Sharp là thương hiệu điện tử quen thuộc đối với 
người tiêu dùng Việt Nam và thành công của Sharp 
có một phần rất lớn bắt nguồn từ chiến thuật phát 
triển chủng loại mới. 
              
                                            
                                
            
 
            
                 19 trang
19 trang | 
Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1421 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Chiến lược chủng loại mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chiến lược chủng loại mới 
Sharp là thương hiệu điện tử quen thuộc đối với 
người tiêu dùng Việt Nam và thành công của Sharp 
có một phần rất lớn bắt nguồn từ chiến thuật phát 
triển chủng loại mới. 
Sharp chưa bao giờ là mối đe dọa đối với “đại gia” Sony 
cho đến khi họ quyết định tạo dựng chủng loại mới là tivi 
màn hình tinh thể lỏng (LCD). Từ hướng đi này, năm 2004, 
Sharp xuất khẩu được 1,9 triệu chiếc tivi LCD hiệu Aquos, 
vượt xa con số 968.000 chiếc của Sony, dù giá của Aquos 
cao hơn rất nhiều các sản phẩm tivi khác. Tuy nhiên, vài 
năm gần đây, Sharp mất dần vị trí đứng đầu chủng loại tivi 
LCD khi các đối thủ tiếng tăm nhảy vào. 
Câu chuyện của Sharp cho thấy, phát triển chủng loại mới 
là chiến lược giúp doanh nghiệp đến sau tạo được chỗ đứng 
trên thị trường. Tuy nhiên, nó cũng có thể phản tác dụng 
nếu doanh nghiệp không trả lời được 3 câu hỏi lớn trước 
khi bắt đầu thực hiện chiến thuật này. Ba câu hỏi đó là: 
Chiến thuật nào để tạo ra chủng loại mới? Quảng bá cho 
chủng loại mới như thế nào? Chủng loại mới sẽ tồn tại 
được bao lâu? 
Tuy nhiên, trước khi bắt đầu thực hiện chiến lược chủng 
loại mới, doanh nghiệp cần chuẩn bị tinh thần rằng, dù có 
nhiều lợi thế nhưng làm người đi tiên phong luôn là một 
thử thách. Và vượt qua được thử thách tinh thần để dám đi 
tiên phong là yếu tố đầu tiên quyết định thành công. 
Vứt bỏ 2 nỗi lo 
Nhiều thương hiệu lớn trên thế giới đã làm nên những cuộc 
cách mạng khi thực hiện chiến lược “chủng loại mới”. Red 
Bull, nhãn hàng nước uống tăng lực đầu tiên trên thị trường 
của Công ty Red Bull GmbH (một công ty có nguồn gốc từ 
Thái Lan nhưng nay đã được chuyển trụ sở về Áo) và đến 
nay nó vẫn giữ vị trí dẫn đầu trên thị trường nước tăng lực. 
Starbucks, doanh nghiệp đầu tiên xây dựng chuỗi cửa hàng 
cà phê cao cấp tại Mỹ, đã trở thành chuỗi cửa hàng lớn nhất 
trên thế giới với doanh thu khoảng 12,6 tỉ USD năm 2006, 
tăng 22% so với năm 2005. Mont Blanc là nhãn hiệu viết 
máy cao cấp đầu tiên. eBay là website đấu giá trực tuyến 
đầu tiên. YouTube là website đầu tiên cho phép người truy 
cập mạng có thể trao đổi các đoạn phim video. Những 
thương hiệu này đã thành công khi phát triển chủng loại sản 
phẩm mới vì dám vứt bỏ 2 nỗi lo: thời gian và quy mô thị 
trường. 
Là những người đi tiên phong nhưng các doanh nghiệp nói 
trên đã không hề nóng vội và thành công của họ cũng 
không đến tức thời. Starbucks đã mất gần 10 năm kể từ khi 
thành lập mới đạt được mức doanh thu 50 triệu USD. 
Tương tự, Zara, hệ thống cửa hàng quần áo ứng dụng mô 
hình sản xuất cung ứng tinh gọn (lean manufacturing) đầu 
tiên tại Tây Ban Nha, với 760 cửa hàng tại 55 quốc gia, đã 
mất hơn 13 năm mới có thể mở rộng quy mô. 
Bên cạnh thời gian, doanh nghiệp cần khống chế sự lo lắng 
về quy mô thị trường khi quyết định tạo ra chủng loại mới. 
