Những yếu tố nguy cơ của đái tháo đường (ĐTĐ) và bệnh tim mạch 
bao gồm béo phì (đặc biệt béo phì trung tâm) đề kháng insulin, tăng đường 
máu, rối loạn lipoprotein và tăng huyết áp. Giữa nhiều yếu tố cùng tham gia, 
mức cholesterol máu cao đóng một vai trò nổi bật trong cả sự khởi đầu và 
tiến triển xơ vữa động mạch cũng như chuỗi biểu hiện lâm sàng như nhồi 
máu cơ tim (NMCT), đột qụy, bệnh mạch máu ngoại vi và suy tim [1]. 
Những nghiên cứu thực nghiệm đã hỗ trợ trực tiếp vai trò trung tâm của 
cholesterol có lipoprotein có tỷ trọng thấp (LDL) trong bệnh sinh mảng vữa 
[1]. Dựa vào những thử nghiệm lâm sàng về điều trị làm hạ LDL cholesterol 
trong cả dự phòng tiên phát và thứ phát (hình 1), khuyến cáo ATP III (The 
Adult Treatment Panel III) của Chương trình Giáo dục Cholesterol Quốc gia 
(the National Cholesterol Education Program-NCEP) Hoa Kỳ năm 2001 và 
cập nhật năm 2004 đã xác định LDLcholesterol là mục tiêu chính điều trị 
rối loạn lipid dựa trên các mức nguy cơ thấp, trung bình, cao và rất cao với 
các ngưỡng đích khác nhau theo bảng 1 [2,4].
              
                                            
                                
            
 
            
                 18 trang
18 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1456 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Cholesterol có Lipoprotein tỷ trọng thất hay Cholesterol không có Lipoprotein tỷ trọng cao dự đoán bệnh mạch vành tm tốt hơn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cholesterol có Lipoprotein tỷ trọng thất hay 
Cholesterol không có Lipoprotein tỷ trọng 
cao dự đoán bệnh mạch vành tm tốt hơn 
Những yếu tố nguy cơ của đái tháo đường (ĐTĐ) và bệnh tim mạch 
bao gồm béo phì (đặc biệt béo phì trung tâm) đề kháng insulin, tăng đường 
máu, rối loạn lipoprotein và tăng huyết áp. Giữa nhiều yếu tố cùng tham gia, 
mức cholesterol máu cao đóng một vai trò nổi bật trong cả sự khởi đầu và 
tiến triển xơ vữa động mạch cũng như chuỗi biểu hiện lâm sàng như nhồi 
máu cơ tim (NMCT), đột qụy, bệnh mạch máu ngoại vi và suy tim [1]. 
Những nghiên cứu thực nghiệm đã hỗ trợ trực tiếp vai trò trung tâm của 
cholesterol có lipoprotein có tỷ trọng thấp (LDL) trong bệnh sinh mảng vữa 
[1]. Dựa vào những thử nghiệm lâm sàng về điều trị làm hạ LDL cholesterol 
trong cả dự phòng tiên phát và thứ phát (hình 1), khuyến cáo ATP III (The 
Adult Treatment Panel III) của Chương trình Giáo dục Cholesterol Quốc gia 
(the National Cholesterol Education Program-NCEP) Hoa Kỳ năm 2001 và 
cập nhật năm 2004 đã xác định LDL cholesterol là mục tiêu chính điều trị 
rối loạn lipid dựa trên các mức nguy cơ thấp, trung bình, cao và rất cao với 
các ngưỡng đích khác nhau theo bảng 1 [2,4]. 
Bảng 1 Các mức nguy cơ với mục đích hạ LDL [3] 
Các mức nguy cơ LDL mục 
tiêu (mg/dL) 
Nguy cơ rất cao: nhiều đặc tính nguy cơ cao (như 
BMV+ ĐTĐ) 
Đích tối ưu 
< 70 
Nguy cơ cao: BMV và nguy cơ tương đương 
BMV; nguy cơ 10 năm của thang điểm Framingham > 
20%. 
