Đặt vấn đề: Can thiệp nội soi (CTNS) giúp giảm nguy cơ chảy máu tái phát và phẫu thuật ở bệnh nhân
xuất huyết tiêu hoá trên không do tăng áp tĩnh mạch cửa (XHTHTKTAC). Tuy nhiên, khả năng CTNS hiện tại
vẫn còn tập trung ở một số bệnh viện lớn. Nhận diện các đối tượng cần CTNS để phân tầng bệnh nhân giúp
chuyển viện điều trị hợp lý, an toàn cho bệnh nhân nhưng tránh được quá tải ở tuyến lớn.
Mục tiêu: Xác định khả năng tiên đoán tổn thương có nguy cơ cao trên nội soi (đồng nghĩa với cần được
CTNS) của thang điểm Rockall lâm sàng, Blatchford và bảng kiểm Blatchford tinh giản.
Phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên bệnh nhân XHTHTKTAC tại bệnh viện Nhân Dân Gia
Định từ 01/2011 đến 12/2012.
Kết quả: 33,7% (118/350) bệnh nhân trong nghiên cứu có tổn thương nội soi nguy cơ cao cần CTNS.
Diện tích dưới đường cong ROC của thang điểm Rockall lâm sàng là 0,52, thấp hơn so với thang điểm
Blatchford là 0,66. Giá trị tiên đoán dương (GTTĐ(+)) và âm (GTTĐ(‐)) của thang điểm Blatchford trong
chẩn đoán khả năng CTNS ở điểm cắt bằng 8 lần lượt là 42,3% và 82,1%; của bảng kiểm Blatchford tinh
giản lần lượt là 36,1% và 87%.
              
            Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 584
CÁC YẾU TỐ DỰ ĐOÁN TỔN THƯƠNG TRÊN NỘI SOI CÓ NGUY CƠ CAO 
TRONG XUẤT HUYẾT TIÊU HÓA TRÊN  
KHÔNG DO TĂNG ÁP TĨNH MẠCH CỬA 
Huỳnh Nguyễn Đăng Trọng*, Quách Trọng Đức* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Can thiệp nội soi (CTNS) giúp giảm nguy cơ chảy máu tái phát và phẫu thuật ở bệnh nhân 
xuất huyết tiêu hoá trên không do tăng áp tĩnh mạch cửa (XHTHTKTAC). Tuy nhiên, khả năng CTNS hiện tại 
vẫn còn tập trung ở một số bệnh viện lớn. Nhận diện các đối tượng cần CTNS để phân tầng bệnh nhân giúp 
chuyển viện điều trị hợp lý, an toàn cho bệnh nhân nhưng tránh được quá tải ở tuyến lớn.  
Mục tiêu: Xác định khả năng tiên đoán tổn thương có nguy cơ cao trên nội soi (đồng nghĩa với cần được 
CTNS) của thang điểm Rockall lâm sàng, Blatchford và bảng kiểm Blatchford tinh giản.  
Phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên bệnh nhân XHTHTKTAC tại bệnh viện Nhân Dân Gia 
Định từ 01/2011 đến 12/2012.  
Kết quả: 33,7% (118/350) bệnh nhân trong nghiên cứu có tổn thương nội soi nguy cơ cao cần CTNS. 
Diện  tích dưới  đường  cong ROC  của  thang  điểm Rockall  lâm  sàng  là 0,52,  thấp hơn  so với  thang  điểm 
Blatchford là 0,66. Giá trị tiên đoán dương (GTTĐ(+)) và âm (GTTĐ(‐)) của thang điểm Blatchford trong 
chẩn đoán khả năng CTNS ở điểm cắt bằng 8 lần lượt là 42,3% và 82,1%; của bảng kiểm Blatchford tinh 
giản lần lượt là 36,1% và 87%.  
Kết luận: Thang điểm Blachford dự đoán tổn thương nội soi nguy cơ cao cần CTNS tốt hơn so với thang 
điểm Rockall lâm sàng. Bảng kiểm Blatchford tinh giản giúp sàng lọc nhanh bệnh nhân cần CTNS.  
Từ khoá: Xuất huyết tiêu hóa, thang điểm Rockall lâm sàng, thang điểm Blatchford, bảng kiểm Blatchford 
tinh giản. 
