Nền giáo dục Việt Nam hiện nay đang chuyển từ hướng tiếp cận tri thức
sang hướng tiếp cận năng lực. Điều này được thể hiện ở Chương trình giáo dục phổ
thông tổng thể và chương trình các môn học. Sách giáo khoa mới cũng đang được
tiến hành biên soạn. Các khoa, ngành sư phạm đang cần thay đổi căn bản khâu đào
tạo giáo viên. Sự thay đổi bắt đầu đâu? Đi theo hướng nào? Những câu hỏi đó sẽ được
chúng tôi lần lượt trả lời ở bài viết này bằng cách đề xuất các giải pháp đổi mới cách
thức đào tạo giáo viên Ngữ văn.
              
                                            
                                
            
 
            
                
7 trang | 
Chia sẻ: Thục Anh | Lượt xem: 689 | Lượt tải: 0
              
            Nội dung tài liệu Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn và những đòi hỏi về đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kỷ yếu hội thảo khoa học214
CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MÔN NGỮ VĂN
VÀ NHỮNG ĐÒI HỎI VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN 
TS. Đặng Lưu
Viện Sư phạm xã hội, Trường Đại học Vinh
Tóm tắt: Nền giáo dục Việt Nam hiện nay đang chuyển từ hướng tiếp cận tri thức 
sang hướng tiếp cận năng lực. Điều này được thể hiện ở Chương trình giáo dục phổ 
thông tổng thể và chương trình các môn học. Sách giáo khoa mới cũng đang được 
tiến hành biên soạn. Các khoa, ngành sư phạm đang cần thay đổi căn bản khâu đào 
tạo giáo viên. Sự thay đổi bắt đầu đâu? Đi theo hướng nào? Những câu hỏi đó sẽ được 
chúng tôi lần lượt trả lời ở bài viết này bằng cách đề xuất các giải pháp đổi mới cách 
thức đào tạo giáo viên Ngữ văn.
I. Dẫn nhập
Việc ban hành Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể cũng như chương trình 
các môn học (2018) cùng với lộ trình thay đổi sách giáo khoa phổ thông mà Bộ Giáo 
dục và Đào tạo đã hoạch định khiến cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng giáo viên trong 
cả nước phải xác định đúng vị thế, chức trách của mình nếu không muốn bị tụt hậu. 
Hơn lúc nào hết, một chương trình đào tạo giáo viên hiện đại, lấy chuẩn năng lực làm 
mục tiêu, phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như khả năng tham gia của đội ngũ giảng 
viên vào việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở phổ thông trở thành lẽ sống 
còn của các trường đại học, cao đẳng sư phạm. Có thể nói như vậy là bởi, đặt trong 
tiến trình giáo dục Việt Nam từ sau 1945 đến nay, chưa có sự thay đổi nào động chạm 
sâu rộng đến mọi đối tượng trong ngành và đặt ra những thách đố rõ ràng như việc 
thay đổi chương trình và sách giáo khoa lần này. Trước đây, dù đã nhiều lần thay sách 
giáo khoa, nhưng rốt cuộc, những cải biến cũng chỉ diễn ra ở các đơn vị kiến thức 
trong hệ thống bài học mà thôi. Sự khác nhau về cấu trúc các bộ sách chưa thể hiện 
điều gì đáng kể. Ngay cả sách Ngữ văn hiện hành được biên soạn theo nguyên tắc tích 
hợp 3 trong 1, đã sử dụng rộng rãi suốt mười mấy năm nay cũng vẫn nằm trong quĩ 
đạo đó. Chính điều này đặt ra cho các cơ sở đào tạo giáo viên những nan đề, việc nhận 
thức đầy đủ sâu sắc về nó không chỉ đáp ứng yêu cầu có tính “thời vụ” mà còn quyết 
định hướng phát triển chiến lược của đơn vị.
II. Nội dung
1. Sự cần thiết của việc nhận thức vấn đề năng lực trong khoa học giáo dục
Lần này, từ chương trình tổng thể, chương trình bộ môn, sách giáo khoa, cho đến 
đơn vị bài học đều phải nhất quán tư tưởng: dạy học theo hướng phát triển năng lực. 
