10.Cơ sở để công nhận chính phủ Defacto (chính phủ thực tế đó) là hợp pháp
Công nhận trong luật quốc tế hiện đại được hiểu là hành vi pháp lí mang tính 
chính trị của quốc gia công nhận, dựa trên ý chí độc lập của các bên công nhận 
nhằm thể hiện thái độ của mình đối với đường lối chủ trương chính sách, chế độ 
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của quốc gia được công nhận, tạo tiền đề cho 
việc thiết lập các quan hệ pháp lí quốc tế, mong muốn thiết lập quan hệ b ình 
thườngvới quốc gia được công nhận
              
                                            
                                
            
 
            
                 24 trang
24 trang | 
Chia sẻ: maiphuongzn | Lượt xem: 1694 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Câu hỏi ôn tập Công pháp quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu hỏi ôn tập Công pháp quốc tế - 2 
10.Cơ sở để công nhận chính phủ Defacto (chính phủ thực tế đó) là hợp pháp 
Công nhận trong luật quốc tế hiện đại được hiểu là hành vi pháp lí mang tính 
chính trị của quốc gia công nhận, dựa trên ý chí độc lập của các bên công nhận 
nhằm thể hiện thái độ của mình đối với đường lối chủ trương chính sách, chế độ 
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của quốc gia được công nhận, tạo tiền đề cho 
việc thiết lập các quan hệ pháp lí quốc tế, mong muốn thiết lập quan hệ bình 
thường với quốc gia được công nhận. 
Hình thức công nhận chính phủ Defacto: là hình thức công nhận chính thức nhưng 
ở mức độ không đầy đủ & toàn diện có nghĩa là quan hệ với nhau ở một vài lĩnh 
vực nào đó. 
Việc công nhận quốc gia mới này bao hàm cả việc công nhận chính phủ mới nằm 
trong quốc gia đó. Đây là sự trùng hợp ngẫu nhiên của hai thể loại, song trong sự 
trùng lắp đó tồn tại sự đối lập nhau vì quốc gia mới vẫn là một ,nhưng chính phủ 
mới có thể thay đổi. Chính phủ mới ra đời có 2 loại: 
Ø Chính phủ hợp hiến hợp pháp (chính phủ De Jure) chính phủ này được thành 
lập thông qua qui định trong hiến pháp hoặc trong pháp luật quốc gia đó. Những 
chính phủ này được thông qua trong việc bầu cử, luật quốc tế hiện đại không đặt ra 
việc công nhận chính phủ hợp hiến hợp pháp.(VD: HP Pháp qui định 7 năm bầu 
tổng thống một lần, tổng thống không được làm quá 2 nhiệm kỳ) 
Ø Chính phủ thực tế (chính phủ De Facto ): chính phủ này được thành lập không 
phù hợp với hiến pháp & pháp luật của quốc gia đó ,được thành lập thông qua 
cuộc đảo chính, luật quốc tế hiện đại chỉ đặt ra việc công nhận chính phủ De Facto 
(VD: 5/ 97 Tướng quân Cavena lật đổ tống thống nước Côngô, làm tống thống 
phải tị nạn ở nước ngoài & chết ở nước ngoài) 
Công nhận chính phủ mới này không phải là công nhận chủ thể mới của luật quốc 
tế mà là công nhận người đại diện “ hợp pháp” cho một quốc gia trong bang giao 
quốc tế. 
Sự công nhận chính phủ thực tế (CP Defacto) là hợp pháp phải dựa trên những 
tiêu chí sau: 
ü Chính phủ mới phải được đông đảo quần chúng nhdân tự nguyện, tự giác ủng 
hộ. 
ü Chính phủ mới phải khả năng duy trì & thực hiện được quyền lực của mình 
trong một thời gian dài ổn định, tự giải quyết được các công việc của đất nước 
ü Chính phủ mới phải có khả năng kiểm soát được toàn bộ hoặc phần lớn lãnh thổ 
của quốc gia đó một cách độc lập & tự quản lí được mọi công việc của quốc gia. 
Căn cứ vào 3 điều kiện trên, tùy thuộc vào sự nhìn nhận của từng quốc gia để có 
sự công nhận chính phủ thực tế đó là hợp pháp, điều này cũng có nghĩa là sẽ có 
những quốc gia công nhận thực tế đó là hợp pháp nhưng cũng có những quốc gia 
sẽ không công nhận thực tế đó. 