ABSTRACT 
PREDICTING FACTORS FOR HIGH‐RISK ENDOSCOPIC LESIONS  
IN ACUTE UPPER NON‐VARICEAL GASTROINTESTINAL BLEEDING 
Huynh Nguyen Dang Trong, Quach Trong Duc  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 584 ‐ 588 
Background: Endoscopic treatments for high‐risk lesions have been proved to reduce the rates of rebleeding 
and surgery in patients with upper non‐variceal gastrointestinal bleeding (UNGIB). However, these treatments 
up to now are only available in tertiary hospitals in Vietnam which are usually overloaded. Identifying predicting 
factors  of  high‐risk  endoscopic  lesions,  therefore, would  help  to  properly  stratify  and  transfer  patients with 
UNGIB to tertiary hospitals. 
Aim:  To  evaluate  the  performance  of  the  Blatchford,  pre‐endoscopic  Rockall  scores  and  the  simplified 
Blatchford procedure in predicting in predicting high‐risk endoscopic lesions in patients with UNGIB. 
Method: This  is  a  retrospective  cohort  study  investigating patients with UNGIB who were  admitted  to 
Nhan‐Dan‐Gia‐Dinh hospital from 01/2011 to 12/2012.  
Results: Of  the  350  patients,  118  (33.7%)  had  high‐risk  endoscopic  lesions which  required  endoscopic 
* Bộ môn Nội, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh  
Tác giả liên lạc: TS. Quách Trọng Đức    ĐT: 0918080225.     Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Tiêu Hóa 585
treatments. Area  under  the  curve  (AUC)  of  the  receiver‐operating  characteristic  curve  of  the  pre‐endoscopic 
Rockall  score  and  the  Blatchford were  0.52  and  0.66,  respectively.  The  positive  predictive  value  (PPV)  and 
negative  predictive  value  (NPV)  of  the  Blatchford  score  at  the  cut‐off  point  of  8  were  42.3%  and  82.1%, 
respectively. The PPV and NPV of the simplified Blatchford procedure were 36.1% and 87%, respectively. 
Conclusion: The Blatchford score predict high‐risk endoscopic lesions better than the pre‐endoscopic Rockall 
score. The simplified Blatchford procedure is a fast risk‐screening tool for these lesions.  
Key words: Gastrointestinal bleeding, pre‐endoscopic Rockall score, Blatchford score, simplified Blatchford 
procedure. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
  Xuất huyết  tiêu hóa  trên không do  tăng 
áp  tĩnh mạch  cửa  (XHTHTKTAC)  là một  cấp 
cứu  thường  gặp  và  nguy  hiểm.  Điều  trị  can 
thiệp cầm máu qua nội soi (CTNS) là một bước 
tiến quan trọng trong xử trí XHTHTKTAC, giúp 
làm giảm đáng kể nguy cơ chảy máu tái phát và 
phẫu  thuật(5). Ở nước  ta, do CTNS hầu hết vẫn 
còn tập trung ở một số bệnh viện lớn, việc nhận 
diện  các  trường  hợp  XHTHTKTAC  có  tổn 
thương nguy cơ cao trên nội soi (đồng nghĩa với 
việc  cần CTNS)  có ý nghĩa  thực  tiễn  rất  lớn vì 
giúp  việc  phân  tuyến  điều  trị  tốt  hơn,  tránh 
chuyển viện các trường hợp không cần thiết gây 
quá  tải  ở  tuyến  trên  trong  khi  còn hiện  tượng 
trống  giường  điều  trị  ở  tuyến  dưới.  Một  số 
nghiên  cứu  trong nước  trước  đây  đã  đánh giá 
vai trò của thang điểm Rockall và Blatchford về 
khả năng  cần  can  thiệp y khoa  (CTNS,  truyền 
máu hoặc phẫu thuật)(2,6), tuy nhiên còn ít nghiên 
đề cập cụ thể về khả năng tiên đoán cần CTNS. 
Ngoài  ra, các nghiên cứu  trước đây không  loại 
trừ các đối tượng bệnh nhân đã được điều trị bồi 
hoàn thể tích ở tuyến trước, cũng như các bệnh 
nhân có  tiền  sử xuất huyết  tiêu hóa. Do mạch, 
huyết  áp và hemoglobin  của bệnh nhân  là  các 
thành  tố  quan  trọng  của  các  thang  điểm  nêu 
trên, việc không  loại  trừ  các bệnh nhân này  ra 
nghiên cứu tiềm ẩn nguy cơ làm ảnh hưởng đến 
giá trị thực sự của các thang điểm này..  