Mọi thành bại của việc thay đổi “căn bản, toàn diện” phụ thuộc phần lớn vào trình độ 
nhận thức của cán bộ quản lí, của giáo viên trực tiếp đứng lớp về vấn đề “năng lực” 
cũng như các phương pháp được áp dụng trong dạy học nhằm thực sự phát triển năng 
lực người học. 
Vấn đề năng lực được đề cập đến ở mọi khâu của việc thay đổi. Nhìn từ một góc 
Kỷ yếu hội thảo khoa học 215
độ, nhận thức về khái niệm này có sự xuyên suốt từ trên xuống dưới: nó được khởi đầu 
từ Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, cụ thể hóa ở chương trình bộ môn, tiếp 
đó là việc tổ chức biên soạn sách giáo khoa, và vận hành trong thực tế chỉ đạo chuyên 
môn của các cơ quan quản lí, các cơ sở giáo dục, khả năng thực thi của đội ngũ giáo 
viên trực tiếp giảng dạy. Cuối cùng, sản phẩm cần “nghiệm thu” để đánh giá kết quả 
chính là năng lực thực sự của học sinh. 
Tuy nhiên, nếu thay đổi góc nhìn, ta sẽ thấy có một lô gic khác, và ở đó, vai trò của 
từng khâu được thể hiện rõ hơn. Hãy xuất phát từ chủ thể học tập là học sinh. Muốn 
hình thành và phát triển năng lực của người học, thì trước hết, giáo viên phải có năng 
lực. Nhưng năng lực của giáo viên từ đâu ra nếu không phải từ khâu đào tạo, với tất cả 
mọi vấn đề có liên quan. Cho nên, những lúng túng của giáo viên trước cái mới, thậm 
chí chưa có tiền lệ khi chuyển từ giáo dục theo hướng tiếp cận nội dung, cung cấp tri 
thức sang hướng phát triển năng lực người học, trách nhiệm giải tỏa thuộc về các cơ 
sở đào tạo và bồi dưỡng giáo viên. Theo suy luận giản dị nhất, có thể khẳng định: nếu 
giảng viên sư phạm thiếu năng lực hoặc mơ hồ về vấn đề năng lực, thì làm sao có thể 
đào tạo được những giáo viên phổ thông thực sự có năng lực? Năng lực học sinh - 
năng lực giáo viên phổ thông - năng lực giảng viên sư phạm, ba vấn đề đó tuy thuộc 
những phạm vi khác nhau, có biểu hiện không giống nhau, nhưng xét đến cùng, chúng 
vẫn là những đường tròn đồng tâm, có quan hệ mật thiết. Nhìn như vậy để thấy, trong 
công cuộc thay đổi chương trình, sách giáo khoa lần này, nhiệm vụ của các trường đại 
học và cao đẳng sư phạm là khá nặng nề.
Tìm một định nghĩa về khái niệm “năng lực” không phải là việc khó. Đã từng 
có không ít công trình, bài viết đề cập đến vấn đề này. Xin dẫn ra đây một cách giải 
thích: “Năng lực là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kỹ năng 
với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu 
phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định. Năng lực thể hiện sự vận dụng tổng 
hợp nhiều yếu tố (phẩm chất của người lao động, kiến thức và kỹ năng) được thể hiện 
thông qua các hoạt động của cá nhân nhằm thực hiện một loại công việc nào đó”[1]. 
Dĩ nhiên, còn có những cách kiến giải khác, nhưng nhìn chung, các yếu tố cấu thành 
năng lực thì dễ có sự đồng thuận. Cụ thể, đó phải là sự tổng hòa của phẩm chất trí tuệ, 
vốn tri thức, yếu tố tâm lí, khả năng nắm bắt và giải quyết những nhiệm vụ do thực 
tiễn đặt ra. 