Vì khi tạo ra chủng loại mới, quy mô của thị trường cho 
chủng loại này sẽ bằng 0. Tuy vậy, nếu cứ lo lắng về con số 
0 này thì thế giới không có những thương hiệu lớn! 
Hãy nhìn vào quá trình phát triển của máy nghe nhạc 
Walkman của hãng điện tử Sony. Trước khi thương hiệu 
này xuất hiện, quy mô thị trường máy nghe nhạc cầm tay 
chỉ là con số 0. Theo thời gian, Sony đã bán được vài trăm 
triệu chiếc Walkman mỗi năm. Thời gian đầu thành lập 
Starbucks, không ai muốn trả 3 USD cho một tách cà phê. 
Nhưng nếu Starbucks cứ lo lắng đến quy mô thị trường lúc 
đó có lẽ họ đã không thể thành công như hôm nay. Tương 
tự là xe hơi Lexus. Trước khi Lexus (dòng xe cao cấp của 
hãng Toyota) ra đời, thị trường không hề tồn tại dòng xe 
hơi cao cấp của Nhật mà chỉ có các dòng xe châu Âu như 
Mercedes - Benz, BMW hay Audi. Đến khi Lexus trình 
làng mẫu LS400 vào năm 1990, thị phần của các thương 
hiệu nước ngoài nói trên nhanh chóng bị chia sẻ với “đại 
gia” nội địa mới nổi. 
Sau khi loại bỏ 2 nỗi lo, các doanh nghiệp này mới bắt đầu 
chọn chiến thuật riêng để thực hiện chiến lược phát triển 
chủng loại mới. Đó là những chiến thuật nào? 
Từng phần, cải tiến hay biến dạng 
Dù sản phẩm, xuất xứ và thị trường khác nhau, nhưng tựu 
trung chiến lược phát triển chủng loại mới của các doanh 
nghiệp nói trên đều xuất phát từ 3 chiến thuật quan trọng. 
Từng phần 
Đây là chiến thuật dễ thực hiện nhất để tìm ra chủng loại 
mới. Theo đó, từ một sản phẩm hoàn chỉnh sẵn có trên thị 
trường, doanh nghiệp phân tích từng thành phần hay chức 
năng của nó để tìm ra một bộ phận phù hợp nhất với doanh 
nghiệp mình và tập trung phát triển bộ phận đó. 
Đây là chiến thuật điển hình cho thành công của nhiều 
thương hiệu lớn. Chẳng hạn, thay vì sản xuất chiếc máy 
tính hoàn chỉnh, các doanh nghiệp trong lĩnh vực công 
nghệ chỉ tập trung vào một phần của chiếc máy tính. Intel 
chọn bộ vi xử lý máy tính như một chủng loại mới chủ lực 
của họ. Với sản phẩm chủ lực này, Intel đã đạt mức lợi 
nhuận cao hơn so với các nhà sản xuất máy tính lớn như 
Dell. Creative Technology (Singapore) chọn card âm thanh 
máy tính làm chủng loại mới. BlackBerry chọn chức năng 
“gửi email như máy tính” cho điện thoại của họ. Đến nay, 
BlackBerry vẫn dẫn đầu về công nghệ tích hợp điện thoại 
di động với máy tính. 
Chiến thuật từng phần này còn được mở rộng hơn là tìm 
kiếm những “đại dương xanh” trong một ngành hàng. 
Chẳng hạn, trong ngành dệt may, Giordano lấy trang phục 
hằng ngày làm chủng loại chính, trong khi Victoria’s Secret 
chỉ kinh doanh trang phục lót. 
Ở Việt Nam, có thể lấy ví dụ về sự xuất hiện của chuỗi nhà 
hàng lẩu nấm Ashima. Định vị của Ashima là chỉ kinh 
doanh lẩu nấm và những sản phẩm từ nấm. Định vị này tuy 
hẹp nhưng không hạn chế việc mở rộng danh mục sản 
phẩm khi gặp phải áp lực kinh doanh. Họ hoàn toàn có thể 
mở rộng biên độ ra những sản phẩm phụ khác từ nấm như 
soup nấm, bún nấm, canh nấm, phở nấm hay nhiều sản 
phẩm khác được làm từ nấm. 
