Cuối thế kỷ XX -đầu thế kỷ XXI, lịch sử nhân loại đã diễn ra với 
nhiều biến cố bất ngờ, từ sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở 
Liên Xô và các nước Đông Âu đến sự thoái trào của phong trào 
cộng sản và công nhân quốc tế. Nhân đó, đã có nhiều công trình, bài 
viết tuyên bố về cái chết của triết học Mác, chủ nghĩa Mác và chủ 
nghĩa cộng sản dựa trên các học thuyết của Mác. Song, thực tiễn 
lịch sử đã cho thấy, với bản chất cách mạng và khoa học, triết học 
Mác, chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa cộng sản dựa trên các học thuyết 
của C.Mác không những không chết, mà còn trường tồn với nhân 
loại ở thế kỷ XXI. Rằng, những di sản lý luận của C.Mác đã trở 
thành tài sản chung của cả nhân loại và sẽ mãi mãi là như vậy.
              
                                            
                                
            
 
            
                 11 trang
11 trang | 
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1375 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Các Mác vĩ đại vẫn sống với nhân loại ở thế kỷ XXI, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÁC MÁC VĨ ĐẠI VẪN SỐNG VỚI NHÂN LOẠI Ở THẾ KỶ XXI 
 NGUYỄN TRỌNG CHUẨN (*) 
Cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI, lịch sử nhân loại đã diễn ra với 
nhiều biến cố bất ngờ, từ sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở 
Liên Xô và các nước Đông Âu đến sự thoái trào của phong trào 
cộng sản và công nhân quốc tế. Nhân đó, đã có nhiều công trình, bài 
viết tuyên bố về cái chết của triết học Mác, chủ nghĩa Mác và chủ 
nghĩa cộng sản dựa trên các học thuyết của Mác. Song, thực tiễn 
lịch sử đã cho thấy, với bản chất cách mạng và khoa học, triết học 
Mác, chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa cộng sản dựa trên các học thuyết 
của C.Mác không những không chết, mà còn trường tồn với nhân 
loại ở thế kỷ XXI. Rằng, những di sản lý luận của C.Mác đã trở 
thành tài sản chung của cả nhân loại và sẽ mãi mãi là như vậy. 
Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông 
Âu, sự thoái trào của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã 
từng là đề tài của những cuốn sách, bài báo mà trong đó, các tác giả 
của chúng đều có một cái đích chung là “chứng minh” về cái chết của 
chủ nghĩa Mác, về cái chết của chủ nghĩa cộng sản dựa trên các học 
thuyết của C.Mác. 
Nổi bật trong số các cuốn sách loại đó phải nói đến cuốn Sự cáo 
chung của lịch sử và Con người cuối cùng của Francis Fukuyama 
(Phranxi Phucuyama) xuất bản tại Niu Oóc năm 1992(1). Theo sự so 
sánh của Giăccơ Đêrriđa (Jacques Derrida) - nhà triết học người 
Pháp, một trong những nhà triết học phương Tây nổi tiếng thế giới ở 
thế kỷ XX, trong cuốn Những bóng ma của Mác (Spectres de Marx), 
thì lúc đó, ở phương Tây, “người ta mua cuốn sách này như một bà 
nội trợ xô vào mua đường và dầu, khi có những tin đồn đầu tiên về 
chiến tranh”(2). 
Bên cạnh nhiều đánh giá khác của Giăccơ Đêrriđa về cuốn sách trên 
của Francis Fukuyama, thì những đánh giá sau đây của ông quả thật 
rất đáng lưu ý: “Nếu một luận thuyết kiểu như luận thuyết của 
Fukuyama đóng một cách có hiệu quả vai trò gây mơ hồ và vai trò 
phủ nhận sầu thảm gấp đôi mà người ta chờ đợi ở nó, thì nó đã làm 
một trò lừa gạt một cách khôn khéo đối với một số người này và thô 
bạo đối với một số người khác”(3). Hoặc: “Phải thừa nhận là quyển 
sách này mang sắc thái tinh vi hơn, đôi khi để lửng, thậm chí đến 
mức mập mờ...”(4). 
