Bánh canh không chỉ là món ăn rất quen thuộc với người Việt Nam và đã trở thành 
một đặc sản mang nét ẩm thực riêng của mỗi vùng gắn liền với những thương hiệu 
nổi tiếng như bánh canh Nam Phổ, bánh canh Trảng Bàng, bánh canh Vĩnh 
Trung, Điểm làm nên sự khác biệt giữa các loại bánh canh trước tiên là ở 
nguyên liệu làm nên sợi bánh canh, ở phương pháp sản xuất và sự đa dạng của các 
nguyên liệu dùng để nấu nước lèo (hay còn gọi là nước dùng) góp phần tạo nên 
hương vị đặc trưng cho mỗi loại.
              
                                            
                                
            
 
            
                 11 trang
11 trang | 
Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1593 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Các sản phẩm làm từ nguyên liệu gạo -Bánh canh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các sản phẩm làm từ nguyên liệu gạo - BÁNH 
CANH 
1. Giới thiệu 
Bánh canh không chỉ là món ăn rất quen thuộc với người Việt Nam và đã trở thành 
một đặc sản mang nét ẩm thực riêng của mỗi vùng gắn liền với những thương hiệu 
nổi tiếng như bánh canh Nam Phổ, bánh canh Trảng Bàng, bánh canh Vĩnh 
Trung,… Điểm làm nên sự khác biệt giữa các loại bánh canh trước tiên là ở 
nguyên liệu làm nên sợi bánh canh, ở phương pháp sản xuất và sự đa dạng của các 
nguyên liệu dùng để nấu nước lèo (hay còn gọi là nước dùng) góp phần tạo nên 
hương vị đặc trưng cho mỗi loại. 
Bánh canh Nam Phổ được làm từ loại gạo thơm, dẻo, trắng tinh, đem xay, nhào 
bột, rồi xắt thành con nhỏ và được nấu với tôm hoặc cua giã nhỏ, bỏ thêm gia vị 
như: bột canh, hành, ớt, … pha thêm chút bột màu, ăn vào nhẹ bụng, mùi vị ngon 
và đậm đà hương vị đồng quê. 
 Nghề làm bánh canh ở Trảng Bàng là nghề truyền thống gia đình có từ hơn 100 
năm nay. Sợi bánh canh trắng muốt, mềm mại, dẻo thơm tinh chế từ loại gạo thơm 
đặc trưng, được chần nước sôi cho mềm rồi trút vào tô, rải đều trên bề mặt mấy lát 
thịt heo ba rọi luộc vừa chín tới, thêm một miếng giò, nêm gia vị, hành lá, hạt tiêu 
xay vừa đủ, rưới nước mắm ngon nguyên chất cá cơm và chan ngập nước “lèo”. 
Tô bánh canh nóng, thơm phức mùi xương, mùi thịt, mùi mỡ béo, mùi gia vị, đi 
kèm tô bánh canh là dĩa giá sống, chén nước mắm mặn, chanh ớt thái miếng. 
Bánh canh Vĩnh Trung của người dân tộc Khơ-me vùng Bảy Núi An Giang lại là 
sự kết hợp giữa cá lóc đồng và sợi bánh canh nhỏ, mềm và dai được làm từ loại 
gạo sóc của người Khơ-me tạo nên một hương vị rất đặc sắc, tạo cho thực khách 
cảm giác khó quên khi thưởng thức. 
Ngoài ra còn có bánh canh cá lóc Huế, bánh canh đầu cá chợ Đồn, bánh canh Bến 
Có (Trà Vinh) rất nổi tiếng ở Việt Nam. 
2. Quy trình sản xuất 
 3. Giải thích quy trình 
Nguyên liệu: cơ sở sinh hóa của việc sản xuất bánh canh là nhờ vào khả năng tạo 
sợi của các hạt tinh bột sau khi được giải phóng và hồ hóa. Thành phần chính của 
tinh bột gạo là amylose và amylopectin. Chính 2 thành phần này sẽ tạo thành gel 
tinh bột ở một nồng độ nhất định khi được gia nhiệt và làm nguội. Gel tinh bột từ 
amylose thường cứng và đàn hồi kém còn amylopectin tuy khó tạo gel ở nồng độ 
thấp nhưng gel amylopectin trong, dính và có độ nhớt cao. Do đó, nếu bánh canh 
được làm hoàn toàn từ bột gạo thì sợi bánh sẽ đục, bở, nhưng nếu bánh được làm 
từ bột năng (chứa chủ yếu là amylopectin) thì sợi bánh sẽ dai, dẻo và trong, ta 
cũng có thể pha thêm bột năng 
vào bột gạo theo tỷ lệ 50g bột 
năng/1kg bột gạo. 