Cải tiến 
Cải tiến là chiến thuật làm mới sản phẩm hiện có, mở đầu 
cho một chủng loại mới. Chiến thuật này phù hợp với 
những doanh nghiệp đến sau, phải đương đầu với các đối 
thủ lớn. 
Đơn cử như chiếc máy đánh chữ. Remington Rand là công 
ty dẫn đầu trong ngành sản xuất máy đánh chữ cơ học. 
Brother là công ty đến sau và họ đã cải tiến bằng cách cho 
ra đời chiếc máy đánh chữ chạy bằng điện. Sự cải tiến này 
rất phù hợp với quy luật phát triển và Brother nhanh chóng 
vươn lên chiếm vị trí dẫn đầu. Tiếp đó, Công ty Wang 
Laboratories (Mỹ) nhảy vào thị trường, trình làng máy 
đánh chữ có bàn phím tiện dụng hơn, đánh gục máy đánh 
chữ chạy bằng điện của Brother. Vào thời kỳ phát triển cực 
thịnh những năm 1980, Wang Laboratories đã đạt mức 
doanh thu trung bình hằng năm đến 3 tỉ USD với hơn 
40.000 nhân công. Nhưng sau đó, sản phẩm của Wang lại 
bị thay thế bởi dòng sản phẩm mới là máy tính cá nhân của 
hãng Compaq. Rõ ràng, trâu chậm không phải bao giờ cũng 
uống nước đục. 
Tại Việt Nam, tình hình cạnh tranh trên thị trường nước 
tăng lực là một ví dụ tiêu biểu của chiến thuật này. Red 
Bull là thương hiệu nước tăng lực đầu tiên có mặt trên thế 
giới cũng như tại Việt Nam dưới dạng lon. Để cạnh tranh, 
Công ty Tân Hiệp Phát (Việt Nam) đã cho ra đời nước tăng 
lực Number One dưới dạng chai và nhanh chóng tạo được 
chỗ đứng trên thị trường. 
Biến dạng 
Biến dạng được hiểu đơn giản là sản phẩm gốc sẽ được 
biến hóa khác đi để hình thành sản phẩm mới. Và sản phẩm 
này có thể tồn tại song song với sản phẩm gốc. 
Trong suốt một thời gian dài, Microsoft là công ty thống trị 
thị trường phần mềm máy tính. Theo thời gian, nhiều phần 
mềm mới ra đời được hình thành từ phần mềm gốc của họ. 
Chẳng hạn, Công ty Oracle với phần mềm dữ liệu; 
Symantec, Ad-Aware với phần mềm diệt virus; Siebel với 
phần mềm quản lý khách hàng; Datastream với phần mềm 
quản lý tài sản. 
Trở lại với thị trường nước tăng lực tại Việt Nam, chiến 
thuật biến dạng được thể hiện khá rõ qua sản phẩm Sting 
Dâu (của Công ty PepsiCo). Do nhảy vào thị trường chậm 
hơn Red Bull và Number One thị phần của Sting còn khiêm 
tốn. Năm 2005, Pepsi “trình làng” Sting Dâu dựa trên công 
thức pha chế nước tăng lực thông thường và thêm vào đó 
hương vị dâu. Kết quả? Nếu vẫn phát triển nước tăng lực 
với hương vị thông thường, Sting có lẽ đã khó giành được 
miếng bánh thị phần béo bở mà Red Bull và Number One 
đang sở hữu. 
BlackBerry chọn chiến thuật “từng phần”, tập trung vào 
chức năng gửi và nhận email trên điện thoại di động làm 
thế mạnh cạnh tranh. 
Coca-Cola hiện là thương hiệu lớn nhất thế giới. Họ đã tiên 
phong tạo ra loại nước giải khát có gas mang tên Cola. 
Quảng bá: Công cụ mở rộng thị trường 
Chọn được 1 trong 3 chiến thuật trên, doanh nghiệp sẽ tiến 
đến bước quan trọng tiếp theo là quảng bá thương hiệu. 
Tuy nhiên, câu hỏi quan trọng nhất đặt ra cho doanh nghiệp 
giai đoạn này là phải quảng bá thương hiệu nào: thương 
hiệu sản phẩm hay thương hiệu của doanh nghiệp? 
