Cấu trúc thị trường tài chính

Thị trường vốn cổ phần (Equity Markets): Là phương pháp thứ hai để thu hút vốn là các công ty phát hành cổ phiếu. Người nắm giữ cổ phiếu sở hữu một phần tài sản của công ty có quyền được chia lợi nhuận ròng từ công ty sau khi trừ đi chi phi thuế và thanh toán cho chủ nợ (những người sở hữu công cụ nợ). Cổ đông thường được thanh toán định kì lãi cổ phần và những cổ phần đó là những chứng khoán dài hạn vì chúng không có thời gian đáo hạn.

doc19 trang | Chia sẻ: thienmai908 | Lượt xem: 1414 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Cấu trúc thị trường tài chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hị trường bán lẻ chứng khoán, hoạt động liên tục. Thị trường thứ cấp thực hiện hai chức năng: (1) Thứ nhất, nó tạo điều kiện dễ dàng để bán những công cụ tài chính nhằm thu tiền mặt, tức làm cho các công cụ tài chính này “lỏng” thêm ra. Tính lỏng thêm khiến cho các công cụ được ưa chuộng hơn và nhờ vậy dễ dàng hơn cho công ty phát hành bán chúng ở thị trường cấp một. (2) Thứ hai, nó giúp cho công ty phát hành xác định giá của thị trường sơ cấp. Những hãng mua các chứng khoán ở thị trường sơ cấp sẽ chỉ thanh toán cho công ty phát hành với giá mà họ cho rằng thị trường thứ cấp sẽ chấp nhận mua cho chứng khoán này. Vì vậy, nếu giá chứng khoán ở thị trường thứ cấp càng cao thì công ty phát hành sẽ nhận được tổng vốn đầu tư càng lớn. 2.2.3. Mối quan hệ, tác động qua lại giữa hai thị trường: Thị trường sơ cấp là thị trường cơ sở, là tiền đề để cho thị trường thứ cấp hoạt động, nó tạo hàng hoá để mua bán trên thị trường thứ cấp. Ngược lại, nếu không có thị trường thứ cấp thì thị trường sơ cấp khó có thể hoạt động một cách trôi chảy được : thị trường thứ cấp sẽ tạo tính lỏng cho các hàng hoá được cung cấp từ thị trường sơ cấp (qua đó làm tăng tính hấp dẫn và tạo sự thuận lợi cho các chứng khoán được phát hành trên thị trường sơ cấp); thị trường thứ cấp cũng góp phần xác định giá các chứng khoán phát hành trên thị trường sơ cấp. Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết. Trong thực tế, hoạt động của thị trường chứng khoán chúng ta không thể chỉ rõ ra được đâu là thị trường sơ cấp và đâu là thị trường thứ cấp, bởi vì trong hoạt động của thị trường chứng khoán vừa diễn ra việc phát hành chứng khoán vừa diễn ra việc mua đi bán lại chứng khoán. 2.3. Căn cứ vào cách thức huy động vốn: Căn cứ vào cách thức huy động vốn, thị trường tài chính được chia thành: 2.3.1. Thị trường nợ (Debt Markets): Là thị trường mua bán trao đổi các công cụ nợ trong đó công cụ nợ là công cụ làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ như trái phiếu tín phiếu hối phiếu, … Phát hành các công cụ nợ là phương pháp thông dụng nhất mà các công ty sử dụng để vay vốn trên thị trường tài chính. Đây là dạng thoản thuận theo hợp đồng, trong đó người vay phải trả cho người nắm giữ các công cụ nợ một khoản tiền nhất định trong những khoản thời gian đều đặn và giới hạn cố định (vốn và lãi) vào ngày tháng cụ thể (thời điểm đáo hạn – khi khoản chi trả cuối cùng được thực hiện ). Trong thời gian đáo hạn của công cụ nợ là khoản thời gian cho đến khi công cụ nợ hết hạn dựa vào thời gian đáo hạn. Có 3 công cụ nợ: công cụ nợ ngắn hạn thời gian đáo hạn nhơ hơn 1 năm, công cụ nợ dài hạn thời gian đáo hạn lớn hơn 10 năm và công cụ nợ trung hạn thời gian đáo hạn khoảng 1 đến 10 năm. 2.3.2. Thị trường vốn cổ phần (Equity Markets): Là phương pháp thứ hai để thu hút vốn là các công ty phát hành cổ phiếu. Người nắm giữ cổ phiếu sở hữu một phần tài sản của công ty có quyền được chia lợi nhuận ròng từ công ty sau khi trừ đi chi phi thuế và thanh toán cho chủ nợ (những người sở hữu công cụ nợ). Cổ đông thường được thanh toán định kì lãi cổ phần và những cổ phần đó là những chứng khoán dài hạn vì chúng không có thời gian đáo hạn. 2.4. Căn cứ vào phương thức tổ chức và giao dịch của thị trường: Căn cứ vào phương thức tổ chức và giao dịch của thị trường, thị trường tài chính được chia thành: 2.4.1. Thị trường tập trung: Khái niệm: Là thị trường mà việc giao dịch và mua bán chứng khoán được thực hiện có tổ chức và thực hiện tại một nơi nhất định. Đặc điểm: + Thị trường tập trung là các Sở giao dịch (thường được tổ chức dưới hình thức một công ty cổ phần), ví dụ như: Sở giao dịch chứng khoán New York, Sở giao dịch chứng khoán Tokyo, Sở giao dịch chứng khoán LonDon, … Nơi đây sẽ cung cấp các phương tiện và dịch vụ cần thiết để tiến hành giao dịch như: