Một cơ cấu mở rộng đa-sản-phẩm hợp lý xoay quanh chủ đề sản
phẩm chính sẽ giúp doanh nghiệp tập đoàn bao phủ thị trường, 
chinh phục nhiều phân khúc khác nhau. Sự hình thành một cơ 
cấu sản phẩm được cho là hợp lý và khả thi đều phải có một cơ 
chế tồn tại song hành thông qua giải pháp thương hiệu, hay cụ 
thể hơn là cơ cấu ‘tên thương hiệu’ và cơ cấu ‘nhận diện thương 
hiệu’. 
              
                                            
                                
            
 
            
                 24 trang
24 trang | 
Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1381 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chiến lược thương hiệu tập đoàn (2), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chiến lược thương hiệu tập đoàn (2) 
Chiến lược mở rộng - sự hình thành một số ‘nhận diện thứ 
cấp’ 
Một cơ cấu mở rộng đa-sản-phẩm hợp lý xoay quanh chủ đề sản 
phẩm chính sẽ giúp doanh nghiệp tập đoàn bao phủ thị trường, 
chinh phục nhiều phân khúc khác nhau. Sự hình thành một cơ 
cấu sản phẩm được cho là hợp lý và khả thi đều phải có một cơ 
chế tồn tại song hành thông qua giải pháp thương hiệu, hay cụ 
thể hơn là cơ cấu ‘tên thương hiệu’ và cơ cấu ‘nhận diện thương 
hiệu’. 
Trong cơ cấu thương hiệu Tập đoàn dầu khí, cụ thể là chiến lược 
mở rộng PETROVIETNAM vừa qua thì PVN đã hình thành 2 
nhóm ngành, một là các Tổng Cty kinh doanh ngành nghề dầu 
khí như PV.OIL, PV.GAS, PTSC, PV.Trans, PV.Power… các 
ngành dịch vụ cốt lõi như tài chính PVFC và dịch vụ mở rộng như 
bảo hiểm PVI… và ngoài ra là các ngành mở rộng mà điển hình 
là DMP (Đạm Phú Mỹ), PV.Tech (polymer, hoá sợi)… và nhất là 
PVC (xây dựng, bất động sản) là một ngành có trên 50% chiến 
lược phảt triển tương lai sẽ mở rộng ra khỏi lĩnh vực dầu khí then 
chốt rất cần một chiến lược mở rộng và xác lập cơ chế thương 
hiệu mở rộng. 
Sau đây là một số ví dụ các thương hiệu tập đoàn mở rộng cấu 
trúc thương hiệu tương xứng với cấu trúc đa ngành: 
Thương hiệu gốc Thương hiệu mở rộng 
Huyndai 
Huyndai-Amco: AMCO là 
phân nhánh xây dựng & công 
nghiệp 
Phân nhánh song lập Huydia 
– Kia cho ngành Ô-tô; phân 
nhánh thương hiệu công ty 
tại mỗi địa phương nhưng 
thống nhất thương hiệu sản 
phẩm (xe hơi) trên toàn cầu. 
Kumho Asiana 
Mở rộng song hành, thống 
nhất logo: 
Mitsubishi, thống 
nhất logo tập đoàn, 
thống nhất logo sản 
phẩm, chỉ phân biệt 
thương hiệu cho 
công ty thành viên. 
Dưới góc độ thương hiệu một định vị chiến lược mang tính khái 
quát hơn so với định vị hình ảnh thương hiệu. 
Các hệ thống nhận diện thương hiệu được thiếp lập một cách 
chuyên nghiệp là cơ sở vững chắc cho chiến lược thương hiệu 
thành công. Thương hiệu là một trong những lợi thế cạnh tranh 
vượt khỏi rào cản thương mại trong một môi trường pháp lý toàn 
cầu hoá lành mạnh. 