Nói cách khác, người ta không thể không nghi ngờ về tính khách 
quan và tính khoa học của cuốn sách trên của Fukuyama. 
Không ai có thể phủ nhận một sự thật là Liên Xô và khối Đông Âu 
xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ, chủ nghĩa xã hội đã bị một tổn thất hết 
sức nặng nề. Nhưng từ sự sụp đổ đó mà rút ra kết luận rằng, học 
thuyết của C.Mác đã chết, triết học Mác đã chết, chủ nghĩa cộng sản 
đã chết thì thật là một sự vui mừng quá sớm, là một sai lầm, nếu 
không muốn nói là do những động cơ không trong sáng, hay nặng 
hơn, là do sự thù ghét cay độc đối với C.Mác và các học thuyết của 
ông. 
Hãy khoan nói đến ở đây những nguyên nhân gây ra sự sụp đổ đó 
của Liên Xô và các nước Đông Âu với tính cách một mô hình, một 
kiểu chủ nghĩa xã hội đã được người đời sau thiết kế theo sự hiểu 
biết, sự giả định, một sự mong muốn chủ quan của mình nhưng lại 
mệnh danh, hoặc tưởng rằng, đã làm theo đúng chỉ dẫn của C.Mác, 
là xuất phát từ C.Mác, là trung thành tuyệt đối với C.Mác, bởi những 
nguyên nhân gây nên sự sụp đổ ấy thì có rất nhiều và cần phải được 
mổ xẻ trong một dịp khác. 
Trong dịp Kỷ niệm 190 năm Ngày sinh C.Mác (05/05/1818 – 
05/05/2008), chúng ta hãy chỉ đề cập một cách hết sức vắn tắt đến 
các học thuyết cơ bản của C.Mác, chẳng hạn như quan niệm duy vật 
về lịch sử hay học thuyết về giá trị thặng dư, chứ chưa nói đến rất 
nhiều những tư tưởng vượt thời đại khác của ông đã hợp thành chủ 
nghĩa mang tên ông, để có một cái nhìn thật sự khách quan, thật sự 
khoa học, thật sự tôn trọng C.Mác. 
Trước hết, chúng ta hãy nhớ lại một luận điểm nổi tiếng mà người 
tiền bối vĩ đại của C.Mác đã đưa ra trong lĩnh vực triết học, người đã 
được C.Mác cải tạo theo lối duy vật, đã kế thừa và vượt qua. Đó 
chính là luận điểm được Hêghen trình bày trong Những bài giảng về 
lịch sử triết học của ông. Hêghen viết: “Triết học hiện đại là kết quả 
của tất cả những nguyên lý có từ trước đó; như vậy, không có một hệ 
thống nào bị lật đổ, không phải nguyên lý của triết học đó bị lật đổ 
mà chỉ có sự giả định rằng, nguyên lý đó là định nghĩa tuyệt đối cuối 
cùng bị lật đổ mà thôi”(5). 
Câu nói đó của Hêghen hoàn toàn có thể vận dụng vào trường hợp 
của C.Mác. Điều đó có nghĩa là, một học thuyết, một hệ thống triết 
học hay một học thuyết xã hội nào đó, nếu là kết quả của sự tổng kết 
khoa học về lịch sử, là sự đúc rút từ các nguyên lý khoa học có từ 
trước đó mà không bị tuyệt đối hoá đến mức giáo điều, không bị làm 
cho khô cứng đi thì không bao giờ nó mất hết các giá trị, không bao 
giờ bị sụp đổ hoàn toàn. Điều đó cũng rất dễ hiểu. Không có một lý 
thuyết nào là tuyệt đối đúng cho mọi thời đại, trong mọi điều kiện 
lịch sử, bởi chân lý là một quá trình, chân lý nằm trong quá trình và 
việc đạt đến chân lý cũng là một quá trình. 