Cần khẳng định ngay rằng hoạt động quảng bá này phải tập 
trung vào thương hiệu sản phẩm, chứ không phải thương 
hiệu của doanh nghiệp. Bài học dầu gội đầu dành cho nam 
giới X-men của Công ty Cổ phần Hàng gia dụng Quốc tế 
(ICP) đã minh họa khá rõ cho nhận định này. Trong suốt 
nhiều năm, ICP đã ẩn danh và chỉ quảng bá thương hiệu X-
men với khẩu hiệu “đàn ông đích thực”. Kết quả là X-men 
đã thâm nhập tốt vào thị trường dầu gội đầu của nam giới 
khi xung quanh là các đàn anh như Romano (của Unza), 
Clear (của Unilever) và Head&Shoulder (của P&G). 
Cũng cần lưu ý rằng khi doanh nghiệp tập trung quảng bá 
thương hiệu cho chủng loại sản phẩm mới, các đối thủ chắc 
chắn cũng không ngồi nhìn. Họ cũng sẽ tham gia vào thị 
trường tiềm năng mà doanh nghiệp vừa mở ra. 
Doanh nghiệp phải xem đây là chuyện đương nhiên, bởi 
ngay cả đại gia Coca-Cola cũng phải đối mặt với sự cạnh 
tranh này. Ở giai đoạn đầu phát triển, Coca-Cola đi tiên 
phong, chiếm trọn thị trường nước giải khát có gas. Đến khi 
họ quảng bá rầm rộ thì hàng loạt đối thủ khác cũng vào 
cuộc, tranh giành thị phần. Tuy nhiên, điều đáng nói là khi 
đó, dù có giai đoạn chỉ chiếm 30% thị phần thế giới, nhưng 
doanh thu của Coca-Cola lại đạt đến 5 tỉ USD, vượt xa mức 
100 triệu USD khi họ còn chiếm hoàn toàn thị phần. Vì sao 
vậy? Đó là vì sự tham gia và quảng bá rầm rộ của các đối 
thủ đã khiến cho chiếc bánh thị phần được nở ra, từ đó 
Coca-Cola cũng được hưởng lợi. Một phần của chiếc bánh 
lớn vẫn lớn hơn cả chiếc bánh nhỏ! Ngày nay, thị phần 
Coca-Cola càng bị chia sẻ nhiều hơn nhưng họ vẫn không 
ngừng theo đuổi mục tiêu ban đầu và khẳng định vị thế của 
thương hiệu lớn. 
Tuy nhiên, không có sản phẩm nào là mới mãi mãi. Đến 
một lúc nào đó, có lẽ không lâu, chủng loại mới sẽ trở 
thành chủng loại cũ, lạc hậu, mất khả năng cạnh tranh. Vậy, 
doanh nghiệp phải làm gì? 
Tự sinh, tự diệt để tái sinh 
Lối ra duy nhất cho doanh nghiệp có chủng loại sản phẩm 
bị “cũ hóa” là tự hủy diệt chủng loại ấy và tiếp tục cho ra 
đời chủng loại khác. Trên thế giới, Intel, Microsoft và Sony 
đã rất thành công trong bước đi này. 
Với chiến lược cho ra đời, từ bỏ rồi lại tiếp tục cho ra đời 
hàng loạt bộ vi xử lý 286, 386, 486, 586, Pentium I, 
Pentium II, Pentium III, Pentium IV, Pentium D, Celeron, 
Centrino, Core Duo, Core 2 Duo, Quad Core, khó có công 
ty nào cạnh tranh lại Intel cũng như làm cho sản phẩm của 
Intel lỗi thời. 
Microsoft luôn giữ vị trí dẫn đầu về sản phẩm hệ điều hành 
cũng vì biết tự giết đi và thay thế. Theo sau Windows 95 
không lâu là Windows 98, Windows 2000, Windows NT, 
Windows ME, Windows XP, Windows XP Pro và hiện nay 
là Windows Vista. 
Đáng chú ý là câu chuyện của Sony. Trước kia, Sony tiên 
phong cho ra đời máy nghe nhạc (cassette) xách tay Sony 
Boombox, để người tiêu dùng có thể xách tay hoặc mang 
trên vai. Sau đó, với xu hướng tiêu dùng các sản phẩm nhỏ 
gọn, Sony nhanh chóng trình làng máy nghe nhạc bỏ túi 
Walkman. Chính Walkman đã giết chết người anh ruột 
Boombox. Chưa dừng lại ở đó, Sony tiếp tục tự cải tiến để 
cho ra chủng loại mới là máy nghe nhạc bỏ túi chạy bằng 
đĩa CD. Nhưng rồi Sony đã “chựng” lại, không giới thiệu 
thêm sản phẩm mới nào nữa. Apple nhanh chóng nắm bắt 
cơ hội phát triển chủng loại mới dựa trên nền tảng các sản 
phẩm trước đó của Sony, đó là chiếc máy nghe nhạc MP3 
iPod vẫn đang làm mưa làm gió trên thị trường. 