(3) Sự mở rộng Quy chế thương hiệu tập đoàn (xem thêm chú 
thích II) 
Có thể nói PETROVIETNAM là đơn vị đầu tiên trên cả nước xây 
dựng bảng Quy chế Thương hiệu, có thể xem đây là bước đột 
phá trong tư duy quản trị lấy thương hiệu làm một trong những 
công cụ quản trị trung tâm và mang lại hiệu quả thiết thực. Quy 
chế này bước đầu đã xác định các yếu tố chiến lược và quản trị 
thương hiệu có liến quan đến doanh nghiệp, bao gồm: quy chuẩn 
thương hiệu, hệ thống nhận diện thương hiệu, chiến lược mở 
rộng, cấu trúc thương hiệu công ty; vấn đề đầu tư và khai thác 
giá trị thương hiệu… cũng từ mô hình quản trị thương hiệu do 
quy chế đã thiết lập xác định rằng ‘thương hiệu là trung tâm’ của 
chiến lược phát triển, thương hiệu vừa là mục đích, lại vừa là 
phương tiện. 
Tuy vậy phạm vi tiếp cận của Bảng Quy chế Thương hiệu hiện tại 
của PETROVIETNAM còn chưa đề cập đến các vấn đề quan 
trọng cơ bản khác. Đó là cấu trúc thương hiệu công ty & thương 
hiệu sản phẩm; cấu trúc mở rộng đối trọng với tập trung hoá; sự 
phân chia trách nhiệm giữa trung ương và địa phương, giữa 
‘trên-ngạch’ và ‘dưới ngạch’. 
Việc làm rõ hơn nữa các nhóm giải pháp và chuẩn hoá quản trị 
đối với Quy chế Thương hiệu Tập đoàn sẽ tất yếu dẫn đến sự 
hình thành các Quy chế Bổ sung Thương hiệu cấp Tổng Công ty 
và Thương hiệu Sản phẩm. Trong đó điểm hình của việc cho 
phép thiết lập vai trò ‘thương hiệu thứ cấp’ (a) thông qua quy chế 
thương hiệu của tổng công ty và chuẩn hoá các thương hiệu sản 
phẩm (b) là điều hết sức cần thiết để công nhận sự tồn tại và tầm 
quan trọng của ‘thương hiệu sản phẩm’ và ‘thương hiệu thứ cấp 
(công ty) tạo ra sự chủ động và tính năng động của các đơn vị 
kinh tế thành viên, cụ thể hơn nữa đó là thiết lập hình ảnh thương 
hiệu, tính cách & bản sắc thương hiệu thích ứng với sản phẩm & 
ngành nghề và đặc trưng của từng nhóm khách hàng của công ty 
thành viên hoặc của từng dòng sản phẩm được mở rộng so với 
tập hợp khách hàng truyền thống của thương hiệu tập đoàn. 
Cụ thể hơn, đối vớ tình huống (b) đó là thương hiệu Vidamo, cần 
phải được xác lập Vidamo với tư cách là thương hiệu sản phẩm 
đại diện cho nhóm sản phẩm dầu-nhớt với tính chất sản phẩm và 
khách hàng mục tiêu hoàn toàn khác với thương hiệu tập đoàn là 
PETROVIETNAM. Vidamo bằng sự năng động của mình sẽ trở 
thành ‘nhà sản xuất dầu nhớt chuyên nghiệp’ để có thể sánh 
ngàng với các thương hiệu quốc tế như Castrol hay Caltex, chứ 
không phải là Conoco-Phillip hay Halliburton. 
Đối vớ tình huống (a) chúng ta có thể đơn cử tình huống tổng 
công ty PVC (xây lắp dầu khí) có 50% sứ mệnh hoàn toàn khác 
với sứ mệnh ngành nghề cốt lõi của tập đoàn PetroVietnam; đó là 
hình ảnh một thương hiệu PVC với tầm nhìn dẫn đầu lĩnh vực bất 
động sản thương mại, hay nói cách khác là một kênh đầu tư hiệu 
quả nhất của dòng tiền xuất phát từ ngành cốt lõi là dầu khí. Đây 
là một động thái chiến lược mà các nước Trung Đông đang thực 
hiện một cách mạnh mẽ sau nhiều thập kỷ sống nhờ vào nguồn 
tiền khai thác vàng đen đang ngày một cạn kiệt trên khắp thế giới. 