11.So sánh phê chuẩn, phê duyệt & gia nhập 
· Phê chuẩn là sự đồng ý chính thức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của các 
bên ký kết (thông thường là cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước đó) xác nhận 
điều ước quốc tế đã có hiệu lực đối với mình. Thông thường những điều ước quốc 
tế liên quan đến vấn đề chính trị, ANQP, biên giới lãnh thổ thì phải phê 
chuẩn.(VD: Ở VN vấn đề này được qui định tại điều 10 Pháp lệnh về ký kết thực 
hiện điều ước quốc tế năm 1993) 
· Phê duyệt là tuyên bố đơn phương ( hành vi pháp lí đơn phương)của cơ quan có 
thẩm quyền trong nước công nhận một đều ước quốc có hiệu lực đối với quốc gia 
mình. 
· Gia nhập là tuyên bố đơn phương của cơ quan có thẩm quyền của quốc gia, công 
nhận một điều ước quốc tế có hiệu lực đối với quốc gia mình, chính thức ràng 
buộc quyền và nghĩa vụ của mình đối với một điều ước quốc tế mà mình chưa phải 
là thành viên của điều ước quốc tế đó. 
v Giống nhau: 
Phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập đều là hành vi đơn phương nhằm công nhận hiệu 
lực điều ước quốc tế đối với quốc gia mình. Phê chuẩn, phê duyệt xác nhận điều 
ước quốc tế đã có hiệu lực đối với quốc gia mình. Gia nhập chính thức ràng buộc 
quyền và nghĩa vụ của mình đối với một điều ước quốc tế mà mình chưa phải là 
thành viên điều ước quốc tế đó. 
v Khác nhau: 
ü Về thời điểm Thời điểm gia nhập khác với thời điểm phê chuẩn, phê duyệt. Phê 
chuẩn, phê duyệt được thực hiện đối với quốc gia sáng lập ra điều ước quốc tế, 
trong thời điểm kí kết điều ước quốc tế theo trình tự thủ tục phức tạp. Gia nhập 
điều ước quốc tế chỉ diễn ra trong khi điều ước quốc tế đã phát sinh hiệu lực & chỉ 
áp dụng đối với quốc gia chưa là thành viên tham gia ký kết điều ước quốc tế. 
ü Về phạm vi: Phê chuẩn, phê duyệt diễn ra cả đối với điều ước quốc tế đa phương 
& song phương. Gia nhập điều ước quốc tế chỉ diễn ra đối với điều ước quốc tế đa 
phương 
ü Về thẩm quyền(điều 32 điêu 44): Thẩm quyền phê chuẩn điều ước quốc tế thuộc 
thẩm quyền của cơ quan lập pháp là sự đồng ý chính thức của cơ quan có thẩm 
quyền (cơ quan quyền lực tối cao) của nhà nước đó. Thẩm quyền phê duyệt thuộc 
thẩm quyền cơ quan hành pháp, thường tiến hành ở cơ quan nhà nước thấp hơn 
như Chính phủ, cấp Bộ... Gia nhập thì thuộc thẩm quyền của cả cơ quan lập pháp 
& cơ quan hành pháp. 
ü Về mức độ quan trọng: điều ước quốc tế cần phải phê chuẩn ở mức độ quan 
trọng cao hơn, điều ước quốc tế cần phê duyệt ở mức độ quan trong thấp hơn. 
12.Phân biệt bãi bỏ điều ước quốc tế & huỷ bỏ điều ước quốc tế 
· Bãi bỏ hiệu lực của điều ước quốc tế là tuyên bố đơn phương mà quốc gia đưa ra 
tuyên bố nhằm chấm dứt hiệu lực của Điều ước quốc tế nào đó đối với quốc gia 
mình. 
· Huỷ bỏ hiệu lực điều ước quốc tế là tuyên bố đơn phương của một quốc gia 
nhằm chấm dứt hiệu lực của điều ước nào đó đối với quốc gia mình mà không 
được qui định trong Điều ước. 
v Giống nhau: đều là tuyên bố đơn phương mà quốc gia đưa ra tuyên bố nhằm 
chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế nào đó đôí với quốc gia mình. 
v Khác nhau: 
ü Tuyên bố hủy bỏ điều ước phải được điều ước cho phép. 