Các tư tưởng, các học thuyết của C.Mác về triết học, về xã hội, về 
kinh tế, về con người, về khoa học và kỹ thuật, v.v. vốn là kết quả 
của một sự nghiên cứu, phê phán, tiếp thu, vượt bỏ những thiên tài 
trước ông, tính từ thời Cổ đại cho đến tận L.Phoiơbắc; của sự khái 
quát lý luận và tổng kết thực tiễn cực kỳ sôi động thế giới lúc bấy 
giờ, và trên hết là sự sáng tạo tuyệt vời của một bộ óc thiên tài, của 
một trong những vĩ nhân vĩ đại nhất, có ảnh hưởng to lớn nhất trong 
mọi thời đại của nhân loại, như một cuộc thăm dò dư luận phương 
Tây cuối thế kỷ XX đã cho thấy. Những tiền đề xuất phát để C.Mác 
rút ra các kết luận lý luận “không phải là những tiền đề tuỳ tiện, 
không phải là giáo điều; đó là những tiền đề hiện thực mà người ta 
chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi... Những tiền đề ấy là có 
thể kiểm nghiệm được bằng con đường kinh nghiệm thuần tuý”(6). 
Do vậy, những tư tưởng và những học thuyết của C.Mác hoàn toàn 
và tuyệt nhiên không phải là những “ảo tưởng chủ quan”, không phải 
là “duy ý chí” như những người phê phán C.Mác đã cố tình gán 
ghép. 
Chúng ta đều biết rằng, do không thỏa mãn với các cách giải thích 
khác nhau của những người đi trước mình về lịch sử xã hội loài 
người, nên C.Mác đã kiên trì đi tìm và đã tìm ra “những điều bí ẩn 
của lịch sử”, “chủ thể của lịch sử” và “chìa khóa của lịch sử đích 
thực”. Với C.Mác, cái thúc đẩy sự vận động của lịch sử không phải 
là sức mạnh siêu tự nhiên, cũng không phải là những tư tưởng hay ý 
chí của con người, của các vĩ nhân, mà chính là sản xuất vật chất, là 
những lợi ích vật chất, còn chính quần chúng nhân dân mới là những 
người sáng tạo chân chính ra lịch sử của mình. Quan điểm mang tính 
chất nền tảng đó có quan hệ chặt chẽ với quan niệm về sự phát triển 
của lực lượng sản xuất và vai trò quyết định của lực lượng sản xuất 
đối với sự phát triển của mọi hình thái xã hội từ trước cho đến nay. 
Với C.Mác, không những các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau là 
một quá trình lịch sử - tự nhiên, mà sự thay thế các hình thái đó cũng 
là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Điều đó có nghĩa rằng, khi đã là 
một quá trình lịch sử - tự nhiên thì con người hoàn toàn có thể khám 
phá được, có thể nhận thức được, có thể nắm được và vận dụng được 
các quy luật vận động của nó. Và, C.Mác đã chứng minh điều đó 
một cách tài tình, vừa khoa học, vừa hết sức thuyết phục trong nhiều 
công trình, đặc biệt là trong bộ Tư bản - một công trình của suốt cả 
cuộc đời C.Mác, rằng hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, 
sớm hay muộn, tất yếu sẽ bị thay thế bằng một phương thức sản xuất 
tiên tiến hơn, phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, bởi sự phát 
triển của lực lượng sản xuất xã hội sẽ đến một lúc không còn có thể 
chứa đựng trong các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nữa. Đó là 
quy luật tất yếu của lịch sử. 