Sợi bánh ngon cần đảm bảo 
đầy đủ các chỉ tiêu cảm quan 
về màu sắc, mùi vị và cấu trúc, 
vì vậy nguyên liệu gạo để làm 
bánh thường được chọn từ các 
loại gạo đặc sản của từng vùng 
để tạo nên hương vị riêng cho 
sợi bánh, đồng thời phải chọn loại gạo trắng, không bị vàng, không có mọt và mùi 
mốc. 
Ngâm gạo: gạo trước khi ngâm được vo để làm sạch các chất bẩn bám bên ngoài 
hạt cũng như làm sạch các tạp chất. Trong quá trình ngâm, nước sẽ ngấm vào bên 
trong hạt gạo, làm yếu liên kết giữa các hạt tinh bột do đó hạt gạo trương lên và 
mềm hơn giúp quá trình xay dễ dàng. Thời gian ngâm phải đảm bảo sao cho các 
hạt gạo hút đủ nước, thông thường là qua một đêm với lượng nước ngâm gấp 2 lần 
thể tích gạo. Nếu thời gian ngâm ngắn hay lượng nước ngâm ít thì hạt gạo chưa 
hút đủ nước, nhưng nếu thời gian ngâm quá dài sẽ tạo điều kiện cho vi khuẩn lên 
men lactic làm chua nước ngâm do đó ảnh hưởng không tốt đến chất lượng bánh 
sau này. Có thể bổ sung một ít muối vào nước ngâm để hạn chế vi khuẩn lên men 
chua, đồng thời muối ở nồng độ thấp còn có tác dụng làm tăng khả năng hòa tan 
của tinh bột. 
Xay: Quá trình xay nhằm sử dụng lực cơ học để phá vỡ cấu trúc hạt gạo, giải 
phóng các hạt tinh bột giúp cho quá trình hồ hóa dễ dàng và ít tốn năng lượng hơn. 
Có thể sử dụng máy nghiền trong quy mô công nghiệp hoặc sử dụng cối đá theo 
phương pháp thủ công để xay gạo với một muỗng gạo cho vào cối xay, ta bổ sung 
một muỗng nước (tức tỷ lệ gạo : nước là 1:1) để giúp cho quá trình xay dễ thực 
hiện, giảm bớt nhiệt độ và ma sát của cối, đồng thời giúp các hạt tinh bột được giải 
phóng ra dễ dàng hòa tan vào nước. Công đoạn xay đạt hiệu quả khi bột tạo ra 
nhuyễn, mịn và không làm biến màu bột. 
Tách nước: trong quá trình xay ta bổ sung một lượng lớn nước nên khối bột sau 
khi xay có dạng dung dịch loãng, do đó cần được tách bớt nước để làm tăng nồng 
độ các hạt tinh bột sao cho đủ tạo gel bằng cách cho vào túi vải, buột chặt miệng 
túi và ép bằng một vật nặng hoặc lắng bột và gạn bỏ phần nước trong. Tuy nhiên 
thời gian tách nước không nên quá lâu vì sẽ làm chua khối bột. 
 Nhào trộn: công đoạn nhào trộn có thể tiến hành bằng cách cho một ít nước sôi 
vào giữa khối bột và nhào trộn đều tay, liên tục đến khi khối bột trở nên đồng nhất 
mịn và dẻo. Ở một số nơi bột được quết hoặc giã bằng chày thay cho công đoạn 
nhào hoặc có thể sử dụng máy nhào bột. Quá trình này nhằm tác dụng các lực cơ 
học để sắp xếp lại các hạt tinh bột làm chúng liên kết chặt chẽ với nhau giúp dễ tạo 
hình cho sợi bánh sau này. Nước sôi cho vào có tác dụng làm tăng nhiệt độ của 
khối bột và hồ hóa sơ bộ một phần khối bột, lượng nước thêm vào sẽ tùy thuộc 
vào yêu cầu về độ đặc của khối bột khi tạo hình. Có thể cho thêm một ít muối để 
tạo vị cho sợi bánh. 