ü Tuyên bố bãi bỏ điều ước không cần được điều ước cho phép. 
Có 5 cơ sở tuyên bố hủy bỏ điều ước: 
Ø Có sự vi phạm về thẩm quyền & thủ tục ký kết theo qui định của pháp luật trong 
nước của các bên ký kết. 
Ø Điều ước quốc tế ký kết mà trong đó có một trong các bên chỉ hưởng quyền mà 
không thực hiên nghĩa vụ. 
Ø Khi xuất hiện điều khoản Rebutsic Stantibus tức là khi hoàn cảnh trong nước bị 
thay đổi căn bản các bên không thể thực hiện được điều ước vì vậy có quyền tuyên 
bố hủy bỏ điều ước. 
Ø Tuy nhiên trong điều khoản này không áp dụng đối với các Điều ước về: biên 
giới lãnh thổ, điều ước mang tính trung lập nhân đạo. Điều ước mà các quốc gia 
cam kết, nó sẽ không hết hiệu lực cả khi xảy ra chiến tranh. 
Ø Nội dung của điều ước trái với nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế 
Khi các bên thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế trường hợp này 
thường áp dụng cho điều ước vô thời hạn. 
Ví dụ: Điều ước thành lập hiệp ứơc Vacsava, điều ước này qui định 20 năm nhưng 
thực hiện được 15 năm thì ngồi lại thỏa thuận với nhau chấm dứt Điều ước quốc tế 
này. 
13. Phân biệt tuyên bố bảo lưu & tuyên bố giải thích 
· Bảo lưu điều ước quốc tế là tuyên bố đơn phương của một quốc gia đưa ra ký phê 
duyệt, phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước nhiều bên nhằm loại trừ hoặc thay đổi hệ 
quả pháp lý của một hoặc một số qui định của điều ước. 
· Giải thích điều ước quốc tế là việc làm sáng tỏ nội dung của điều ước nhằm mục 
đích thực hiện điều ước một cách kịp thời và chính xác tránh sự hiểu lầm và ngây 
mâu thuẩn giữa các bên. 
v Giống nhau: đều là tuyên bố đơn phương của quốc gia đưa ra nhằm công nhận 
hiệu lực điều ước quốc tế đối với quốc gia mình 
v Khác nhau: 
ü Về mục đích Tuyên bố bảo lưu chỉ nhằm thay đổi một hệ quả pháp lý, lọai trừ hệ 
quả pháp lí của một số điều khoản nhất định của điều ước quốc tế 
Ví dụ: VN bảo lưu điều 24 công ước Chicago, bảo lưu loại trừ 
Tuyên bố giải thích là việc làm sáng tỏ nội dung sự thật của điều ước, thuật ngữ 
của những điều khoản trong điều ước quốc tế nhằm mục đích thực hiện điều ước 
một cách kịp thời và chính xác. 
ü Về thời điểm đưa ra tuyên bố: Tuyên bố bảo lưu được thực hiện trong bất kỳ giai 
đoạn nào của điều ước (đàm phán, soạn thảo, thông qua, ký kết, phê chuẩn, phê 
duyệt, gia nhập) . 
Tuyên bố giải thích được thực hiện khi điều ước quốc tế đã phát sinh hiệu lực & 
khi có tranh chấp xảy ra (tức là trong quá trình thực hiện điều ước quốc tế) 
ü Về thể loại Tuyên bố bảo lưu chỉ được áp dụng đối với điều ước quốc tế đa 
phương mà không cấm bảo lưu, còn tuyên bố giải thích điều ước quốc tế thì được 
áp dụng cho cả điều ước quốc tế song phương & đa phương 
Tuyên bố bảo lưu diễn ra ở cơ quan có thẩm quyền theo luật định, Tuyên bố giải 
thích do chủ thể giải thích 
ü Về giá trị pháp lí Tuyên bố bảo lưu có giá trị pháp lí trên bình diện quốc tế. Còn 
tuyên bố giải thích do một quốc gia đơn phương đưa ra. 