Tuy nhiên, khi khẳng định như vậy, C.Mác không hề xác định thời 
điểm cụ thể về sự thay thế đó hay về thời điểm diệt vong của chủ 
nghĩa tư bản. Đáng tiếc là những người lãnh đạo và các nhà lý luận 
đi sau C.Mác, do quá say sưa với thắng lợi và sự lớn mạnh một thời 
của chủ nghĩa xã hội trên quy mô thế giới, dường như muốn thúc 
đẩy nhanh “cái chết” đó của chủ nghĩa tư bản nên đã không đủ tỉnh 
táo để thấy rằng chính C.Mác, ngay trong Lời tựa viết cho lần xuất 
bản đầu tiên tập I bộ Tư bản, đã nhận ra rằng, xã hội tư bản “hoàn 
toàn không phải là một khối kết tinh vững chắc, mà là một cơ thể có 
khả năng biến đổi và luôn luôn ở trong quá trình biến đổi”(7). 
Rõ ràng, một xã hội, cũng như một cơ thể sống, khi còn có khả năng 
biến đổi và đang trong quá trình biến đổi thì có nghĩa là cơ thể đó 
còn có khả năng thích nghi, nó chưa thể chết ngay. Về điều này, 
C.Mác cũng đã từng nói rằng, “không một hình thái xã hội nào diệt 
vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội 
đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển, và những 
quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước 
khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín 
muồi trong lòng bản thân xã hội cũ. Cho nên, nhân loại bao giờ cũng 
chỉ đặt ra cho mình những nhiệm vụ mà nó có thể giải quyết được, vì 
khi xét kỹ hơn, bao giờ người ta cũng thấy rằng bản thân nhiệm vụ 
ấy chỉ nảy sinh khi những điều kiện vật chất để giải quyết nhiệm vụ 
đó đã có rồi, hay ít ra cũng đang ở trong quá trình hình thành”(8). 
Lịch sử nhân loại thế kỷ XX và hiện nay đã hoàn toàn xác nhận 
những chỉ dẫn hết sức tinh tường đó của CMác. 
Hệ thống tư bản chủ nghĩa hiện đại vẫn đang còn sức sống, đang thể 
hiện sức mạnh thực sự của nó ở những mặt nhất định và đang chi 
phối khá mạnh nền chính trị và kinh tế thế giới, chứ chưa phải đã 
đến lúc lịch sử của nó kết thúc. Hệ thống đó vẫn đang có khả năng 
thích nghi, tự điều chỉnh và tiếp tục phát triển. Không thể không thấy 
điều đó. Vậy, liệu có thể từ đó mà rút ra kết luận rằng, chủ nghĩa tư 
bản là vĩnh hằng, là bất tử, là tương lai duy nhất của nhân loại hay 
không? Không. Hoàn toàn không thể! Mọi sự biện hộ theo kiểu đó 
đều không có cơ sở. Chủ nghĩa tư bản toàn cầu hoá hiện nay mà 
C.Mác đã từng dự báo về sự ra đời của nó, với sức mạnh của nó và 
với cả những mâu thuẫn nội tại mà tự thân nó không thể nào giải 
quyết được, là bước chuẩn bị cho sự thay thế nó trong tương lai, tức 
là các điều kiện chuẩn bị cho sự thay thế đó đang trong quá trình 
hình thành ở ngay trong chính bản thân nó. Lịch sử không bao giờ 
ngừng lại, không bao giờ ngưng đọng. Biện chứng của lịch sử chính 
là như vậy và sẽ mãi mãi là như vậy. 
Những bí mật làm giàu của các nhà tư bản và sự bần cùng của người 
lao động cũng đã từng là một bí mật của lịch sử đã được chính C.Mác 
khám phá ra nhờ học thuyết về giá trị thặng dư. Việc phát hiện ra học 
thuyết này là “công lao lịch sử vĩ đại nhất lao động của Mác. Nó chiếu 
sáng rực rỡ lên những lĩnh vực kinh tế mà trước kia những nhà xã hội 
chủ nghĩa cũng mò mẫm trong bóng tối không kém gì những nhà kinh 
tế học tư sản. Chủ nghĩa xã hội khoa học bắt đầu từ ngày có giải đáp 
đó, và nó là điểm trung tâm của chủ nghĩa xã hội khoa học”(9). 
