thận 
Bệnh này gặp ở cá giò nuôi thương phẩm 
trong các lồng trên biển ở Vạn Ninh, Khánh 
hòa. Cá bị bệnh thể hiện kém ăn, chậm lớn, 
giải phẫu bên trong cơ thể biểu hiện thận bị 
sưng, xuất hiện các đốm trắng dạng hạt trong 
mô thận, đôi khi gặp ở gan và tụy và gây chết 
cá rải rác. Kết quả điều tra cho thấy tần số gặp 
của bệnh này trên cá biển nuôi ở Khánh Hòa 
thấp (2/90), và chỉ gặp ở cá giò với tần xuất 
2/4. Vi khuẩn Photobacterium damsela 
thường xuyên phân lập được từ mẫu cá bệnh. 
3.1.9. Bệnh lymphocystic (bệnh u sần) 
Cá bị bệnh xuất hiện khối u nhỏ, có mầu 
trắng hay hồng trên vây, lưng, đầu cá. Đôi khi 
khối u vỡ gây gây loét và xuất huyết. Bệnh này 
chỉ gây chết rải rác nhưng ảnh hưởng tới sinh 
trưởng và giá trị thương phẩm của cá nuôi. 
Tần xuất gặp của bệnh lymphocystic ở cá biển 
nuôi tại Khánh Hòa không cao (5/90), trong đó 
chỉ gặp bệnh này ở cá giò: 2/4 cá chẽm: 3/30, 
các loài cá khác chưa gặp bệnh này. Có tới 
80% trường hợp bệnh này xuất hiện vào mùa 
mưa. Bệnh có thể xảy ra ở các cỡ cá khác 
nhau, nhưng vẫn gặp ở cá con cao hơn: cá 
con: 40%, cá lớn: 20% và tất cả các cỡ cá: 
40%. Các mẫu cá bị bệnh đã được phân tích 
bằng kỹ thuật mô bệnh học cho thấy sự phi đại 
của một số tế bào ở các khối u, tương tự như 
đặc điểm mô bệnh học của bệnh lymphocystic 
trên cá biển đã được mô tả bởi Cheng S. & 
CTV (2006) và Lorenzen K. &CTV (1991). 
Hình 7. Đỉa cá thu được từ 
cá biển nuôi tại Khánh Hòa 
1 2 
Hình 8: Cá giò bị bệnh thể hiện dấu hiệu sưng với các đốm trắng trên lách (1) và trên thận (2) 
Hình 9. Cá giò nuôi tại Vạn Ninh, Khánh Hòa bị bệnh lymphocystic (1); 
Lát cắt mô bệnh học của khối u trên vây cá bệnh (2) 
1 2 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 02/2008 Trường Đại học Nha Trang 
22 
3.1.10 Hội chứng dị dạng ở cá biển 
Cá bị hội chứng này thể hiện hình dạng 
không bình thường, cột sống bị ưỡn cong và 
bụng cá bệnh hóp lại như bị đói lâu ngày. Cá 
bệnh sẽ chết sau đó ít ngày. Tần số gặp của 
bệnh này là 5/90 và chủ yếu gặp ở cá mú, giai 
đoạn cá con nuôi nuôi tại Khánh Hòa. Hội 
chứng này chưa rõ nguyên nhân. 
2. Một số biện pháp phòng trị bệnh đã được các nông hộ nuôi cá biển sử dụng 
Bảng 2. Các biện pháp trị bệnh đã được sử dụng tại các cơ sở nuôi cá biển tại Khánh Hòa (n=90) 
STT Tên gọi của bệnh Biện pháp trị bệnh đã sử dụng Hiệu quả trị bệnh 
1 Bệnh Vibriosis 
( n=65) 
- Dùng kháng sinh để tắm cá bệnh (53,8%) 
- Dùng malachite Green để tắm (23,1%) 
- Không trị khi gặp bệnh (23,1%) 
- Có hiệu quả: 42,9% 
- Không hiệu quả: 57,1% 
2 Bệnh sán lá da – 
(bệnh mè cá). 
(n=35) 
- Dùng hóa chất (formol + malachite green) để 
tắm cho cá (71.42%) 
- Dùng nước ngọt hoặc nước mưa để tắm cho 
cá. (42,8%) 
- Dùng dipterex tắm: 14,3% 
- Không chữa bệnh: 38,57% 
- Có hiệu qủa khi tắm bằng 
Formol nhưng bệnh tái phát 
nhanh (60%) 
 -Tắm nước mưa, nước ngọt 
chỉ giảm bệnh (100%) 
- Dipterex hiệu quả tốt (100%) 
3 Bệnh sán lá mang 
(bệnh mủ mang) 
(n=32) 
-Dùng formalin (46,5%) 
-Dùng Malachite green (21,7%) 
-Dùng hóa dipterex (31,2%) 
-Dùng nước ngọt (16,5%) 
- Không dùng (16,5%) 
- Bệnh chỉ giảm (66,7%) 
- MG không có hiệu quả 
(71%) 
- Dipterex có hiệu quả (80% 
- Với nước ngọt bệnh chỉ giảm 
(100%) 
4 Bệnh do rận cá 
(n=30) 
- Dùng dipterex để tắm: 33,3% 
- Tắm nước mưa: 16,6% 
- Tắm malachite (MG): 33,3% 
- Không chữa trị: 16,6% 
-Dipterex có hiệu quả (80%) 
-Giảm với nước mưa (60%). 