ü Về ý nghĩa Tuyên bố bảo lưu nếu được chấp thuận thì có giá trị pháp lí quốc tế 
còn tuyên bố giải thích điều ước quốc tế thì không có giá trị pháp lí. 
14.Bảo lưu điều ước quốc tế đây là một quyền hay là sự ưu tiên 
Bảo lưu điều ước quốc tế là hành vi đơn phương của một chủ thể luật quốc tế 
tuyên bố nhằm thay đổi hay loại trừ hệ quả của một hay một số điều khoản nhất 
định của điều ước, những điều khoản đó được gọi là điều khoản bảo lưu. 
Bảo lưu điều ước đây là một quyền & quyền này không phải là quyền tuyệt đối, 
bởi vì có những hạn chế sau: 
Ø Bảo lưu không diễn ra với điều ước song phương bởi vì trong những điều ước 
song phương thường thỏa thuận ý chí của hai quốc gia với nhau. Trong trường hợp 
một bên nào đó không thực hiện nổi một số điều của điều ước thì đây là lời đề 
nghị mới của bên đối phương, nếu được bên dối phương đồng ý. Nếu không đồng 
ý thì không thực hiện được quyền bảo lưu. 
Ø Đối với những điều ước đa phương mà có điều khoản qui định hoặc các bên 
thỏa thuận miệng với nhau rằng không cho phép bảo lưu thì quyền bảo lưu không 
được thực hiện. Đối với những điều ước nhiều bên trong đó chỉ qui định cho phép 
bảo lưu một hoặc một vài điều khoản cụ thể nhất định nào đó thì quyền bảo lưu 
không được thực hiện đối với những điều khoản còn lại. Đối với những điều ước 
cho phép tự do lựa chọn một hoặc một số những điều khoản nào đó để bảo lưu thì 
quyền bảo lưu cũng không được thực hiện đối với những điều khoản không phù 
hợp với mục đích và đối tượng của điều ước. 
Khộng phải là quyền ưu tiên vì không thể có sự ưu tiên một điều khoản của một 
điều ước quốc tế đối với một quốc gia nào khác. 
Quyền bảo lưu diễn ra trong bất kỳ giai đọan nào của quá trình ký kết điều ước, 
tuy nhiên nếu điều ước qui định điều ước này chỉ phát sinh hiệu lực sau khi phê 
chuẩn nhưng quốc gia lại tuyên bố bảo lưu từ những giai đoạn đầu của quá trình 
ký kết điều ước quốc tế thì khi phê chuẩn quốc gia đó nhắc lại điều khoản bảo lưu 
mới có gía trị pháp lý. 
Quốc gia có quyền bảo lưu thì cũng có quyền rút bảo lưu hay hủy bỏ bảo lưu trong 
bất kỳ thời điểm nào xét thấy cần thiết. 
Bảo lưu có giá trị một năm kể từ khi đưa ra tuyên bố bảo lưu mà không có quốc 
gia nào phản đối. 
Thực tiễn bảo lưu của VN: 
VN bảo lưu những điều khoản điều ước qui định phải đưa những tranh chấp bất 
đồng về việc giải thích hoặc áp dụng điều ước ra trước trụ sở quốc tế để giải quyết 
hoặc thông qua một thủ tục giải quyết bắt buộc khác bất kể các bên tranh chấp có 
đồng ý hay không. 
VN ta bảo lưu những điều khỏan của diều ước quốc tế không phù hợp với những 
quan điểm mang tính chất chỉ đạo của nhà nước ta 
Ví dụ: Nguyên tắc mang tính chất của VN là bình đẳng nam nữ mà công ước về 
người phụ nữ khi lấy chồng nước ngoài mặc nhiên mất đi quốc tịch của mình điều 
này đi ngược lại với nguyên tắc nam nữ bình đẳng cho nên VN đã bảo lưu công 
ước trên. 
VN bảo lưu những điều khoản hạn chế sự tham gia của một số quốc gia & phong 
trào giải phóng dân tộc 
Ví dụ: Điều 48, 50 tại Công ước viên 1961 về quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại 
giao...Chỉ những quốc gia nào không phải là thành viên của Liên hiệp quốc thì 
được Liên hiệp quốc cho phép tham gia thì mới trở thành thành viên của điều ước 
trên. 