Như vậy, nếu một doanh nghiệp sản xuất máy nghe nhạc 
muốn cạnh tranh với Apple, họ phải làm thế nào? Có lẽ vẫn 
là sáng tạo ra một chủng loại mới. 
Tuy nhiên, khi thực hiện chiến thuật “tự giết mình để tái 
sinh”, doanh nghiệp phải lưu ý quy tắc quan trọng nhất, đó 
là chủng loại mới phải triệt tiêu hoàn toàn chủng loại cũ và 
không nên dùng lại tên của chủng loại cũ. Bài học xương 
máu của Kodak đã minh chứng cho điều này. 
Năm 1976, Kodak phát minh máy chụp ảnh kỹ thuật số, 
chấm dứt thời kỳ vàng son của máy chụp hình bằng phim 
của chính công ty này. Chủng loại mới của Kodak là một 
bước tiến thực sự, nhưng họ đã vô tình tạo ra 2 sai lầm to 
lớn. 
Thứ nhất, Kodak đã không sử dụng chủng loại mới để triệt 
tiêu hoàn toàn chủng loại cũ. Thứ hai, khi tham gia vào 
cuộc chạy đua sản xuất máy ảnh kỹ thuật số, Hãng vẫn giữ 
tên Kodak. Trong khi đó, cái tên Kodak đã được người tiêu 
dùng gắn liền với sản phẩm máy chụp ảnh bằng phim. 
(*) Ông Phạm Việt Anh là Chủ tịch Hội đồng Thành viên, 
Công ty Left Brain Connectors, chuyên về ý tưởng và 
thương hiệu. 
(*) Bài viết có tham khảo một số ví dụ từ cuốn sách 
Transforming your business into a brand: 10 rules of 
branding của 2 tác giả Jacky Tai và Wilson Chew do Nhà 
xuất bản Marshall Cavendish Business (Singapore) ấn hành 
năm 2007. 
Các thương hiệu lớn nhất thế giới đều được xây dựng từ 
chiến lược chủng loại mới 
Nhìn vào danh sách 100 thương hiệu lớn nhất thế giới năm 
2008 được Interbrand công bố vào tháng 9 vừa qua, có thể 
thấy những thương hiệu thành công nhất đều đi theo chiến 
lược chủng loại mới. 
Coca-Cola 
Giá trị thương hiệu: 66,667 tỉ USD 
Coca-Cola đã mở đường cho một chủng loại thức uống có 
gas mới gọi là Cola vào năm 1886. Khi đó, quy mô thị 
trường của loại nước uống này là con số 0. Cho đến nay, dù 
có rất nhiều đối thủ tham gia vào thị trường này, trong đó 
có đối thủ lớn nhất là Pepsi, nhưng vẫn không thể thay thế 
vị trí dẫn đầu của Coca-Cola. Điều này cho thấy sự ảnh 
hưởng mang tính quyết định của thương hiệu tạo ra chủng 
loại mới. 
IBM 
Giá trị thương hiệu: 59,031 tỉ USD 
IBM không khởi đầu như một công ty máy tính. IBM sản 
xuất mọi loại máy văn phòng như máy tính bỏ túi và máy 
đánh chữ. IBM cũng không phải là người tiên phong trong 
lĩnh vực máy chủ. Vì chiếc máy chủ đầu tiên trên thị trường 
là UNIVAC. Nhưng IBM đã xác định máy chủ là chiến 
lược sản phẩm trung tâm, đã dồn hết tài lực vào công nghệ 
máy chủ. Vì thế, họ đã giành vị trí thống lĩnh trong tâm trí 
khách hàng và xuyên suốt lịch sử công nghệ máy chủ. 