Bảng kiểm Blatchford tinh giản là một công 
cụ phát triển từ thang điểm Blatchford; theo đó 
bệnh  nhân  được  xem  là  có  nguy  cơ  thấp  nếu 
đồng thời có cả 4 đặc điểm: mạch<100 lần/phút, 
huyết  áp  tâm  thu  >110 mmHg,  urê máu  <  6,5 
mmol/L  và  Hemoglobin  >  12g%  (nữ)  hoặc  > 
13g%  (nam)(1).  Hiện  cũng  chưa  có  công  trình 
trong nước nào đánh giá giá  trị của bảng kiểm 
tuy  đơn giản nhưng  được  đề  xướng  có  giá  trị 
sàng lọc bệnh nhân có nguy cơ cao này. Nghiên 
cứu này  được  tiến hành nhằm xác  định giá  trị 
tiên  đoán  tổn  thương  nội  soi  có  nguy  cơ  cao 
(đồng  nghĩa  với  có  chỉ  định  cần  CTNS)  của 
thang  điểm  Rockall  lâm  sàng,  thang  điểm 
Blatchford và bảng kiểm Blatchford tinh giản. 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng 
Bệnh  nhân XHTHTKTAC  được  chẩn  đoán 
tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ 01/2011 đến 
12/2012 thoả các tiêu chuẩn sau: 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Bệnh  nhân  được  chẩn  đoán XHTHTKTAC 
và được nội soi tiêu hóa trên ≤ 24 giờ sau nhập 
viện. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân đã được hồi sức bằng dịch truyền 
và / hoặc máu ở tuyến trước. 
Bệnh nhân có tiền sử XHTH. 
Thiết kế nghiên cứu 
Đoàn hệ hồi cứu. 
Cỡ mẫu: N=  = =346. 
Với  = 90% là độ nhạy ước tính của bảng 
kiểm Blatchford tinh giản, w=5% là mức độ dao 
động của độ nhạy,   40% là tỉ lệ bệnh nhân 
XHTHT cần CTNS. 
Phân tích thống kê 
Số  liệu được quản  lý bằng phần mềm SPSS 
18 (SPSS Inc, Chicago, Il). Các mối liên hệ được 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 586
kiểm định bằng phép kiểm χ² với p<0,05  được 
xem là có ý nghĩa thống kê. 
KẾT QUẢ 
Từ 01/2011 đến 12/2012, chúng tôi ghi nhận 
350 trường hợp XHTHTKTAC thoả tiêu chuẩn 
chọn bệnh với tuổi trung bình là 50,8 ± 19,6 và 
tỉ  lệ  nam/nữ  là  2,4/1.  Có  119  (56,9%)  trường 
hợp cần can thiệp y khoa, trong đó 33,7% cần 
CTNS,  39,1%  cần  truyền  máu  và  2,6%  cần 
phẫu  thuật. Phân bố về  tỉ  lệ các nguyên nhân 
gây  xuất huyết  và  đặc  điểm phân  bố  loét dạ 
dày  –  tá  tràng  theo  phân  loại  Forrest  được 
trình bày ở biểu đồ 1 và 2.  
Biểu đồ 1: Phân bố nguyên nhân gây XHTHTKTAC 
Biểu đồ 2: Phân bố loét dạ dày ‐ tá tràng xuất huyết 
theo phân loại Forrest 
Phân  bố  tỉ  lệ  cần  CTNS  theo  tổng  điểm 
Rockall  lâm  sàng  và  thang  điểm  Blatchford 
được trình bảy ở biểu đồ 3 và 4. Diện tích dưới 
đường  cong  của  các  thang  điểm Rockall  lâm 
sàng và Blatchford trong chẩn đoán các trường 
hợp cần CTNS lần lượt là 0,52 (KTC 95%: 0,46‐
0,59)  và  0,66  (KTC  95%:  0,60‐0,71).  Dưạ  vào 
đường cong ROC và chỉ số Youden, chúng tôi 
chọn  điểm  cắt  của  thang  điểm  Blatchford  để 
xác định khả năng cần CTNS  là 8. Giá  trị của 
thang điểm Blatchford ở điểm cắt là 8 và bảng 
kiểm  Blatchford  tinh  giản  được  trình  bảy  ở 
bảng 1 và 2.  