15. So sánh giữa người hai quốc tịch & không quốc tịch 
· Người có hai quốc tịch là tình trạng pháp lí của một người xét cùng một lúc mang 
quốc tịch của hai quốc gia khác nhau. 
· Người không quốc tịch là tình trạng pháp lí của người không là công dân của 
quốc gia nào. 
v Giống nhau 
Do pháp luật của các nước có qui định khác nhau về cách thức hưởng & mất quốc 
tịch. Do kết hôn, li hôn nhận làm con nuôi mà có yếu tố nước ngoài. Người 2 quốc 
tịch là họ được hưởng quốc tịch một nước nhưng chưa mất quốc tịch, còn người 
không quốc tịch là do họ thôi quốc tịch cũ nhưng chưa được nhập quốc tịch mới. 
v Khác nhau 
ü Đối với người có hai quốc tịch: cả hai nước mà họ mang quốc tịch đều coi người 
đó là công dân nước mình dẫn đến hậu quả bất lợi cho đương sự, khó khăn trong 
việc yêu cầu được bảo hộ ngoại giao, các quốc gia đều coi họ là công dân dẫn đến 
tranh chấp quyền bảo hộ ngoại giao đối với đương sự. 
ü Đối với người không quốc tịch: không được hưởng quyền & nghĩa vụ công dân 
của bất kỳ quốc gia nào. Không được hưởng quyền & nghĩa vụ theo những điều 
ước quốc tế mà quốc gia sở tại dành cho người nước ngoài. Không được hưởng 
bảo hộ ngoai giao của bất kỳ nước nào, do vậy địa vị pháp lí của người không 
quốc tịch rất thấp kém. 
ü Đối với người hai quốc tịch thì những quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của tư 
pháp quốc tế thì áp dụng nguyên tắc quốc tịch hữu hiệu , cụ thể coi người hai quốc 
tịch là công dân một trong hai nước & cho phép nước đó bảo hộ ngoại giao cho 
người đó . 
ü Đối với người không quốc tịch thì pháp luật quốc gia phải qui định về những 
điều kiện thuận lợi hơn đơn giản hơn về mặt thủ tục để người đó có thể gia nhập 
quốc tịch vào nước mình. 
16. Luật quốc tế điều chỉnh về lãnh thổ quốc gia. Phân tích quyền tối cao của 
quốc gia đối với lãnh thổ 
Lãnh thổ quốc gia là một phần của trái đất bao gồm vùng đất, vùng nước, vùng 
trời & vùng lòng đất thuộc chủ quyền hoàn toàn riêng biệt hoặc tuyệt đối của một 
quốc gia, lãnh thổ quốc gia là toàn vẹn & bất khả xâm phạm. 
Lãnh thổ quốc giavà vấn đề điều chỉnh của luật quốc gia được thể hiện trong các 
bộ luật đất đai, luật biên giới, hiến pháp điều chỉnh lãnh thổ được qui định trong 
luật về phân cấp quản lí. 
Xuất phát từ quyền lợi các quốc gia bị ảnh hưởng trực tiếp đến quyền & lợi ích 
của các quốc gia khác ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia về lãnh thổ 
Ảnh hưởng gián tiếp đến quyền & lợi ích đến các quốc gia khác 
Nguyên nhân dẫn đến các cuộc chiến tranh xung đột tranh chấp với các quốc gia 
khác. 
Trong hệ thống các qui phạm pháp luật quốc tế điều chỉnh lãnh thổ về : Phương 
pháp hoạch định biên giới lãnh thổ quốc gia. Qui chế pháp lí lãnh thổ,của biên giới 
quốc gia xác định rõ vùng lãnh thổ nào thuộc chủ quyền quốc gia, vùng lãnh thổ 
nào thuộc cộng đồng. Những nội dung liên quan đến giải quyết tranh chấp về lãnh 
thổ, biên giới. 
Phân tích quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ 
Mỗi quốc gia có chủ quyền hoàn toàn đối với lãnh thổ của mình, chủ quyền đó gọi 
là quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ. Đây chính là quyền tối cao của 
quốc gia thực hiện trên phạm vi lãnh thổ của mình. Quyền tối cao này là thuộc tính 
không thể tách rời của quốc gia tức là chủ quyền của quốc gia đối với lãnh thổ 
xuất hiện kể từ khi quốc gia được hình thành trên cơ sở phù hợp với nguyên tắc cơ 
bản của luật quốc tế. Quyền này được thể hiện như sau: 
Kể từ thời điểm quốc gia mới ra đời thì chủ quyền của lãnh thổ được xác lập chỉ 
khi quốc gia không còn tồn tại thì chủ quyền quốc gia mới mất đi. 
Quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ biểu hiện ở quyền thiêng liêng và bất 
khả xâm phạm của quốc gia trên hai phương diện: quyền lực và vật chất, hai 
phương diện này có mối quan hệ mật thiết & biện chứng với nhau . 
Về phương diện quyền lực được thể hiện: quyền lực của quốc gia được thực hiện 
trên phạm vi lãnh thổ của chính quốc gia mình. Quyền lực này là quyền tối cao đối 
với tất cả mọi người, mọi tổ chức hoạt động trên phạm vi lãnh thổ của Quốc gia. 
Quyền lực tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ được thực hiện thông qua hoạt 
động của hệ thống các cơ quan nhà nước bao gồm: cơ quan lập pháp, hành pháp, 
tư pháp bao trùm lên tất cả lĩnh vực trong đời sống xã hội của Quốc gia. 
Quyền lực này mang tính hòan tòan & riêng biệt không chia xẻ với bất cứ quốc gia 
nào khác & là chủ quyền thiêng liêng của mỗi quốc gia, mọi dân cư & tài sản tồn 
tại trên lãnh thổ quốc gia đều lệ thuộc vào quyền lực đó. 
Các Quốc gia khác có nghĩa vụ tôn trọng quyền lực của quốc gia chủ nhà không có 
quyền chia sẻ áp đặt quyền lực của mình lên lãnh thổ của quốc gia khác. Mọi hành 
vi xâm phạm tới quyền tối cao của quốc gia sở tại đều bị coi là trái với pháp luật 
quốc tế 
Về phương diện vật chất được thể hiện: Chỉ có quốc gia là “người” có đầy đủ 
quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt vấn đề lãnh thổ trên cơ sở lợi ích phù 
hợp với sự lựa chọn tự do của cộng đồng dân cư sống trên lãnh thổ đó. 
Quyền tối cao của quốc gia về phương diện vật chất có thể coi là quyền sở hữu của 
quốc gia đối với tài sản là lãnh thổ của quốc gia mình. Như vậy trong trường hợp 
một quốc gia mất quyền định đoạt đối với lãnh thổ thì quốc gia đó coi như không 
có quyến tối cao đối với lãnh thổ đó. 
[Tóm lại: quốc gia có quyền hoàn toàn tuyệt đối với lãnh thổ của mình, nhưng 
quyền tối cao của từng vùng khác nhau. Ví dụ: vùng lòng đất thì tính chất chủ 
quyền của quốc gia hoàn toàn tuyệt đối & riêng biệt, còn vùng nước, biên giới tính 
chất chủ quyền của quốc gia mang tính chất hoàn toàn & đầy đủ. 
17. Nội dung qui chế pháp lý của lãnh thổ quốc gia 
Qui chế pháp lý của lãnh thổ quốc gia được thể hiện trên nguyên tắc: bất khả xâm 
phạm & toàn vẹn lãnh thổ. Đây không phải là nguyên tắc cơ bản nhưng là nguyên 
tắc quan trọng trong luật quốc tế và nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc cấm 
dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế ( điều 2 khoản 4 Hiến 
chương liên hiệp quốc ) 
Bất khả xâm phạm có nghĩa là các quốc gia không được xâm lược bằng vũ trang 
hoặc không có vũ trang vào lãnh thổ của một quốc gia khác. 
Toàn vẹn lãnh thổ : là cấm chia cắt bằng vũ lực lãnh thổ của quốc gia khác hoặc 
lấn chiếm một bộ phận của lãnh thổ quốc gia. 
Nội dung của nguyên tắc này: 
Nghiêm cấm xâm chiếm lãnh thổ bằng cách đe dọa hoặc sử dụng vũ lực.Mỗi quốc 
gia có quyền hoàn toàn tự do chọn lựa cho mình một chế độ chính trị, kinh tế, văn 
hoá, xã hội phù hợp với nguyện vọng của cộng đồng sống trên đó mà không có sự 
can thiệp từ bên ngoài dưới bất kì hình thức nào. 