Các tập đoàn Hàn Quốc trong 10 năm trở lại đây đã hình thành 
một cơ cấu chiến lược từ các tổng công ty hoạt động tự phát trên 
phạm vi quốc tế đã được hệ thống hoá dựa trên những nguyên lý 
quản trị tiên tiến và dựa trên sự củng cố và khai thác sức mạnh 
Thương hiệu và sức lan toả của hệ thống Phân phối. Các ví dụ 
trên đây cũng đề cập tình huống Huyndai và Kumho Asiana như 
là những trường hợp điển hình trong việc mở rộng cấu trúc 
thương hiệu tập đoàn để đáp ứng sự đa dạng trong chiến lược 
phát triển, tạo điều kiện tiếp cận các mảng kinh doanh khác nhau 
với nhiều ngành nghề đa dạng. 
Thương hiệu tập đoàn và mộ hệ thống phức tạp về phạm vi, số 
lượng, chiến lược và mối quan hệ cơ cấu. 
Quy chế thương hiệu tập đoàn là một dạng văn bản pháp quy tối 
cao có giá trị trong toàn hệ thống tập đoàn và chi phối hành vi 
chiến lược của tất cả các đơn vị thành viên. Quy chế thương hiệu 
tập đoàn là nội dung khái quát và kết hợp giữa (I) chiến lược 
thương hiệu, chiến lược marketing tập đoàn, và (II) hệ thống 
pháp lý liên quan đến thương hiệu nói chung và cơ cấu thương 
hiệu tập đoàn nói riêng, và (III) những quy định chi tiết trong hệ 
thống nhận diện thương hiệu. 
Trong thực tế quản trị, bộ quy chế thương hiệu tập đoàn có thể 
thay thế cho hàng loạt các quyết định, chỉ đạo liên quan đến 
thương hiệu trong hàng chục, hàng trăm công ty thành viên của 
tập đoàn mà có thể các quyết định khác nhau ở từng thời điểm 
luôn gặp phải sự bất cập (tactical) thiếu tầm nhìn và cơ sở 
chuyên môn. Từ đó dẫn đến những sai lầm và hậu quả cho hệ 
thống quản trị và kết quả kinh doanh. 
Một quy chế thương hiệu tập đoàn được thiết lập và soạn thảo tốt 
sẽ gia tăng hiệu quả quản trị chiến lược cho doanh nghiệp; tạo ra 
sự khác biệt rất lớn so với các đối thủ còn lại nếu không có sự áp 
dụng chiến lược tiếp thị thương hiệu ở mức độ cao. 
(4) Chiến lược gắn nhãn trong cơ cấu tên thương hiệu 
Có khá nhiều các mô thức gắn nhãn khác nhau có thể áp dụng 
trong một cơ cấu thương hiệu tập đoàn. Tổng cộng có đến 8 mô 
thức gắn nhãn khác nhau có thể áp dụng trong cơ cấu gắn nhãn 
thương hiệu tập đoàn. Có thể đơn cử các mô thức như (a) main 
brand - sub brand, (b) mô thức master hay umbralla brand, (c) mô 
thức gắn nhãn bảo chứng tức endorsement branding, (d) mô thức 
niché branding, (e) mô thức parity branding, tức là mô thức cặp 
thương hiệu song trùng, (f) mô thức thương hiệu chứng nhận 
(certificating brand), (g) mô thức thương hiệu chủ đề (thematic 
brand), (h) mô thức sứ giả thương hiệu (ammbassador 
branding)… 
Tuy vậy vấn đề khó lại nằm ở chỗ chúng ta phải biết cách phối 
hợp một cách khéo léo các mô thức này lại với nhau, đồng thời 
quan trọng hơn là chuyển tải mô thức sang mô hình thiết kế trọng 
thực tiễn theo những ngôn ngữ giao tiếp của thương hiệu như là 
brand phonetic (ngôn ngữ giao tiếp thông thường) và brand 
semiotics (ngôn ngữ của ký hiệu, màu sắc và biểu tượng). 