Từ nội hàm của khái niệm năng lực, người ta tiến đến xác định những năng lực 
đặc thù gắn với từng môn học. So sánh mục tiêu dạy học môn Ngữ văn giữa Chương 
trình hiện hành với chương trình 2018, ta sẽ thấy những khác biệt cơ bản. Nếu một 
bên đặt yêu cầu cao khả năng kiến tạo tri thức qua dạy học ngữ văn cho học sinh, tức 
là trả lời câu hỏi: học sinh phải đạt đến mức hiểu biết nào về ngữ văn, thì một bên lại 
xem tri thức chỉ là phương tiện để học sinh có thể “làm” được gì sau khi học. “Làm”, 
với môn Ngữ văn có nghĩa là tạo ra các sản phẩm đặc thù, gắn với các hoạt động đọc, 
viết, nói, nghe. Như vậy, nếu đối với giáo viên phổ thông, yếu tố quyết định thành 
công khi thực hiện chương trình mới là phải hình dung đầy đủ mô hình năng lực của 
Kỷ yếu hội thảo khoa học216
học sinh (các yếu tố cấu thành, các biểu hiện và quy luật hình thành, phát triển gắn 
với môn học), thì người giảng viên sư phạm, ngoài những điều ấy ra, còn phải nắm 
được mô hình năng lực của người giáo viên và cách thức phát triển các năng lực đó. 
Để thực hiện chương trình mới, người giáo viên Ngữ văn cần có những năng lực 
gì? Đó hẳn là câu hỏi từng được các nhà sư phạm đặt ra, và câu trả lời chưa thể có 
tiếng nói cuối cúng. 
Trong bài Các năng lực đặc thù của giáo viên Ngữ văn phổ thông, Phạm Thị Thu 
Hương viết: “Chuyển hóa từ tri thức sang năng lực..., người giáo viên Ngữ văn phải 
thực sự là một người đọc, người nói, người viết, người nghe tích cực, chủ động, có khả 
năng tự nghiên cứu chuyên môn, có hiểu biết, đặc biệt là sự độc lập, sáng tạo, tinh tế, 
nhạy cảm, có chất văn” [5, tr. 795 - 805].
Hiện nay, ngành sư phạm ở một số trường đại học đang xây dựng chương trình 
mới, đón đầu những thay đổi lớn. Theo tìm hiểu của chúng tôi, ở các cơ sở có đào tạo 
ngành Sư phạm Ngữ văn, hướng xây dựng chương trình theo yêu cầu phát triển năng 
lực của người giáo viên đã được vạch ra. Chuẩn đầu ra, khung năng lực, khung chương 
trình, đề cương chi tiết môn học... đều hướng vào tiêu điểm này.
Một hệ thống năng lực của giáo viên Ngữ văn làm chuẩn đầu ra cho việc đào tạo, 
đang trong quá trình xây dựng. Ở đây, các chương trình đào tạo của các trường đại học 
tiên tiến trên thế giới cũng như thực tế giảng dạy của các trường đại học trong nước 
(cả ưu điểm và những bất cập) sẽ là “tư liệu” tham khảo cần thiết. Trong bối cảnh hiện 
nay, bên cạnh những năng lực chung, theo tôi, người giáo viên Ngữ văn cần bồi đắp 
một số năng lực chuyên môn, cụ thể là năng lực cảm thụ thẩm mĩ; năng lực ngôn ngữ 
và văn học (thể hiện ở khả năng đọc hiểu văn bản, khả năng nói, viết); năng lực đối 
thoại và tổ chức đối thoại; năng lực kích thích khả năng tư duy và khả năng phản biện 
của học sinh. Các năng lực vừa nêu là điều kiện tiên quyết để giáo viên Ngữ văn có 
thể đáp ứng yêu cầu thực hiện chương trình mới. Câu ngạn ngữ phương Tây: “Người 
ta không thể cho kẻ khác cái mà mình không có” xem ra khá đúng khi dùng để nói về 
việc dạy học theo yêu cầu mới. Thử hỏi, nếu tiếp xúc với một bài thơ, một truyện ngắn 
mới mà giáo viên lơ mơ, không hiểu gì, thì làm sao có thể dạy học sinh đọc hiểu? Nếu 
giáo viên chưa từng viết bài nào cho ra hồn thì có dạy học sinh viết được không? Cũng 
vậy, nếu giáo viên không linh hoạt trong đối thoại thì liệu có thể hi vọng ở họ cách 
dạy nói - nghe có hiệu quả? Trong bóng đá, nếu huấn luyện viên chưa từng là một cầu 
thủ lừng danh trên sân cỏ ở cũng không sao, nhưng anh ta nhất thiết phải hết sức vững 
vàng về kỹ, chiến thuật, về cách thức phát triển tài năng cầu thủ, về khả năng cầm 
quân, khả năng “đọc” trận đấu Người giáo viên Ngữ văn hiện nay cũng vậy. Giáo 
viên không phải là nhà nghiên cứu phê bình văn học, nhà hùng biện, nhưng những kỹ 
năng đọc, viết, nói, nghe thì phải thuần thục, đến mức có thể thị phạm cho học sinh. 