Biểu đồ 3: Phân bố tỉ lệ bệnh nhân cần CTNS theo 
tổng điểm Rockall lâm sàng 
Biểu đồ 4: Phân bố tỉ lệ bệnh nhân cần CTNS theo 
tổng điểm Blatchford 
Bảng 1: Giá trị của thang điểm Blatchford trong tiên 
đoán CTNS 
 CTNS 
Tổng 
Có Không 
Blatchford ≥8 96 131 227 
Blatchford <8 22 101 123 
Tổng 118 232 350 
Độ  nhạy:  81,4%  (96/118),  độ  chuyên  biệt: 
43,5%  (101/232),  giá  trị  tiên  đoán  dương 
(GTTĐ(+)): 42,3% (96/227) và giá trị tiên đoán âm 
(GTTĐ (‐)): 82,1% (101/123). 
Bảng 2: Giá trị của bảng kiểm Blatchford tinh giản 
trong tiên đoán CTNS 
 CTNS Tổng 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Tiêu Hóa 587
Có Không 
Nguy cơ cao 115 212 327 
Nguy cơ thấp 3 20 23 
Tổng 118 232 350 
Độ  nhạy:  97,5%  (115/118),  độ  chuyên  biệt: 
8,6%  (20/232),  GTTĐ  (+):  36,1%  (115/327)  và 
GTTĐ (‐): 87% (20/23). 
BÀN LUẬN 
Nhóm  bệnh  nhân  trong  nghiên  cứu  của 
chúng  tôi  cũng  có  độ  tuổi  tương  đồng  và  có 
nguyên nhân gây xuất huyết hàng đầu cũng  là 
loét tá tràng tương tự như các nghiên cứu trước 
đây(2,3,6). Nghiên cứu này cũng cho  thấy có đến 
hơn phân nữa số trường hợp XHTHTKTAC cần 
phải can  thiệp y khoa với 33,7% có  tổn  thương 
nguy  cơ  cao  trên nội  soi  cần  được CTNS. Các 
nghiên cứu trong nước trước đây cũng cho thấy 
kết quả  tương  tự  (bảng 3). Việc điều  trị ức chế 
tiết acid mạnh ở  liều cao đường  tình mạch khi 
không thể tiến hành nội soi sớm trong vùng 24 
giờ  được  chứng  minh  là  làm  giảm  tỉ  lệ  tổn 
thương  nguy  cơ  cao  trên  nội  soi  có  chỉ  định 
CTNS(5). Tuy nhiên chúng tôi không ghi nhận sự 
khác biệt về tỉ lệ này khi so sánh với hai nghiên 
cứu đã đề cập trên dù đã chọn lọc các bệnh nhân 
được nội soi sớm  trong vòng 24 giờ sau nhập 
viện. Một  lý do  có  thể góp phần  lý giải  điều 
này  là do phần  lớn bệnh nhân XHTHTKTAC 
đến BV 115 và BV NDGĐ được  thực hiện nội 
soi khá sớm.  