Biên giới quốc gia là ổn định & bất khả xâm phạm, đường biên giới của quốc gia 
được vạch ra một cách hợp pháp & được thừa nhận trên thực tế, không bị thay đổi 
hoặc vi phạm dưới bất kì hình thức nào, cấm dùng lực lượng quân sự xâm nhập 
lãnh thổ, gây rối biên giới, di dời cột mốc biên giới. 
Không được sử dụng lãnh thổ quốc gia khi chưa có sự đồng ý của quốc gia chủ 
nhà, bất kì một hành vi nào sử dụng một phần hay toàn bộ lãnh thổ của một quốc 
gia khác mà không có sự đồng ý của quốc gia chủ nhà đều là bất hợp pháp. 
Không được sử dụng lãnh thổ của mình hoặc cho quốc gia khác sử dụng nhằm gây 
thiệt hại cho quốc gia thứ ba. 
Quốc gia tự qui định chế độ pháp lý đối với từng vùng lãnh thổ quốc gia. Quốc gia 
có quyền sở hữu hoàn toàn đối với tất cả các tài nguyên thiên nhiên trong vùng 
lãnh thổ quốc gia . Quốc gia thực hiện quyền tài phán đối với công dân, tổ chức kể 
cả cá nhân, tổ chức nước ngoài trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia mình. Quốc 
gia có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế, điều chỉnh, kiểm soát họat động 
của các pháp nhân & người nước ngoài kể cả trường hợp quốc hữu hóa, tịch thu, 
trưng thu tài sản cá nhân của tổ chức, cá nhân nước ngoài có bồi thường hoặc 
không bồi thường. 
Quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ & cải tạo môi trường quốc gia theo những nguyên tắc 
chung của pháp luật quốc tế. Quốc gia có quyền sử dụng hay thay đổi lãnh thổ phù 
hợp với lợi ích cộng đồng dân cư sống trên phần lãnh thổ đó. 
18. So sánh biên giới quốc gia trên bộ & biên giới quốc gia trên biển 
· Biên giới quốc gia trên bộ là đường biên giới được vạch ra trên đất liền, đảo, 
sông, hồ… cơ sở pháp lí đường biên giới trên bộ luôn kí kết dựa trên điều ước 
quốc tế. 
· Biên giới quốc gia trên biển: là ranh giới giữa vùng biển thuộc chủ quyền hoàn 
toàn của quốc gia với những vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia khác hoặc 
với những vùng biển không thuộc chủ quyền của Quốc gia. 
v Giống nhau: 
Cả hai đều là đường biên giới và đều thuộc chủ quyền của Quốc gia. 
v Khác nhau: 
[IMG]file:///C:/Users/LUCKYC%7E1/AppData/Local/Temp/msohtmlclip1/01/cli
p_image002.gif[/IMG] Cách xác định biên giới Quốc gia: 
· Trên bộ được trải qua 3 bước: 
Ø Hoạch định biên giới quốc gia : là một quá trình xây dựng phương hướng, vị trí, 
tính chất của đường biên giới quốc gia trên văn bản chính, thiết lập đường biên 
giới quốc gia ở trong hiệp định và có bản đồ chi tiết đính kèm. 
Ø Phân giới thực địa: là giai đọan chuyển hóa đường biên giới từ điều ước quốc tế 
thành đường biên giới thực tế. Thông thường công việc này là do một UB hổn hợp 
của hai bên hữu quan cử ra để đối chiếu các qui định trong điều ước quốc tế, với 
bản đồ để đánh dấu các điểm trên thực tế UB liên hiệp chỉ có quyền chuyển hóa 
đúng với điều ước quốc tế không được sửa chửa thay đổi sai sót. 
Ø Cấm mốc: là hoạt động cuối cùng của quá trình phân giới thực địa. Sau khi các 
bên đã đồng ý và hoàn thành các công việc cần thiết ở giai đoạn hai thì UB sẽ tiến 
hành cấm theo mốc cụ thể tại các điểm đã được hai bên đánh dấu, đường biên giới 
là đường nối liền các cột đã được cấm mốc. 