(5) Thương hiệu đồng hành (xem thêm chú thích III) 
Bên cạnh hệ thống thương hiệu công ty (corporate brand) và các 
thương hiệu sản phẩm (product brands) có thể xây dựng các 
thương hiệu truyền thông (hay thương hiệu hình tượng, thương 
hiệu chủ đề) các thương hiệu này sẽ góp phần làm phong phú 
hình ảnh và tính cách cho thương hiệu tập đoàn (the master 
brand). Chẳng hạn Heineken trong hệ thống truyền thông của 
mình có các ‘thương hiệu chủ đề’ áp dụng song hành tronh chiến 
lược tài trợ như Heineken - World of Tennis, Heineken - World 
of Golf … với các hệ thống nhận diện riêng biệt so với chuẩn 
nhận diện truyền thống của thương hiệu Heineken Beer. Gần đây 
tập đoàn LG đưa ra thương hiệu chủ đề ‘Health Plus’ thể hiện 
những ứng dụng vượt trội của công nghệ nano vào sản phẩm 
điện tử gia đình (Home Appliances); Tập đoàn Fpt đang bước 
đầu xây dựng khái niệm (brand concept) E-Citizen song hành 
trong chiến lược mới của thương hiệu Tập đoàn Fpt định hướng 
đến người tiêu dùng, một đột phá trong chiến lược tập đoàn Fpt. 
Như chúng tôi được biết, việc PVC đang nghiên cứu khả năng 
thiết lập yếu tố thương hiệu thứ cấp và đồng hành với thương 
hiệu gia đình PETROVIETNAM PVC (thương hiệu chính thống 
ngọn lửa) là một chiến lược đúng. Thương hiệu PVC mới này có 
thể đóng những vai trò (hay sứ mệnh) như sau: 
1. Biểu tượng chất lượng trong lĩnh vực Xây lắp, Dân dụng và 
Bất Động Sản. 
2. Thương hiệu PVC thứ cấp định hướng cho sản phẩm công 
trình xây dựng. 
3. Là biểu trưng logo của format bản thể thương hiệu PVC, 
song lập với bản thể thương hiệu ‘PETROVIETNAM PVC’. 
4. Biểu trưng cho các hoạt động truyền thông cộng đồng mang 
tính hoà nhập và thân thiện. Khác với biểu trưng ‘ngọn lửa’ 
dành cho các hoạt động chính thống mang tầm sứ mệnh 
Quốc Gia. 
Thay lời kết 
Hệ thống nhận diện thương hiệu không chỉ là một công cụ quảng 
bá, mà thực chất nó còn là công cụ quản trị chuyên nghiệp. Đối 
với tập đoàn sự khác biệt còn ở tính chất phức tạp của hệ thống 
nhận diện thương hiệu. Như chúng ta đã biết trong cơ cấu tập 
đoàn có rất nhiều tầng nấc thương hiệu công ty và các lĩnh vực 
khác nhau của sản phẩm và thương hiệu sản phẩm. Vì vậy với 
cơ cấu phức tạp của thương hiệu tập đoàn cũng cần phải có một 
cơ cấu các hệ thống nhận diện thương hiệu được thiết lập đúng, 
bảo đảm hiệu quả thương hiệu cũng như hiệu quả kinh doanh 
ngắn hạn và dài hạn. 
Việc nghiên cứu 7 phương pháp kiến tạo logo cũng giúp khai thác 
các giải pháp mở rộng thương hiệu, đáp ứng được lợi thế song 
lập của 2 định hướng chiến lược vừa tập trung hoá vừa khác biệt 
hoá đối với các thương hiệu (PVC) mà ở đó trên 50% chiến lược 
trong tương lai được khác biệt hoá so với chiến lược kinh doanh 
cốt lõi của tập đoàn (PVN). Nghiên cứu cấu trúc ngôn ngữ 
thương hiệu còn cho thấy những nguyên lý kế thừa & sáng tạo 
đối với các yếu tố hình khối - màu sắc - ngôn ngữ viết là 3 ngôn 
ngữ giao tiếp tĩnh cơ bản của một thương hiệu PVC mới so với 
thương hiệu chủ thể là PVN. 