Bảng 3: So sánh tỉ lệ cần can thiệp y khoa giữa các 
nghiên cứu trong nước 
 Trần Kinh Thành(6) 
Đào Xuân 
Lãm(2) Chúng tôi
Can thiệp y khoa - 59,5% 56,9% 
CTNS 30% 42,4% 33,7% 
Truyền máu 45,1% 41% 39,1% 
Phẫu thuật 2% 1% 2,6% 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tần suất các 
nguyên  nhân  gây  XHTHTKTAC  không  khác 
biệt gì  so với các nghiên cứu  trong nước  trước 
đây, với nguyên nhân  thường gặp nhất vẫn  là 
loét tá tràng. Về khả năng nhận diện các trường 
hợp có tổn thương nguy cơ cao trên nội soi cần 
CTNS, kết quả từ biểu đồ 3 cho thấy ngay cả đối 
với  các  trường  hợp  có  điểm Rockall  lâm  sàng 
bằng  0  thì  vẫn  có  đến  1/3  số  trường  hợp  cần 
CTNS. Diện  tích dưới  đường  cong ROC  trong 
chẩn đoán CTNS của thang điểm Rockall là 0,52 
chứng  tỏ Rockall  lâm sàng không giúp  ích cho 
việc  tiên  đoán  khả năng  cần CTNS. Biểu  đồ  4 
cho thấy khả năng cần CTNS của Blatchford bắt 
đầu tăng rõ rệt từ điểm cắt  là 8. Diện tích dưới 
đường  cong ROC  là  0,66  chứng  tỏ  bảng  điểm 
Blatchford tốt hơn Rockall lâm sàng; và với điểm 
cắt  là  8  thì  độ  nhạy,  độ  chuyên,  GTTĐ(+)  và 
GTTĐ(‐)  lần  lượt  là  81,4%,  43,5%,  42,3%  và 
82,1%. Nghiên  cứu  của  Pang(4)  và  cộng  sự  tại 
Hồng Kông có điểm tương đồng với nghiên cứu 
của chúng tôi là cho thấy giá trị của thang điểm 
Blatchford  tốt hơn Rockall  lâm  sàng  trong khả 
năng nhận diện  các  trường hợp  cần CTNS  tuy 
nhiên điểm khác biệt  là nghiên cứu này không 
ghi nhận  trường hợp nào  cần CTNS nếu  điểm 
Blatchford  là  0. Như  vậy,  kết  quả  nghiên  cứu 
của chúng tôi ủng hộ cho khuyến cáo của vùng 
Châu Á – Thái Bình Dương năm 2011 rằng các 
bằng chứng tại chỗ cho thấy nên sử dụng thang 
điểm Blatchford hơn  là Rockall  lâm sàng  trong 
đánh giá khả năng cần CTNS(5). Một  điểm hạn 
chế làm cho thang điểm Blatchford khó được áp 
dụng rộng rãi vào trong thực tế là việc tính điểm 
tương  đối  phức  tạp  dựa  trên  nhiều  thông  số. 
Chính vì vậy nên  cũng  chính nhóm  tác giả  đề 
xướng ra bảng điểm Blatchford cũng đồng thời 
đề xướng ra bảng kiểm Blatchford  tinh giản để 
giúp mọi nhân viên y tế đều có thể áp dụng dễ 
dàng và sàng lọc bệnh nhanh trên lâm sàng. Kết 
quả của nghiên cứu gốc cho thấy bảng kiểm này 
có  độ  nhạy  đến  99%  và  độ  chuyên  biệt  32% 
trong việc phát hiện các trường hợp cần phải can 
thiệp y khoa, tái xuất huyết hoặc tử vong(1). Tuy 
nhiên, theo hiểu biết của chúng tôi cho đến nay 
vẫn chưa có nghiên cứu nào ở châu Á về giá trị 
của bảng kiểm tinh giản này trong việc tiên đoán 
khả năng cần can thiệp y khoa nói chung, cũng 
như  CTNS  nói  riêng.  Trong  nghiên  cứu  của 
chúng tôi, bảng kiểm Blatchford tinh giản có độ 
nhạy, độ chuyên, GTTĐ(+), GTTĐ(‐) lần lượt là: 
97,5%; 8,6%; 36,1% và 87%. Ưu  điểm  của bảng 
kiểm Blatchford  tinh giản  là đơn giản, dễ dàng 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 588
sử dụng bởi bất kỳ nhân viên y tế nào, tuy nhiên 
chỉ  có  có  thể  nhận  diện  nhanh  được  6,6% 
(23/350)  trường hợp nguy cơ  thấp. Thang điểm 
Blatchford phức tạp hơn nhưng có thể nhận diện 
được  31,1%  (123/350)  trường  hợp  có  nguy  cơ 
thấp với  giá  trị  tiên  đoán  âm  thấp hơn  không 
đáng kể so với bảng kiểm Blatchford  tinh giản. 