Ngày nay, nhân loại đang từng bước tiến vào kinh tế tri thức; tri thức 
đang chuyển hoá “thành lực lượng sản xuất trực tiếp”(10) như 
C.Mác đã từng tiên đoán. Sự kiện nhân loại bước vào kinh tế tri thức 
này lại cũng là lý do để cho một số người, cả ở nước ta lẫn nước 
ngoài, ngộ nhận rằng, kinh tế tư bản và các nhà tư bản đã thay đổi về 
bản chất, không còn bóc lột người lao động, không tìm kiếm giá trị 
thặng dư như khi C.Mác viết bộ Tư bản nữa. Theo họ, sức lao động 
của con người ngày nay chủ yếu đã được chuyển sang cho các máy 
móc cực kỳ tinh vi với hiệu suất rất cao. Tỷ lệ giá trị của lao động 
sống không thể so với giá trị do máy móc làm ra, do đó, theo họ, 
máy móc hiện đại mới là cái sản xuất ra giá trị thặng dư, nghĩa là 
nhà tư bản bây giờ chỉ còn bóc lột máy móc chứ không phải bóc lột 
công nhân! 
Thật ra, như C.Mác đã từng nói: “... Những máy móc có một sức 
mạnh kỳ diệu trong việc giảm bớt lao động của con người và làm 
cho lao động của con người có kết quả hơn, thì lại đem nạn đói và 
tình trạng kiệt quệ đến cho con người. Những nguồn của cải mới, từ 
xưa tới nay chưa ai biết, dường như do một sức mạnh thần kỳ nào đó 
lại đang biến thành nguồn gốc của sự nghèo khổ”(11). Nhận xét đó 
của C.Mác vẫn rất đúng trong điều kiện hiện nay. Máy móc, dù có 
hiện đại đến đâu chăng nữa, cũng vẫn không thể thiếu được sức lao 
động của con người. Hơn thế nữa, máy móc càng hiện đại, càng tạo 
ra nhiều sản phẩm hơn, các sản phẩm càng có hàm lượng tri thức 
nhiều hơn thì lại càng đòi hỏi chất lượng lao động cao hơn, tri thức 
nhiều hơn, do đó, càng không thể thiếu được công nhân tri thức. 
Nghĩa là, sản xuất, dù hiện đại đến đâu, cũng không thể thiếu được 
sức lao động của con người, của người công nhân, của kỹ sư, của 
nhà khoa học, tức là không thể thiếu được lao động sống. Vậy, nhà 
tư bản lấy lợi nhuận ở đâu, có chiếm đoạt giá trị thặng dư ở đây 
không? Chắc chắn không khó để trả lời. 
Chính C.Mác đã chỉ rõ rằng, sự sản xuất ra giá trị thặng dư là quy 
luật tuyệt đối của sản xuất tư bản chủ nghĩa; không có lợi nhuận thì 
không một nhà tư bản nào chịu bỏ vốn để sản xuất, kinh doanh, mà 
“lợi nhuận chỉ là hình thái thứ sinh, phái sinh và được biến đổi của 
giá trị thặng dư, là hình thái tư sản trong đó đã xoá hết những nguồn 
gốc của nó”(12). 
Dường như có người đã không biết, hoặc đã cố tình quên đi sự luận 
chứng rất quan trọng và khoa học này của C.Mác về mối quan hệ 
giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư. Rõ ràng là, trong thời đại hiện 
nay, hình thức bóc lột có thay đổi, đã trở nên khó nhận biết hơn, tinh 
vi hơn và khác hơn so với thời của C.Mác, nhưng bản chất bóc lột của 
tư bản thì không khác. Đó chính là nguồn gốc, là nguyên nhân dẫn 
đến hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo, giữa những nước 
giàu và những nước nghèo hiện nay trên thế giới, kể cả ở các nước tư 
bản phát triển nhất, đang ngày một doãng ra với tốc độ ngày càng 
nhanh hơn. 