Từ đòi hỏi như thế về năng lực giáo viên phổ thông, chúng ta hoàn toàn có thể suy ra 
những yêu cầu về năng lực của giảng viên sư phạm.
2. Sự cấp bách của việc thay đổi cách thức đào tạo giáo viên
Để có thể góp phần vào thành công của cuộc cải cách lần này, việc thay đổi cách 
Kỷ yếu hội thảo khoa học 217
thức đào tạo giáo viên đóng vai trò then chốt. Từ nhận thức và kinh nghiệm của bản 
thân và thực tiễn của cơ sở đào tạo (ngành SP Ngữ văn Trường Đại học Vinh), tôi xin 
đề xuất mấy giải pháp sau đây:
2.1. Khắc phục những bất cập về quan niệm dạy học Ngữ văn truyền thống ở 
các khoa/ ngành sư phạm
Trước đây có một thời đã từng tồn tại khái niệm “giáo học pháp chương mục” ở 
trường sư phạm. Đó là, khi dạy bất cứ một môn nào thuộc khoa học ngữ văn, giảng 
viên phải quan tâm những nội dung có liên quan đến các bài học ở phổ thông. Không 
những thế, giảng viên còn hướng dẫn giáo sinh tìm phương án dạy những loại bài cụ 
thể. Chẳng hạn, một chuyên gia văn học trung đại có thể nêu cách dạy Bình Ngô đại 
cáo, Truyện Kiều,...; một nhà nghiên cứu Việt ngữ thì hướng dẫn cách dạy những bài 
về từ, về câu, về tu từ, phong cách học... Dù sự hướng dẫn của giảng viên chủ yếu liên 
quan đến nội dung các bài trong sách giáo khoa, chưa phải là phương pháp dạy học 
đúng nghĩa, nhưng dù sao cách làm đó của “giáo học pháp chương mục” vẫn có ích 
nhất định trong việc rèn luyện nghiệp vụ cho sinh viên. Tiếc rằng, chút quan hệ ít ỏi 
đó giữa dạy kiến thức với phương pháp sư phạm đã không còn được duy trì.
Sự bất cập còn lộ rõ ở một phương diện khác: các giáo trình phương pháp hiện 
nay, phần lớn được soạn đã khá lâu, không theo kịp những thay đổi của chương trình, 
sách giáo khoa phổ thông. Xin lấy ví dụ: trước đây ở bậc trung học, có giờ Giảng văn, 
giờ Phân tích văn học, thì nay được gọi là giờ Đọc hiểu. Đây không chỉ là sự thay đổi 
tên gọi, mà quan trọng hơn là một bước hiện đại hóa quan niệm dạy học. Nếu Giảng 
văn đề cao vai trò của thầy, thì Đọc hiểu lại trao quyền chủ động, tích cực cho trò. 
Thế nhưng, trừ bài giảng do giảng viên tự soạn (mức độ cập nhật thế nào tùy trình độ 
người soạn), các giáo trình về đọc hiểu vẫn còn vắng bóng. Một ví dụ khác: chương 
trình, sách giáo khoa phổ thông hiện hành được biên soạn theo quan điểm tích hợp, 
nhưng giáo trình đào tạo cách dạy tích hợp Tiếng Việt - Đọc hiểu - Làm văn thì vẫn 
chưa xuất hiện. Tình trạng “tuổi thọ” của giáo trình dài hơn rất nhiều so với “vòng 
đời” của chương trình và sách giáo khoa phổ thông đã gây nên sự “lệch pha”, và kết 
quả đào tạo giáo viên luôn “hụt hơi” so với đòi hỏi của thực tế. 