· Trên biển: xác định biên giới đối với hai quốc gia nằm kề nhau hoặc đối diện 
nhau mà có chung vùng nước nội thủy hay có chung vùng nước lãnh hải dựa trên 
nguyên tắc thỏa thuận giữa các quốc gia bằng việc kí kết điều ước quốc tế về biên 
giới , mô tả cụ thể về vị trí đặc điểm tính chất ,toạ độ cụ thể & chính xác 
Thông thường đường biên giới quốc gia trên biển sẽ được phân định trong điều 
ước quốc tế theo phương pháp cách đều đối với hai quốc gia có đường biên giới 
nằm kề cận nhau, hoặc đường trung tuyến đối với quốc gia có bờ biển kề nhau, 
nếu không có thỏa thuận khác. 
Xác định biên giới trên biển của quốc gia mà không ảnh hưởng hay đụng chạm tới 
bất kì vùng biển của một quốc gia nào khác, đường biên giới quốc gia trên biển chỉ 
nhằm phân định chính xác giới hạn lãnh thổ quốc gia của quốc gia đó đối với vùng 
biển tiếp liền của đại dương không phải là lãnh thổ của quốc gia, quốc gia ven biển 
phải công bố chính thức đường cơ sở, chiều rộng lãnh hải, đồng thời phải công 
khai, chính thức đường biên giới trên biển của quốc gia trên hải đồ tỷ lệ lớn. 
[IMG]file:///C:/Users/LUCKYC%7E1/AppData/Local/Temp/msohtmlclip1/01/cli
p_image002.gif[/IMG] Thủ tục 
· Trên bộ: bắt buộc trong mọi trường hợp đều phải thông qua điều ước song 
phương giữa hai nước hữu quan. 
· Trên biển: Việc xác định ranh giới phía ngoài lãnh hải thông qua điều ước song 
phương. 
[IMG]file:///C:/Users/LUCKYC%7E1/AppData/Local/Temp/msohtmlclip1/01/cli
p_image002.gif[/IMG] Tính chất chủ quyền: 
· Trên bộ: hoàn toàn mang tính chất tuyet đối. 
· Trên biển: đường biên giới chưa hoàn chỉnh mang tính chất không được tuyệt đối 
vì các tàu thuyền qua lại vô hại mà không cần xin phép. 
19. Khái niệm & chế độ pháp lí vùng đặc quyền kinh tế 
Vùng đặc quyền kinh tế là vùng nằm phía ngoài lãnh hải tiếp giáp với lãnh hải, 
tính từ đường cơ sở cho biết chiều rộng pháp lí của vùng đặc quyền kinh tế không 
quá 200 hải lí kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải ( điều 55, 
57). Chế độ pháp lí vùng đặc quyền kinh tế là vùng được khai thác chứ không 
được quản lí 
Quyền của quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế: Quyền chủ quyền & 
thực hiện tài phán của quốc gia : quyền chủ quyền các quốc gia sẽ được thực hiện 
các quyền của họ đối với tất cả tài nguyên thiên nhiên nằm trong vùng đặc quyền 
kinh tế tiến hành về việc thăm dò & khai thác, bảo tồn & quản lí các tài nguyên 
thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật của vùng nước bên trên đáy biển, của 
đáy biển & lòng đất dưới đáy biển cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm 
dò & khai thác vùng nầy nhằm mục đích kinh tế như việc sản xuất năng lượng trữ 
nước hải lưu & gió ( điều 56 công ước về luật biển) Quốc gia ven biển có quyền 
tài phán sẽ hưởng quyền tài phán lắp đặt & sử dụng các công trình thiết bị nhân 
tạo, tài phán về lĩnh vực nghiên cứu khoa học, tài phán về việc bảo vệ & giữ gìn 
môi trường biển có nghĩa là đặt ra các qui cách các đảo nhân tạo, công trình nhân 
tạo 
Nghĩa vụ của quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế có nghĩa vụ chung 
khi thực hiện các quyền thuộc chủ quyền đàm phán của quốc gia ven biển thì quốc 
gia ven biển không được làm ảnh hưởng các quyền của quốc gia khác trên biển. 
Quyền & nghĩa vụ của cá
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 136_0569.pdf 136_0569.pdf
 135_9038.pdf 135_9038.pdf