5 Bệnh đỉa cá (n=30) - Tắm Malachite (MG): 66.7% 
- Tắm bằng Dipterex: 33,3% 
-Dùng MG giảm bệnh (75%) 
-Dùng dipterex có tác dụng 
giảm bệnh (70%) 
6 Bệnh mòn vây và 
đuôi (n=25) 
- Không biết cách nào để chữa trị (84,0%) 
- Dùng hóa chất (Iodine, KMnO4)để tắm cá 
bệnh và kết hợp với cho ăn kháng sinh (16, 
0% ) 
- Có hiệu quả nếu cá nhiễm 
chưa nặng, nhưng hao hụt 
nhiều ( 50%) 
- Không có hiệu quả (50%) 
7 Bệnh hoại tử thần 
kinh (n=23) 
- Không chữa trị (34,8%) 
-Tắm hóa chất và kháng sinh (65,2%) 
- Hoàn toàn không có hiệu 
quả (100%) 
8 Bệnh lymphocystic 
(n=5) 
- Tắm kháng sinh (50%) 
- Tắm nước ngọt (50%) 
- Không có hiệu quả 
9 Bệnh đốm trắng ở 
thận. (n=2) 
- Chưa dùng biện pháp nào để chữa trị 
(100%) 
- Không có thông tin 
IV. THẢO LUẬN 
Các kết quả điều tra và nghiên cứu đã 
trình bày trên đây cho ta thấy cá biển nuôi ở 
Khánh Hòa dù mới chỉ bắt đầu phát triển, 
nhưng đã gặp không ít khó khăn về bệnh. Các 
bệnh đã gặp ở cá biển nuôi tại Khánh Hòa 
cũng không khác nhiều so với các bệnh trên 
cá biển nuôi ở các quốc gia khu vực châu Á 
Thái Bình Dương đã được thông báo bởi T.S. 
Leong & CTV. (1992, 2006ª), bệnh ở cá mú 
nuôi được nghiên cứu bởi S. Chinabut & 
CTV.(2005), Erlinda R.C-L & CTV (2004) và 
Mellba G &CTV (2006), bệnh ở cá giò nuôi 
của Lopez & CTV (2002) và bệnh ở cá chẽm 
nuôi của L. Ruangpan (2007 
Một số bệnh ở cá biển nuôi của Khánh 
Hòa có thể xảy ra quanh năm, không phân biệt 
rõ ràng về mùa vụ, như bệnh mòn vây và đuôi, 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 02/2008 Trường Đại học Nha Trang 
23
hội chứng dị dạng. Nhưng một số bệnh khác 
lại có tần xuất gặp tập trung nhiều hơn vào 
một mùa nào đó trong năm, thể hiện tính mùa 
vụ của bệnh. Bệnh Vibriosis và bệnh hoại tử 
thần kinh thường xảy ra nhiều hơn vào mùa 
khô (mùa có nhiệt độ cao). Bệnh sán lá da và 
bệnh sán lá mang xảy ra nhiều hơn vào giao 
thời giữa 2 mùa mưa và khô (khi có nhiệt độ 
nước 25-300C) và các bệnh đốm trắng ở thận 
cá giò, bệnh rận cá, bệnh lymphocystic và 
bệnh đỉa cá lại thường xảy ra vào mùa mưa. 
Hầu hết các bệnh đều gây tác hại nhiều hơn ở 
giai đoạn cá con (<20cm), ngoại trừ bệnh đỉa 
và bệnh đốm trắng ở thận của cá giò. 
Kết quả ghi nhận ở bảng 2 cho ta thấy 
kháng sinh và hóa chất đã được dùng phổ 
biến để chữa bệnh cho cá biển nuôi ở Khánh 
Hòa, nhưng hiệu quả trị bệnh chưa cao. Ngoài 
ra, trong số các loại hóa chất đã dùng, có 2 
loại nằm trong danh mục thuốc cấm sử dụng ở 
Việt Nam và nhiều quốc gia khác trên thế giới, 
đó là malachite green và dipterex đã được 
dùng chữa cho nhiều bệnh. Do vậy dư lượng 
của thuốc để lại trên cơ thể của cá nuôi có thể 
là một vấn đề trong không đơn giản khi người 
nuôi tiêu thụ sản phẩm của họ trên thị trường 
thế giới. 
KẾT LUẬN 
1. Đã phát hiện 9 loại bệnh và 1 hội chứng 
gây tác hại trên các loài cá biển nuôi ở Khánh 
Hòa như cá mú, cá chẽm , cá hồng và cá giò . 
Trong đó tần xuất gặp từ cao đến thấp theo 
thứ tự như sau: Bệnh Vibriosis, bệnh sán lá 
da, bệnh sán lá mang, bệnh rận cá. bệnh đỉa 
cá, bệnh mòn vây và đuôi, bệnh hoại tử thần 
kinh, bệnh lymphocystic, bệnh đốm trắng ở 
thận và hội chứng dị dạng. 