<100 
Nguy cơ cao vừa: nguy cơ 10 năm 10-20% <130, đich 
tối ưu<100 
Nguy cơ tương đối: 2+ yếu tố nguy cơ; nguy cơ 
10 năm < 10% 
<130 
Nguy cơ thấp: 0-1 yếu tố nguy cơ (nguy cơ 10 
năm< 10%) 
<160 
BMV: bệnh mạch vành; ĐTĐ: đái tháo đường. 
Nguy cơ tương đương bệnh mạch vành (BMV) được nêu ở bảng 1 bao 
gồm biểu hiện lâm sàng của thể xơ vữa động mạch không có BMV (cơn 
thiếu máu não thoáng qua hoặc đột quỵ có nguồn gốc từ động mạch cảnh, 
tắc >50% động mạch cảnh), ĐTĐ, và có từ 2 yếu tố nguy cơ trở lên với nguy 
cơ 10 năm >20% đối với BMV nặng [2,3]. Nhóm nguy cơ rất cao bao gồm 
bệnh nhân đã được chẩn đoán BMV kết hợp thêm (1) nhiều yếu tố nguy cơ 
khác (đặc biệt ĐTĐ), (2) Có các yếu tố nguy cơ nặng hoặc ít được khống 
chế (đặc biệt là tiếp tục hút thuốc lá), (3) nhiều yếu tố nguy cơ của hội chứng 
chuyển hoá (đặc biệt là triglycerid máu cao > 200 mg/dL cộng với 
lipoprotein có tỷ trọng cao (HDL) cholesterol máu thấp < 40 mg/dL), (4) hội 
chứng mạch vành cấp [3]. Sau ATP III đã có nhiều thử nghiệm lâm sàng hỗ 
trợ cho quan điểm của NCEP dung mục tiêu chính dựa vào mức LDL 
cholesterol máu cao. Trong đó nổi bật 4 thử nghiệm lâm sàng lớn bao gồm 
HPS (Heart Protection Study) [4], PROSPER (PROspective Study of 
Pravastatin in the Elderly at Risk) [5], ASCOT-LLA (Angio-Scandinavian 
Cardiac Outcomes Trial-Lipid Lowering Arm) [6], và PROVE-IT-TIMI-22 
(Pravastatin or Atorvastatin Evaluation and Infection Therapy- 
Thrombolysis in Myocardial Infarction 22 Investigators) [7] đã chứng minh 
rằng việc giảm LDL-C làm giảm rõ rệt nguy cơ bệnh mạch vành, trong khi 
đó chỉ có một thử nghiệm ALLHAT-LLA [8] không chứng minh được có sự 
khác biệt lớn về mức LDL cholesterol giữa nhóm bệnh và nhóm chứng, và 
không giảm nguy cơ đáng kể. 
 Hình 1. Tương quan giữa mức LDL cholesterol và các biến cố tim 
mạch 
Bảng 2. Thành phần và đặc điểm của các Lipoprotein và Apoprotein 
Tuy nhiên dù LDL cholesterol là mục tiêu chính của điều trị, nhưng 
các yếu tố nguy cơ về lipoprotein khác bên cạnh sự tăng LDL cũng tác động 
đến nguy cơ BMV. Trong số này có mức HDL cholesterol thấp, triglyceride 
tăng [đặc biệt lipoprotein trọng lượng phân tử rất thấp (VLDL) có thành 
phần triglyceride chiếm 55% (Bảng 2 các thành phần và đặc điểm của các 
lipoprotein)], và các LDL nhỏ hạt. "Bộ ba lipid" này được gọi là rối loạn 
lipid sinh xơ vữa (atherogenic dyslipidemia). Do đó, ATP III giới thiệu mục 
tiêu thứ hai trong điều trị được gọi là non-HDL cholesterol (cholesterol 
không HDL) ở bệnh nhân có tăng triglyceride (>200 mg/dL). Non-HDL 
cholesterol tương đương với VLDL + LDL-C (được tính bằng cholesterol 
toàn phần trừ HDL cholesterol) được xem là cholesterol sinh xơ vữa. Mối 
liên quan giữa các thành phần lipoprotein khác nhau được tính như sau: 1/ 
Cholesterol toàn phần = LDL + VLDL + HDL. 2/Cholesterol toàn phần - 
HDL = LDL + VLDL = Non HDL. Theo ATP III mục tiêu non HDL 
cholesterol cao hơn mục tiêu LDL 30 mg/dL. Non-HDL cholesterol được 