Microsoft 
Giá trị thương hiệu: 59,007 tỉ USD 
Microsoft đã trở thành “ông trùm” của phần mềm. Họ đã 
cho ra đời hệ điều hành 16-bit duy nhất và đầu tiên dành 
cho máy tính cá nhân vào thời điểm các sản phẩm khác chỉ 
sử dụng hệ điều hành 8-bit. Công nghệ của Microsoft đã 
tìm đường đến với mọi máy tính cá nhân của hãng IBM và 
sau đó là các máy tính khác. 
General Electric 
Giá trị thương hiệu: 53,086 tỉ USD 
Nhà phát minh Thomas Edison đã tạo ra một chủng loại 
mới là bóng đèn điện, một sản phẩm mang tính cách mạng. 
Công ty của ông là tiền thân của Tập đoàn General Electric 
và ngày nay dù General Electric trở thành công ty đa ngành 
thì hình ảnh chiếc bóng đèn điện vẫn nằm sâu trong tâm trí 
khách hàng. Đó chính là chủng loại mới đã làm nên tên tuổi 
General Electric, một thương hiệu đã trải qua 115 năm. 
Nokia 
Giá trị thương hiệu: 35,942 tỉ USD 
Nhắc đến Nokia là nhắc đến điện thoại di động. Nhưng 
thực tế, Nokia không hề sáng tạo nên chủng loại này. 
Motorola mới là kẻ tiên phong. Nokia đã từ bỏ hết tất cả 
các ngành kinh doanh khác của họ như giấy, radio, ruột xe, 
giày dép, cao su, cáp, hóa chất, máy móc, tivi và công nghệ 
thông tin để ra sức chiếm lĩnh chủng loại mới này. Dù luôn 
chịu sự cạnh tranh khắc nghiệt từ Motorola, Samsung, Sony 
Ericsson… nhưng Nokia vẫn đứng đầu, chiếm khoảng 35% 
thị phần thế giới. 
Toyota 
Giá trị thương hiệu: 34,05 tỉ USD 
Toyota là nhà sản xuất xe hơi đạt nhiều lợi nhuận nhất thế 
giới, với lãi ròng 18 tỉ USD trong năm 2005-2006. Xe của 
Toyota có thể không đẹp lộng lẫy hay sành điệu bằng xe 
của các thương hiệu khác, nhưng nó rất đáng tin cậy nhờ 
những chuẩn mực về chất lượng của Nhật Bản. Và yếu tố 
đáng tin cậy đó chính là một chủng loại mới mà Toyota đã 
tạo ra. 
Intel 
Giá trị thương hiệu: 31,261 tỉ USD 
Intel một thời từng sản xuất các con chip lưu trữ nhưng gặp 
phải sự cạnh tranh khốc liệt về giá cả từ các công ty Nhật, 
Đài Loan và Hàn Quốc. Intel nhanh chóng từ bỏ việc sản 
xuất các con chip lưu trữ và tập trung vào dòng sản phẩm 
mới là bộ vi xử lý. Nhờ bộ vi xử lý này, Intel trở nên nổi 
tiếng. 
McDonald’s 
Giá trị thương hiệu: 31,049 tỉ USD 
McDonald’s là chuỗi nhà hàng thức ăn nhanh đầu tiên với 
hơn 31.000 nhà hàng tại hơn 100 quốc gia. Năm 2005, 
doanh thu của McDonald’s vào khoảng 31,1 tỉ USD với lãi 
ròng 4,2 tỉ USD. 
Disney 
Giá trị thương hiệu: 29,251 tỉ USD 
Disney đã tạo ra chủng loại mới là phim hoạt hình. Các 
nhân vật như Chuột Mickey, Vịt Donald, Bạch Tuyết… đã 
làm cho Disney sáng mãi trong lòng hàng triệu người. 
Google 
Giá trị thương hiệu: 25,59 tỉ USD 
“Hãy quan tâm đến điều không thể, hãy thử làm những gì 
mà hầu hết mọi người chưa nghĩ tới” là phương châm của 
những người sáng lập Google. Ngày 7.9.1998, khi công cụ 
tìm kiếm qua internet còn là một khái niệm xa lạ với mọi 
người thì 2 sinh viên mới tốt nghiệp Đại học Stanford là 
Larry Page và Sergey Brin đã hợp tác với nhau để thành lập 
một công ty mang tên Google, mở đầu kỷ nguyên tìm kiếm 
qua internet toàn cầu của họ. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 35_2427.pdf 35_2427.pdf