2. Một số bệnh xuất hiện quanh năm, như 
bệnh mòn đuôi và vây, hội chứng dị dạng. Một 
số bệnh khác lại có tính mùa vụ: Bệnh 
Vibriosis và bệnh hoại tử thần kinh thường tập 
trung vào mùa khô (mùa có nhiệt độ cao); 
Bệnh sán lá da, bệnh sán lá mang thường tập 
trung xảy ra vào thời gian giao thời giữa mùa 
mưa sang mùa khô. Các bệnh rận cá, bệnh 
đốm trắng ở thận, bệnh lymphocystic và bệnh 
đỉa cá lại xảy ra nhiều hơn vào mùa mưa, mùa 
có nhiệt độ mát mẻ ở Khánh Hòa (22 – 280C) 
3. Người nuôi cá ở Khánh Hòa đã dùng 
nhiều loại hóa chất và kháng sinh để trị bệnh, 
trong khi hiểu biết của họ về tác nhân gây 
bệnh và tác dụng của thuốc còn hạn chế, hiệu 
quả trị bệnh chưa cao. Đặc biệt họ đã dùng 
khá phổ biển 2 loại hóa chất đã cấm sử dụng 
trong NTTS ở Việt Nam là malachite green và 
dipterex. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bùi Quang Tề (1998). Bệnh của cá mú nuôi lồng ở vịnh Hạ Long. Báo cáo tại Hội nghị Nuôi 
Trồng Thủy sản toàn quốc tháng 9/1998. 
2. Phan Thị Vân, Bùi Ngọc Thanh, Nguyễn Thị Hằng (2004). Bệnh ký sinh trùng trên cá song, cá 
giò nuôi tại Quảng Ninh và Hải Phòng. Trung tâm quan trắc cảnh báo môi trường và bệnh 
động vật thủy sản. Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I. 
3. Cheng S., Wenbin Zhan, Jing Xing, Xiuzhen Sheng 2006. Development and characterization 
of monoclonal antibody to the lymphocystis disease virus of Japanese flounder Paralichthys 
olivaceus isolated from China. Journal of virological method. N. 135, pp. 173 - 180 
4. Erlinda R. Cruz-Lacierda & Gregoria E. Erazo-Pagador (2004): Parasitic diseases of 
cultured grouper. In diseses of cultured grouper. Edited by Kazuya N. and Erlinda R. Cruz-
Lacierda. Southeast Asian Fisheries Development Center, Aquaculture Department. 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 02/2008 Trường Đại học Nha Trang 
24 
5. Leong T.S., Zilongtan & William J. Enright (2006a): Important parasitic diseases in cultured 
marine fish in the Asia –Pacific region. In AQUA culture Asiapacific magazine. Part 1. The 
parasite. Vol. 2, No. 1, p.14-15. 
6. Leong T.S., Zilongtan & William J. Enright (2006b): Important parasitic diseases in cultured 
marine fish in the Asia –Pacific region. In AQUA culture Asiapacific magazine. Part 2.control 
measures. Vol. 2, No. 2, p.25-27. 
7. Leong T.S. (2002): Practical approaches to health management for cage cultured marine 
fishes. In J. Aquaculture Asia, Vol.VII, No.3. p. 42-45. 
8. Leong T.S. (1994): Parasites and diseases of cultured marine finfishes in South East Asia. 
School of Biological Sciences, University Sains Malaysia. 11800 Minden, Pulau Pinang, 
Malaysia. 25p. 
9. Lila Ruangpan (2007): Seabass (Lates calcarifer) culture in Thailand. 
10. In http:/www.fao.org/docrep/field/003/AB707E/ AB707E10.htm.12pp. 
11. Lopez, C, P.R. Rajan, J.H.Y. Lin, T.Y.Kuo & H. L.Wang (2002): Disease outbreak in sea 
farmed cobia (Rachycentron canadum) associated with Vibrio spp, Photobacterium 
damselae spp. piscicida, monogenean and myxosporean parasites. J. Fish Pathology. 22. 
p.206 -211. 
12. Lorenzen K. & Dixon P.F. (1991) Prevalence of antibodies to lymphocyctis virus in estuarine 
flounder Platichthys flesus. Diseases of Aquatic Organisms 11, pp. 99 - 103. 
11. Ogawa K. (2004): Monogenean diseases. In infectiuos ans parasitic diseases of fish ans 
shellfish. Edided by Wakabayashi. H and Moroga K. P. 353-379. 
12. Supranee Chinabut, Theerawoot Lersutthichawai, Thitiporn Laoprasert & Pisarn Kerdpol 
(2005): Parasites of grouper (Epinephelus coioides) cultured in Thai Lan. In Thai Fisheries 
Gazete (Thailand). 58 (2) P.132-139. 
13. Tanaka S, I Kuriyama, T Nakai and Miyazaki 2003. Susceptibility of cultured juveniles of 
several marine 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
mot_so_benh_thuong_gap_o_ca_bien_3253.pdf