xem như là mục tiêu điều trị thứ hai để hạn chế sự sinh xơ vữa mạnh của sự 
kết hợp các các remnant lipoprotein ở những bệnh nhân với tăng triglyceride 
máu [2,9]. Mặc dù điều trị hạ LDL bằng statin liều chuẩn hay liều cao đạt 
mục tiêu đến mức tối ưu các thử nghiệm lâm sang đều cho thấy chỉ giảm từ 
22 đến 35% nguy cơ BMV, do đó vẫn còn tồn tại từ 65- 70% nguy cơ 
BMV. Cho nên, dù có những nghiên cứu ghi nhận mức non-HDL cholesterol 
cao có thể kết hợp một sự gia tăng nguy cơ phát triển BMV, nhưng thật 
không rõ ràng rằng mức non HDL cholesterol tăng có dự báo nguy cơ tim 
mạch như LDL cholesterol không hay chỉ có giá trị dự đoán liên quan một 
số điều kiện nhất định như tăng triglyceride máu. Chính vì vậy những câu 
hỏi đang được đạt ra là 1/ Liệu non HDL cholesterol có dự đoán tiên lượng 
BMV như LDL cholesterol hay không?. 2/ Non HDL cholesterol có dự báo 
tiên lượng nguy cơ BMV tốt hơn LDL cholesterol trong một số trường hợp 
hay trong hầu hết mọi tình huống?. 3/ Khả năng dự báo mạnh của non 
HDLcholesterol khi mức non HDL cholesterol cao có phải phản ảnh sự hiện 
diện triglyceride cao không? Qua đó xem xét VLDL có phải là một yếu tố 
nguy cơ tim mạch độc lập không. 
Trong tiến trình sinh xơ vữa rõ ràng không chỉ đơn thuần vai trò của 
LDL cholesterol mà khi có rối loạn lipid máu thể hiện qua sự mất cân bằng 
giữa yếu tố bảo vệ tim HDL cholesterol, Apo A1 và các yếu tố sinh xơ vữa, 
Apo B-chứa Lp (a) với tăng VLDL, Chylomicron & VLDL remnants, IDL, 
LDL, LDL nhỏ hạt (dense) minh họa qua hình 2. Điều nầy thể hiện qua mức 
non HDL cholesterol đại diện tất cả phân tử lipoprotein sinh xơ vữa bao gồm 
mức VLDL cholesterol là một lipoprotein giàu triglyceride, IDL-C, Lp(a) 
và LDL cholesterol. 
Để xác định chứng cứ lâm sàng về mức dự báo của non HDL 
cholesterol có đáp ứng những câu hỏi trên, trong những năm gần đây đã có 
nhiều nghiên cứu lớn khảo sát vấn đế nầy. Đặc biệt Nghiên cứu Tim 
Framingham (Framingham Heart Study) công bố năm 2006 [10]. Từ số liệu 
của nghiên cứu đoàn hệ Framingham với 2,693 nam, 3,101 nữ đã được dùng 
để phân tích. Tất cả các đối tượng có tuổi từ 30 trở lên chưa có BMV. Thời 
gian theo dõi là 15 năm. Khi kết thúc nghiên cứu ghi nhận có 618 nam và 
372 nữ có BMV. Tỷ lệ BMV là 107.0/10.000 đối tượng /năm (149,7 nam, 
72,7 nữ). Tất cả các thông số lipid đều cho thấy gắn liền với nguy cơ cao 
BMV ở cả nam lẫn nữ. Non HDL cholesterol và LDL cholesterol đều gây 
nguy cơ gia tăng BMV tương tự như nhau và có ý nghĩa P<0.005 (non HDL 
cholesterol: RR 1.008. 95% CI 1.007-1.010; LDL cholesterol: RR 
1.008,95% CI 1.006-1.010). Phân tích giữa VLDL cholesterol và LDL 
cholesterol cho thấy cả hai đều dự báo nguy cơ BMV có ý nghĩa tương tự 
(VLDL cholesterol: RR 1.009, 95% CI 1.006 to 1.012; LDL cholesterol: RR 
1.008, 95% CI 1.006 to 1.010). Không có sự liên quan giữa mức VLDL 
cholesterol và LDL cholesterol được tìm thấy P >0.05. Nguy cơ BMV đối 
với non HDL cholesterol và LDL cholesterol được thể hiện qua hình 3 [10]. 