Rõ ràng việc thay đổi về quan niệm cách thức dạy học ở ngành Ngữ văn các khoa/
trường sư phạm hiện nay là câu chuyện không thể lãng tránh. Tuy nhiên, thay đổi như 
thế nào thì không phải mọi người đều nhận thức giống nhau. Theo chúng tôi, những 
bất cập đã nêu là một “âm bản”, qua đó, có thể nhận ra phần “dương bản” (những giải 
pháp). Từ góc nhìn của mình, chúng tôi xin nêu mấy luận điểm sau đây:
2.2. Cần đặt ngành sư phạm Ngữ văn trong chuyển động chung của đào tạo 
sư phạm theo yêu cầu mới
Trong bối cảnh mở cửa, hội nhập, việc chuyển từ giáo dục tinh hoa sang giáo dục 
đại chúng đã tạo nên những thay đổi căn bản về triết lý, quan niệm giáo dục, cơ cấu 
tổ chức và vận hành hoạt động của các cơ sở đào tạo. Giáo dục đại học, cao đẳng giờ 
đây phải đào tạo ra nguồn nhân công có trình độ, năng lực nghề nghiệp cho xã hội, 
đáp ứng yêu cầu của thời đại công nghệ 4.0. Giáo dục đại học, cao đẳng gắn liền với 
Kỷ yếu hội thảo khoa học218
việc đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, chịu sự đòi hỏi, sát hạch ngặt nghèo của 
cơ sở tuyển dụng, do đó, việc đào tạo phải hướng đến tính ứng dụng, tính thực tiễn. 
Ngành Sư phạm cũng không nằm ngoài xu thế giáo dục nghề nghiệp đó. 
Dạy học Ngữ văn ở trường/khoa Sư phạm, vì thế, bên cạnh kiến tạo các tri thức 
khoa học cơ bản, cần chú trọng đúng mức việc rèn luyện các kỹ năng nghề nghiệp. 
Dĩ nhiên, chú trọng việc rèn nghề không có nghĩa chỉ tập trung vào các thao tác thuần 
túy kỹ thuật. Cần chú ý cung cấp và hình thành các tri thức phương pháp luận - nguồn 
tri thức được hình thành từ nhiều bộ môn khoa học cơ bản. Có điều, các tri thức lý 
thuyết này đều phải được “thực hành hóa”, “phương pháp hóa”, biến thành công nghệ 
để các giáo viên tương lai có thể vận dụng nhuần nhuyễn trong dạy học môn Ngữ văn 
ở nhà trường phổ thông. Điều này cũng còn dẫn đến những thay đổi rất căn bản trong 
quan niệm về người dạy và người học ở trường sư phạm. Giảng viên giờ đây đóng vai 
trò người hướng dẫn, cố vấn, gợi mở, trọng tài chứ không phải người độc quyền chân 
lý. Còn người học phải là người chủ động, tích cực trong việc kiến tạo tri thức. Đây 
là điều đã được nói tới rất nhiều trên phương diện lý thuyết. Sự thật thì giảng viên ở 
trường đại học hoặc cao đẳng chưa được trao quyền tự chủ nhiều như vậy. Và trên thực 
tế, sự chủ động, tích cực của sinh viên trong hoạt động học tập, khám phá ở một số cơ 
sở đào tạo sư phạm vẫn còn khá hạn chế. 
2.3. Thay đổi quan niệm về mục tiêu, đối tượng, nội dung đào tạo giáo viên 
Ngữ văn ở trường sư phạm
Việc đổi mới mục tiêu giáo dục từ cung cấp tri thức sang hình thành và phát triển 
năng lực, phẩm chất người học cũng dẫn đến yêu cầu thay đổi căn bản trong quan 
niệm dạy học Ngữ văn ở ngành sư phạm hiện nay. Dạy học Ngữ văn, như vậy, thay 
vì chỉ là việc cung cấp những tri thức lý thuyết của chuyên ngành đào tạo (tri thức về 
văn học Việt Nam, văn học thế giới, ngôn ngữ, tri thức về phương pháp dạy học) 
mà còn phải hướng tới việc tổ chức vận dụng những tri thức đó vào những tình huống 
học tập thực tiễn để hình thành và phát triển các kỹ năng nghề nghiệp cho người học. 