lưu ký chứng khoán, bảng báo giá điện tử, … + Hoạt động mua bán chứng khoán tại Sở giao dịch buộc phải thông qua các trung gian môi giới gọi là các nhà môi giới chứng khoán. + Ghép lệnh tập trung để hình thành giá giao dịch. + Các chứng khoán giao dịch tại thị trường này là những chứng khoán đã được đăng ký yết giá (niêm yết). Để chứng khoán có thể niêm yết giá thì công ty phải thỏa mãn các điều kiện về quy mô vốn , số lượng chứng khoán đã phát hành, về kết quả kinh doanh trong thời gian gần đây… Sau khi được Sở giao dịch chấp nhận chứng khoán được đăng kí vào danh bạ của Sở giao dịch chứng khoán và thường xuyên được niêm yết giá trên Sở giao dịch. 2.4.2. Thị trường phi tập trung: Khái niệm: Thị trường phi tập trung là thị trường mà việc mua bán các chứng khoán được thực hiện phân tán ở những địa điểm khác nhau. Các giao dịch này thường được thực hiện thông qua mạng máy vi tính.  Trên thế giới thị trường phi tập trung được tổ chức dưới hình thức thị trường giao dịch “qua quầy” - OTC Market (Over- The- Counter Markets) Đặc điểm: + Thị trường OTC không phải là thị trường hiện hữu và không có địa điểm tập trung nhất định. Giao dịch diễn ra tại các quầy thông qua mạng máy vi tính. Những ai bán hay mua loại chứng khoán nào với mức giá nào đều được hiển thị hết qua mạng vi tính, do vậy tính cạnh tranh của thị trường này rất cao. Ngoài ra có thể bán trao tay các chứng khoán (thị trường chợ đen, thị trường tự do). + Giá cả trên thị trường này do đó được hình thành theo nguyên tắc thương lượng thông qua hệ thống thông tin liên lạc hiện đại. + Do có tổ chức như vậy nên chứng khoán mua bán tại thị trường OTC rất đa dạng và đông đảo, nó bao gốm cả các chứng khoán chưa đủ điều kiện niêm yết giá và chưa muốn yết giá trên Sở giao dịch. Lượng giao dịch và giá trị giao dịch là lớn hơn nhiều so với mua bán tại Sở giao dịch (theo thống kê của các nước phát triển). Ngoài hai hình thức trên : giao dịch tại Sở giao dịch và giao dịch tại thị trường OTC, trên thị trường tài chính thực tế còn tồn tại một bộ phận các giao dịch mua bán trực tiếp giữa những người sở hữu chứng khoán. Thị trường này có thể gọi là thị trường tự do hay thị trường chợ đen. Các thị trường này xuất hiện đầu tiên trong lịch sử phát triển thị trường tài chính. Tuy nhiên quy mô của chúng không lớn lắm độ rủi ro lại cao và chỉ có ý nghĩa tại các nước mới hình thành thị trường tài chính. 3. KẾT LUẬN Như vậy, thị trường tài chính được chia thành nhiều thị trường khác nhau tùy theo các tiêu chí như: thời hạn luân chuyển vốn, cách thức huy động vốn, tính chất phát hành các công cụ tài chính, …. Theo mối tiêu chi, người ta có thể phân loại thị trường tài chính thành thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường nợ, thị trường vốn cổ phần hay thị trường sơ cấp, thị trường thứ cấp, thị trường tập trung và phi tập trung. Tuy nhiên, dù được phân chia hay cấu trúc như thế nào, thị trường tài chính vẫn đóng vai trò là cầu nối giúp cho nguồn vốn vận động từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn, làm cho quá trình lưu chuyển vốn nhanh chóng, giúp thu hút và huy động các nguồn tài chính nhàn rỗi tạm thời đưa vào sản xuất kinh doanh, mang lại lợi ích cho các chủ thể tham gia thị trường, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Mặt khác, trong thị trường tài chính, vì người cần vốn phải trả chi phí sử dụng vốn nên phải cân nhắc, lựa chọn các dự án đem lại hiệu quả cao; và người có vốn tạm thời nhàn rỗi sẽ có nhiều cơ hội lựa chọn hình thức và thời điểm đầu tư thích hợp, tất cả đem lại sự nâng cao hiệu quả của việc sử dụng vốn trong nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chính sách mở cửa, cải cách kinh tế của Chính phủ./. TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách chuyên khảo: Tài chính phát triển của GS.TS. Nguyễn Thị Cành (Chủ biên), NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh – 2011. Sách “Các nguyên lý tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính” của các tác giả: PGS.TS. Nguyễn Văn Luân, Trần Việt Hoàng, Cung Trần Việt, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Cuốn “The Economics of Money, Banking and Financial Markets”, 7th Edition của Frederic S. Mishkin, Đại học Columbia. Bản dịch “Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính” của Nguyễn Quang Cư và Nguyễn Đức Dy. Tham khảo các trang điện tử:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docuyd9ogtia-rogatygo8ai[0oghaperuiugtao (1).doc