 Tạo hình: việc tạo hình sợi bánh có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau 
nhưng chủ yếu thuộc 2 nhóm sau: 
 Sử dụng khuôn: khối bột sau khi nhào trộn được cho qua khuôn bánh hình 
trụ tròn hoặc hình hộp chữ nhật, đáy khuôn có đục nhiều lỗ nhỏ đường kính 
thường từ 3-5 mm, sau đó sử dụng lực ép để ép khối bột trong khuôn thành sợi dài 
khi ra khỏi khuôn. Tác dụng tạo hình là nhờ các phân tử tinh bột tự định hướng, 
kéo căng ra và sắp xếp song song với nhau theo phương của trọng lực. 
 Không sử dụng khuôn: phương pháp này yêu cầu bột có độ đặc hơn. Khối 
bột được cán thành lớp mỏng (khoảng 3 – 5 mm) bằng cây cán bột hoặc thanh 
inox dài, sau đó dùng dao cắt thành từng sợi nhỏ bề rộng khoảng 5mm, khi đó sợi 
bánh không tròn mà dẹt, vuông. 
Ngoài ra, bánh canh còn có thể được làm bằng cách cho một ít bột nhào vào lòng 
bàn tay và dùng tay xe thành sợi dài. 
Gia nhiệt, làm lạnh: 
Sợi bánh canh sau khi tạo hình lập tức được cho qua nước sôi nhằm sử dụng tác 
dụng của nhiệt giúp định hình cho sợi bánh. Đây là quá trình hồ hóa các hạt tinh 
bột để chúng liên kết chặt chẽ với nhau hơn, đồng thời làm chín bánh. Nên sử 
dụng lửa nhỏ và khuấy nhẹ tay để tráng làm nát bánh, lượng bánh cho vào nồi 
không nên quá nhiều mà nên cho thành từng mẻ. 
 Khi sợi bánh chín được vớt ra và cho vào nước lạnh để các mạch tinh bột sắp xếp 
lại cấu trúc và làm tăng sự liên kết giữa các phân tử tinh bột trong sợi bánh làm 
tăng độ bền cơ học của sợi bánh. Khi hạ nhiệt độ cũng làm cho các mạch phân tử 
tinh bột kết tinh góp phần tạo độ bền cơ học cho bánh. 
Về nguyên tắc, các công đoạn sản xuất bánh canh giống nhau nhưng ở mỗi nơi lại 
sử dụng những thao tác khác nhau, chẳng hạn như đối với bánh canh Nam Phổ thì 
sợi bánh sau khi định hình bằng cách cán mỏng và cắt sợi được cho ngay vào nồi 
nước dùng mà không trụng qua nước sôi, do đó tô bánh canh đục và sệt hơn. 
Nước dùng của bánh canh thường được nấu từ các sản vật của địa phương: bánh 
canh miền Bắc thường sử dụng nguyên liệu tôm và chả, các vùng ven biển thường 
sử dụng cá thu, cá mối, cá rựa… còn ở miền Nam thường sử dụng thịt heo, giò, cá 
lóc,…Các nguyên liệu được nấu nhừ với nước, nêm nếm gia vị vừa ăn, chan vào 
tô ngập phần bánh canh, rắc thêm ngò, tiêu hay tỏi chấy vàng. 
4. Giá trị dinh dưỡng 
Bánh canh được làm hoàn toàn từ nguyên liệu bột nên thành phần dinh dưỡng là: 
Thành phần bánh canh (tính 
trên 100g thực phẩm) 
Lượng 
Năng lượng 110 kcal 
Protein 1,7 g 
Cacbohydrat 25,7 g 
Chất xơ 0,5 g 
Canxi 12 mg 
Phospho 32 mg 
Sắt 0,2 mg 
Vitamin B1 0,04 mg 
Nguồn: Bảng thành phần dinh dưỡng các thức ăn Việt Nam 
Tuy thành phần sợi bánh chủ yếu là tinh bột gạo nhưng bánh canh thường được ăn 
chung với nước dùng nấu từ nhiều loại nguyên liệu thịt động vật như: tôm, cua, cá, 
giò heo,… Do đó, tô bánh canh không chỉ cung cấp một lượng lớn cacbohydrat – 
thành phần tạo năng lượng cho cơ thể hoạt động mà còn chứa một lượng đáng kể 
protid, lipid để đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng cho con người. 
 Bánh canh có thể được dùng như món điểm tâm, món ăn khuya hay một bữa ăn 
chính trong ngày. Cùng với sự phát triển của ngành công nghệ thực phẩm thì ngày 
nay bánh canh đã và đang có tiềm năng trở thành một sản phẩm công nghiệp phục 
vụ cho nhu cầu người tiêu dùng trong và ngoài nước. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 am_thuc_3_224.pdf am_thuc_3_224.pdf