Chú thích: 
(I) Ngôn ngữ của thương hiệu (brand visual language) 
Đó là một tập hợp các dạng thức ngôn ngữ hay phương thức 
giao tiếp khác nhau. Xét tổng thể chúng ta cần phân biệt 5 dạng 
thức ngôn ngữ khác nhau, bao gồm: (1) Hình ảnh, (2) Màu sắc, 
(3) Chữ viết & tiếng nói, (4) Chuyển động và (5) Âm thanh. Cả 5 
dạng thức này đều được các chuyên gia thương hiệu và sáng tạo 
sử dụng triệt để trong việc thiết lập thương hiệu và từ đó hình 
thành khái niệm “Nhận diện Thương hiệu’. Tuy nhiên dưới góc độ 
cơ bản chúng ta nên tập trung vào nhóm ngôn ngữ tĩnh bao gồm 
3 yếu tố cơ bản đó là (1) Hình tượng, (2) Màu sắc và (3) Chữ 
Viết. Trong quá trình nghiên cứu và thực hành, chúng tôi đúc kết 
thành mô hình 7 phương pháp kiến tạo logo sử dụng nguyên lý tổ 
hợp từ 3 yếu tố trở thành 7 phương án. (sẽ được trình bày trong 
một bài viết khác) 
(II) Nội dung quan trọng trong một quy chế thương hiệu tập 
đoàn phải bao gồm: (a) xác lập vị thế và định vị chiến lược cho 
thương hiệu chính (master brand) và các thương hiệu thành viên; 
(b) cơ cấu thương hiệu, tên thương hiệu công ty; (c) cơ cấu 
thương hiệu sản phẩm; (d) quy định pháp lý của mỗi thương hiệu 
(trade-mark, copyright); (e) cơ chế mở rộng thương hiệu cho mỗi 
thương hiệu (master và main brand); (f) quyền lợi, quyền hạn và 
nghĩa vụ của tập đoàn đối với thương hiệu tập đoàn và thương 
hiệu sản phẩm; (g) quyền lợi và nghĩa vụ của các đơn vị trực 
thuộc và đơn vị thành viên trong tập đoàn đối với các thương 
hiệu do tập đoàn trực tiếp sở hữu hoặc ủy quyền cho các công ty 
con xác lập và sở hữu; (h) quy chế nhượng quyền thương hiệu; 
(8) quy chế đóng góp kinh phí xây dựng thương hiệu; (9) quy chế 
bảo vệ thương hiệu và (10) kỷ luật thương hiệu (brand discipline) 
hay nội quy thực hành và quản trị bản sắc thương hiệu (brand 
equity) đối với từng thành viên, Cá nhân, nhóm thành viên hay cá 
nhân trong tập đoàn. 
(III) Thương hiệu đồng hành là cách gọi không chính thức của 
dạng thức thương hiệu thứ ba, tồn tại song lập với hai dạng thức 
cơ bản là thương hiệu công ty và thương hiệu sản phẩm. Các 
dạng thức đã tìm thấy đối với thương hiệu đồng hành đó là: 
thương hiệu chứng nhận, thương hiệu tài trợ, thương hiệu truyền 
thông, thương hiệu chất lượng, thương hiệu CSR . Trong đó 
thương hiệu Go Green của Toyota thuộc dạng thương hiệu CSR, 
Guinness hình thành bàn đầu là thương hiệu nhà tài trợ sau đó 
trở thành thương hiệu chứng nhận, Pentium Intel là thương hiệu 
chứng nhận chất lượng. ISO9001 là chứng nhận chất lượng, 
PetroVietnamGas V-League là thương hiệu tài trợ, Vietnam 
Airpines cũng có một dạng thức thứ cấp đó là thương hiệu 
Golden Lotus gắn vào nhóm thẻ hội viên và các dịch vụ tiện ích 
trên máy bay (giống như thương hiệu KrisWorld của Singapore 
Airlines)… các thương hiệu đều tạm được xếp vào loại ‘thứ ba’ 
hay ‘thương hiệu đồng hành’ ví dụ như GoGreen tồn tại song 
song với thương hiệu công ty (vd: Công ty Toyota) hay thương 
hiệu sản phẩm (Toyota-Camry, Altis, Vios). Một thương hiệu đồng 
hành tồn tại ban đầu như một dạng thứ cấp (secondary logo) 
nhưng có thể chuển hoá thành một dòng thương hiệu sản phẩm 
mới, dịch vụ mới hay một dạng thương hiệu chứng nhận. Trong 
đó ý tưởng thương hiệu “Green Value” thường được chuyển hoá 
(transform) từ thương hiệu truyền thông sang thương hiệu chứng 
nhận. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 chien_luoc_thuong_hieu_tap_doa1_497.pdf chien_luoc_thuong_hieu_tap_doa1_497.pdf