Từ hai vấn đề quan trọng trên, có thể nói rằng, những học thuyết quan 
trọng của C.Mác không hề lỗi thời, nếu chúng không bị tuyệt đối hoá, 
nếu như nghiên cứu và vận dụng chúng theo tinh thần biện chứng chứ 
không phải một cách giáo điều, xơ cứng. 
Điều này không chỉ chúng ta nói và tin, mà ngay cả nhiều nhà triết 
học phương Tây nổi tiếng cũng tin như vậy. Và, chắc lòng tin đó của 
họ không thể coi là xuất phát từ hệ tư tưởng, mà chính là từ những 
sự trải nghiệm, sự phân tích thực tiễn và sự tổng kết lý luận của 
chính họ. 
Giăccơ Đêrriđa, trong Những bóng ma của Mác đã dẫn ra ở trên, khi 
thừa nhận rằng, “tất cả mọi người trên toàn trái đất này, dù họ muốn, 
họ biết hay là không, đều là những người kế thừa của Mác và chủ 
nghĩa Mác với một mức độ nhất định”, đã khẳng định: “Luôn luôn sẽ 
là một sai lầm, nếu không đọc đi đọc lại và tranh luận những tác 
phẩm của Mác... Đó sẽ càng ngày càng là một sai lầm, một sự thiếu 
trách nhiệm về mặt lý luận, triết học và chính trị... Sẽ không có 
tương lai khi không có trách nhiệm đó. Không có nếu không có Mác; 
không có tương lai mà lại không có Mác. Nếu không có ký ức về 
Mác và không có di sản của Mác”(13). 
Chủ nghĩa Mác không chết, chủ nghĩa cộng sản được xây dựng dựa 
trên các học thuyết chân chính của C.Mác không chết như một số 
người từng tuyên bố. C.Mác vẫn sống với nhân loại không chỉ ở thế 
kỷ XXI, bởi những di sản của C.Mác đã trở thành tài sản chung của 
cả nhân loại và sẽ mãi mãi là như vậy; bởi như Michel Vadée - nhà 
triết học, thành viên của Trung tâm nghiên cứu và tư liệu về Hêghen 
và Mác thuộc Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp, đã 
nhận định rằng, “tư tưởng của Mác đã “được biết đến nhiều”: nó đã 
cắm sâu vào thế giới”(14).r 
(*) Giáo sư, tiến sĩ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. 
(1) Fukuyama Francis. The End of History and the Last Man. New 
York: Free Press 1992. 
(2) Giăccơ Đêrriđa. Những bóng ma của Mác. Nxb Chính trị Quốc 
gia và Tổng cục II Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 1994, tr.149. 
(3) Giăccơ Đêrriđa. Sđd., tr.151. 
(4) Giăccơ Đêrriđa. Sđd., tr.126. 
(5) Гегел. Сочинение, т. IХ. Москва, 1932, с. 40 (Hêghen. Tác 
phẩm, t.IX. Mátxcơva, 1932, tr. 40). 
(6) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, 
Hà Nội, 1995, tr.28-29. 
(7) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.23, tr.22. 
(8) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.13, tr.15-16. 
(9) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.20, tr.286. 
(10) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.46, phần II, tr.372. 
(11) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.12, tr.10. 
(12) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.46, phần II, tr.160. 
(13) Giăccơ Đêrriđa. Những bóng ma của Mác. Sđd., tr.190 - 191, 
42. 
(14) Michel Vadée. Marx nhà tư tưởng của cái có thể, t.I. Viện 
Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội, 1996, tr.1. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 triet_hoc_4__5641.pdf triet_hoc_4__5641.pdf