Do  đó, khi áp dụng vào  thực  tế  chúng  tôi  cho 
rằng thang điểm Blatchford vẫn có lợi điểm hơn 
trong việc giúp phân  tầng nguy cơ và chọn  lọc 
được  bệnh  nhân  nhưng  tránh  được  tình  trạng 
chuyển viện quá nhiều gây nên  tình  trạng quá 
tải tại các bệnh viện tuyến trên có khả năng thực 
hiện CTNS. Bản kiểm Blatchford  tinh giản vẫn 
có thể sử dụng như một công cụ tầm soát nhanh, 
nhưng  nếu  kết  quả  cho  thấy  bệnh  nhân  có  ít 
nhất một trong bốn tiêu chuẩn không tương ứng 
với  tình  trạng  bệnh  nhẹ  thì  cần  nên  tính  tổng 
điểm Blatchford. Việc cung cấp các công cụ giúp 
tính  tổng  điểm  Blatchford  trên  các  thiết  bị  di 
động  và  /  hoặc  in  trên  giấy  và  để  sẵn  ở  khoa 
phòng là rất hữu ích vì giúp bác sĩ lâm sàng dễ 
dàng sử dụng thang điểm này hơn. 
KẾT LUẬN 
Loét  tá  tràng  vẫn  là  nguyên  nhân  thường 
gặp nhất gây XHTHTKTAC chiếm 43,1%. 56,9% 
trường hợp XHTHTKTAC cần được can thiệp y 
khoa  và  33,7%  cần  CTNS.  Thang  điểm 
Blatchford với điểm cắt là 8 giúp nhận diện các 
trường hợp cần CTNS với GTTĐ(+) và GTTĐ(‐) 
lần lượt là 42,3% và 82,1%. Bảng kiểm Blatchford 
tinh  giản  tương  đối  đơn  giản  có  thể  dùng  để 
sàng lọc nhanh các trường hợp có nguy cơ thấp 
không cần CTNS. Thang điểm Rockall lâm sàng 
không  giúp  ích  cho  lâm  sàng  trong  việc  tiên 
đoán CTNS.  
Lời cám ơn: Chúng tôi xin cám ơn sự hỗ trợ của Bệnh Viện 
Nhân Dân Gia Định và công ty Astra Zeneca Việt Nam để 
hoàn thành bài báo này.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Blatchford O, Murray WR, Blatchford M (2000), A risk score 
to  predict  need  for  treatment  for  upper‐gastrointestinal 
haemorrhage, Lancet, 356 (9238): 1318‐21. 
2. Đào Xuân Lãm, Trần Xuân Linh, Bùi Nhuận Quý, Trần Thị 
Hoàng  Yến  (2010),  Nhận  xét  thang  điểm  Rockall  và 
Blatchford  trong  việc  đánh  giá  tiên  lượng  bệnh  nhân  xuất 
huyết tiêu hóa trên. Y học TP. Hồ Chí Minh, 14(2) chuyên đề 
Hội nghị Khoa học Kỹ thuật Công nghệ của Đại học Y Phạm 
Ngọc Thạch: 8‐14.  
3. Enns  R,  Gagnon  M,  Barkun  N,  Amstrong  D,  Gregor  JC, 
Fedorak N, et al (2006). Validation of Rockall scoring system 
for  outcomes  from  non‐variceal  upper  gastrointestinal 
bleeding in a Canadian setting. World J Gastroenterol 12(48): 
7779‐85. 
4. Pang  S  H,  Ching  J,  Lau  J,  et  al  (2010).  Comparing  the 
Blatchford and pre‐endoscopic Rockall score in predicting the 
need  for  endoscopic  therapy  in  patients  with  upper  GI 
hemorrhage. Gastrointestinal Endosc 71(7): 1134‐40. 
5. Sung  J, Chan F, Chen M,  et al  (2011). Asia‐Pacific Working 
Group  consensus  on  non‐variceal  upper  gastrointestinal 
bleeding. Gut 60: 1170‐77. 
6. Trần  Kinh  Thành,  Bùi  Hữu  Hoàng  (2011).  Thang  điểm 
Rockall và Blatchford trong đánh giá tiên lượng ở bệnh nhân 
xuất huyết tiêu hóa do loét dạ dày – tá tràng. Y học TP. Hồ 
Chí Minh  15  (4), Chuyên  đề: Hội nghị Khoa học Kỹ  thuật 
Bệnh viện Trưng Vương: 38 – 44. 
Ngày nhận bài báo:       01/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo:   30/11/2013 
Ngày bài báo được đăng:     05/01/2014