Qua đó ghi nhận không có sự liên quan được tìm thấy giữa mức non HDL 
cholesterol và mức LDL cholesterol với nguy cơ BMV, nghĩa là non HDL 
cholesterol càng cao và mức LDL cholesterol thấp thì nguy cơ tim mạch vẫn 
cao (hình 3a), trong khi đó có một sự kết hợp liên đới giữa các mức LDL cao 
và các mức non HDL cholesterol cao với nguy cơ tim mạch, nghĩa là LDL 
cholesterol càng cao và non- HDL cholesterol càng cao thì nguy cơ tim 
mạch càng cao. Khi phân tích được lập lại dựa vào mức triglyceride <200 so 
với >200mg/dl được thể hện qua hình 3b. Những đối tượng có mức 
triglyceride >200mg/dl nguy cơ tim mạch là tương tự như hình 3a, nguy cơ 
tim mạch không thay đổi có ý nghĩa. Nhưng những đối tượng có mức 
triglyceride < 200mg/dl ghi nhận có sự liên quan giữa mức LDL cholesterol 
cao và nguy cơ tim mạch với mức non HDL cholesterol (hình 3b). Khái 
quát chung, tỷ lệ BMV có sự liên quan mạnh với non HDL cholesterol trong 
mỗi mức LDL cholesterol hơn là đối với LDL cholesterol trong mỗi mức 
non HDL cholesterol không xem xét mức triglyceride. Chính vì vậy các tác 
giả của ngiên cứu nầy đã kết luận mức cholesterol không HDL dự báo nguy 
cơ BMV cao hơn LDL cholesterol một mình; VLDL có thể đóng một vai trò 
quan trọng trong phát triển bệnh tim mạch [10]. Năm 2008, một phân tích 
nhánh của nghiên cứu PROVE- IT TIMI 22 ghi nhận bệnh nhân có hội 
chứng mạch vành cấp (HCMVC) nhập viện nếu điều trị đạt cùng lúc cả ba 
mục tiêu LDL tối ưu <70mg/dl, CRP thấp <2 và triglyceride <150mg/dl thì 
nguy cơ chết, NMCT và HCMVC tái phát trong 30 ngày đầu thấp nhất (hình 
4a). Nếu đạt mục tiêu LDL tối ưu 
150mg/dl thì nguy cơ chết, NMCT, HCMVC tái phát trong vòng 30 ngày 
đầu không có sự khác biệt có ý nghĩa so với mức LDL cholesterol >70mg/dl. 
(hình 4b) cho thấy vai trò của triglyceride mà chiếm thành phần chủ yếu 
trong VLDL là quan trọng[11] lần nữa đã ủng hộ cho việc dùng mục tiêu 
non HDL cholesterol hoặc Apo B như mục tiêu chính điều trị mới cho liệu 
pháp statin trong rối loạn lipoprotein. Ngoài ưu điểm chứng cứ dự đoán vượt 
trội hơn LDL cholesterol nêu trên của non HDL cholesterol và Apo B, xét 
nghiệm tính non HDL cholesterol khá đơn giản, giá rẻ hơn, không cần xét 
nghiệm lúc đói. Hy vọng trong khuyến cáo cập nhập ATP IV trong năm 
2009 sẽ xác định sự thay đổi này. 
Hình 2. Rối loạn lipoprotein sinh xơ vữa 
 Hình 3 a.b. Non HDL dự đoán BMV cao hơn LDL cholesterol. 
Nghiên cứu Tim Framingham 
Hình 4a,b. Phân tích nghiên cứu PROVE IT-TIMI 22 với tỷ Hazard 
chết NMCT và hội chứng mạch vành tái phát sau 30 ngày khi nhận các 
muu5c tiêu LDL, CRP và Triglyyceride [11]. 
Hiện nay trong điều trị rối loạn các lipoprotein để đạt các mục tiêu 
non HDL cholesterol, LDL cholesterol và Apo B thì liệu pháp thay đổi lối 
sống, luyện tập gắng sức vẫn là nền tảng, trong đó nổi bật những chứng cứ 
mới về tiết thực Địa Trung Hải với chế độ ăn nhiều tỏi, rau, trái cây, ngũ cốc 
nguyên hạt, đậu phụng, cá, thịt gia cầm cũng như giảm chất béo bão hoà và 
chất béo toàn phần đã được chứng minh giảm tỷ lệ tử vong chung và tử vong 
tim mạch [9,13]. Nghiên cứu Melbourne Collaborative Cohort Study (1990 -
1994); thực hiện ở 46.653 người tại Úc trong đó có 24% sinh tại Địa Trung 
Hải đã tuân thủ chế độ ăn Địa Trung Hải ghi nhận giảm 34% tử vong chung, 
giảm 46% bệnh tim mạch ở người không có tiền sử bệnh tim mạch (hình 5) 
[13]. Một nghiên cứu lớn khác là Nghiên Cứu Tiết thực và Sức khỏe NIH 
AARP của Hoa Kỳ công bố 12/2007. Nghiên cứu theo dõi tử vong trong 10 
năm từ 1995 -2005 trên 214.284 nam và 166.012 nữ tuân thủ chế độ ăn Địa 
Trung Hải, ghi nhận tử vong chung giảm 21%, tử vong tim mạch giảm 22% 
tử vong ung thư giảm 17% [14]. Không thể giải thích các ích lợi của chế độ 
ăn Địa Trung Hải qua một thành phần thức ăn riêng biệt nào, nhưng người ta 
chú ý nhiều đến acid béo omega -N 3 đa nhân không bão hòa (N-3 FA). 
Bệnh nhân ăn chế độ ăn Điạ Trung Hải giảm cân nhiều hơn, có mức phản 
ứng C protein (CRP) thấp hơn, mức kháng insulin thấp hơn, cholesterol toàn 
phần và triglyceride thấp hơn và HDL cao hơn cũng như giảm tần suất hội 
chứng chuyển hoá. Có một số vấn đề liên quan đến chế độ ăn Địa Trung Hải 
như có mùi tanh, khó chịu ở dạ dày ruột, và khả năng tăng LDL hay phơi 
nhiễm với thuỷ ngân do ăn cá nhiều nên cần phải thay đổi khẩu phần không 
nên ăn chuyên một loài cá [9]. 
Bảng 3. Mục tiêu điểu trị rối loạn lipoprotein của Hội Đái Tháo và 
Trường Môn Tim Hoa Kỳ 2008 
Bảng 4 a,b. Tỷ số Hazard khẳng định Non HDL cholesterol và Apo B 
có giá trị dự đoán nguy cơ BMV cao hơn LDL cholesterol 
Hình 5. a Tiết thực Địa Trung Hải. b Liệu trình điều trị rối loạn 
lipoprotein bằng thuốc hiện nay 
Hình 6. Phân tích gộp về liệu pháp statin liều cao [16] 
Liệu pháp dùng thuốc chống các rối loạn lipoprotein hiện nay hàng 
đầu vẫn là liệu pháp statin (hình 5b). Trong một phân tích gộp 14 thử 
nghiệm trên 90.000 bệnh nhân điều trị statin cho thấy cứ giảm mỗi 1 mmol/l 
của LDL cholesterol thì giảm 21% các biến cố tim mạch [15]. Ở những đối 
tượng đã có BMV, qua phân tích gộp so sánh giữa điều trị statin liều cao 
(atorvastatin 80mg) với liều trung bình (10mg) của 4 thử nghiệm PROVE IT 
TIMI 22, A to Z, TNT, IDEAL ghi nhận điều trị statin liều cao giảm chết do 
BMV hoặc có bất kỳ biến cố nào vê tim 16%, chết do BMV hoặc NMCT 
giảm 16%, đột qụy giảm 18% so với liều trung bình P<0.0001 (hình 6) 
[16]. Tuy vậy vẫn còn đến 65% nguy cơ tim mạch còn tồn tại khi điều trị 
statin đạt mục tiêu, nên hiện đang xem xét khả năng của các thuốc niacin 
hoặc fibrate phối hợp và những chiến lược làm giảm triglyceride và nâng 
HDL choletsterol. Chỉ định phối hợp thuốc được thể hiện qua hình 7a [9]. 
Tuy nhiên những chứng cứ lâm sàng về các vấn đề này hiện nay vẫn còn 
giới hạn. Trong đó nghiên cứu phối hợp giữa statin với omega 3 của nghiên 
cứu Japan EPA Lipid Intervention Study (JELIS) cho thấy trong dự phòng 
thứ phát điều trị phối hợp statin liều thấp phối hợp với 1,8g omega -3 FA/ 
ngày giảm các biến cố mạch vành chính có ý nghĩa với tỷ Harzard CI 95% 
0.81 (0.66-1.00). 
P <0.05 và đau thắt ngực không ổn định giảm Harzard Ratios CI 95% 
0.72 (0.55-0.95) (hình 7b). Nghiên cứu phối hợp giữa simvastatin với 
ezetimide cho thấy giảm các chỉ số lipid tốt nhưng trên lâm sàng qua kết qủa 
nghiên cứu Ezetimibe and Simvastatin in Hypercholesterolemia Enhances 
Atherosclerosis Regression (ENHANCE) vừa công bố 4/2008 cho thấy 
không thay đổi tiến trình xơ vữa động mạch cảnh ở bệnh nhân tăng 
cholesterol gia đình [18]. Phối hợp giữa statin và niacin, giữa statin với 
fenofibrate cần phải đợi kết qủa những thử nghiệm lâm sàng lớn đang tiến 
hành, trong đó thử nghiệm ACCORDING nghiên cứu phối hợp giữa 
simvastatin và fenofibrate đang tiến hành sẽ kết thúc công bố năm 2009-
20010 với sự trả lời rõ ràng [1]. Một lưu ý trong kết hợp thuốc giữa 
simvastatin liều trên 20mg/ngày với thuốc chống loạn nhịp amiodarone gây 
gia tăng nguy cơ tiêu cơ mà có thể dẫn đến suy thận, chết nên FDA Hoa Kỳ 
khuyên không phối hợp simvastatin liều >20mg ngày với amiodarone. 
Hình 7 a/ Các tiêu chí phối hợp thuốc. b/ Nghiên cứu JELIS phối hợp 
statin liều thấp với omega-3 FA. 
 Hình 8. Những rào cản trong việc đạt đích điều trị 
Một vấn đề quan trọng hiện nay trong chiến lược điều trị rối loạn lipid 
dù mục tiêu non HDL hay LDL cholestrol là hàng đầu thì sự tuân trị vẫn 
đang là một thách thức lớn, ngay tại Hoa Kỳ cũng cho thấy tỷ lệ điều trị đạt 
mục tiêu vẫn rất thấp khoảng 10,3% [9]. Những rào cản trong sự tuân trị thể 
hiện qua hình 8. Chính vì vậy theo khuyến cáo về dự phòng bệnh tim mạch 
của Tổ Chức Y Tế Giới (WHO) 2007, có một tiêu chí thực hành quan trọng 
nhất là "trừ khi có những chỉ định bắt buộc dùng những thuốc đặc trị, 
những thuốc giá rẻ cần phải được dùng. Thuốc generic bảo đảm chất 
lượng tốt được khuyến cáo" [19] 
Tóm lại. Với những chứng cứ mới cho thấy non-HDL cholesterol có 
giá trị dự đoán BMV cao hơn LDL cholesterol đơn thuần. Điều trị tích cực 
các rối loạn lipoprotein bao gồm các biện pháp: 
- Tiết thực Địa Trung Hải + Luyện tập vận động. 
- Để đạt cả các mục tiêu non HDL cholesterol, LDL cholesterol và 
Apo B: Statin liều cao và/hoặc Phối Hợp Thuốc (Statin liều chuẩn với 
Niacin, Omega 3 hoặc Fibrate). 
- Trong chiến lược chỉ định dùng thuốc nhằm giảm mức thấp nhất các 
lipoprotein sinh xơ vữa phải bảo đảm tính an toàn và tính hiệu qủa - kinh tế 
theo tiêu chí của WHO với sự cần thiết sử dụng thuốc generic bảo đảm chất 
lượng. 
- Cần một nỗ lực nhiều mặt của Y tế, gia đình và toàn cộng đồng trong 
thay đổi lối sống và sự tuân trị 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 9_4.pdf 9_4.pdf