Điều này đòi hỏi một sự thay đổi mang tính tổng thể, trên nhiều phương diện của cơ sở 
đào tạo sư phạm: thay đổi trong quan niệm về mục tiêu đào tạo, đối tượng (sản phẩm) 
đào tạo, chương trình dạy học, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, các hình thức 
kiểm tra, đánh giá 
Về mục tiêu đào tạo, phải có sự thiết kế nhất quán, đồng bộ từ mục tiêu tổng thể 
của chương trình đến mục tiêu cụ thể của các học phần, và phải bám sát theo định 
hướng hình thành và phát triển năng lực cho sinh viên sư phạm ngành Ngữ văn. Muốn 
vậy, chương trình đào tạo ở ngành sư phạm phải được thiết kế, xây dựng trên cơ sở xác 
định rõ đặc trưng, triết lý và nội dung và phương pháp giảng dạy môn học này, sát với 
thực tế dạy học Ngữ văn ở cấp phổ thông. Chỉ trong sự gắn kết chặt chẽ này, chương 
trình đào tạo sư phạm mới có thể vận hành một cách hiệu quả, sản phẩm đào tạo (là 
các sinh viên ngành sư phạm) mới có chất lượng, mới đủ tri thức và năng lực để thực 
hiện chương trình giáo dục phổ thông mới. Căn cứ trên các năng lực chung, năng lực 
đặc thù và năng lực cốt lõi của môn Ngữ văn, việc thiết kế và xây dựng chương trình 
Kỷ yếu hội thảo khoa học 219
đào tạo giáo viên ở các học phần văn học, ngôn ngữ, phương pháp dạy học đều phải 
được xây dựng theo chuẩn đầu ra, với cái đích hình thành những tri thực và năng lực 
sư phạm cần thiết cho các giáo viên tương lai. 
2.4. Thay đổi quan niệm về phương pháp, hình thức tổ chức dạy học và kiểm 
tra, đánh giá 
Để đảm bảo mục tiêu đào tạo theo hướng hình thành và phát triển năng lực người 
học trong giáo dục hiện nay, giảng viên sư phạm cần có những thay đổi căn bản trong 
quan niệm về mục tiêu, đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp dạy học. Trước hết, cần 
phải thấy rằng, việc đổi mới mục tiêu giáo dục theo hướng hình thành và phát triển 
năng lực hoàn toàn không phải là việc riêng của các giảng viên bộ môn Phương pháp 
giảng dạy mà là nhiệm vụ chung của tất cả các giảng viên sư phạm. Do đó, việc đổi 
mới hình thức, phương pháp dạy học phải được tiến hành ở tất cả các bộ môn. Tri thức 
phương pháp giảng dạy cũng cần phải được tích hợp trong tất cả các bộ môn khoa học 
cơ bản. Hoạt động rèn nghề cho sinh viên không thể phó mặc cho giảng viên dạy các 
học phần nghiệp vụ sư phạm như trước đây, mà mỗi giảng viên, dù dạy bất cứ mảng 
kiến thức cơ bản nào đều phải đồng thời là một nhà giáo học pháp. Phải luôn đặt ra 
câu hỏi: những tri thức trong học phần này liên quan thế nào đến chương trình phổ 
thông? Với học phần này, những kỹ năng, năng lực nào cần phát triển cho sinh viên để 
họ biết cách xử lý trong giờ dạy ở phổ thông sau này? Muốn trả lời những câu hỏi đó, 
giảng viên dạy khoa học cơ bản ở ngành sư phạm cần bớt lý thuyết, bớt hàn lâm. Phải 
nghiên cứu kỹ chương trình phổ thông, thâm nhập thực tế phổ thông bằng mọi cách 
mới thấy được những chỗ nan giải của giáo viên khi dạy những nội dung liên quan đến 
học phần mà mình đảm trách. Giảng viên sư phạm nhất thiết phải thường xuyên theo 
dõi những thay đổi về chương trình, sách giáo khoa, về phương pháp dạy học ở phổ 
thông để có hướng điều chỉnh cách dạy của mình cho thiết thực.
Cũng cần phải thay đổi hình thức kiểm tra, đánh giá. Việc kiểm tra, đánh giá theo 
hướng hình thành và phát triển năng lực người học cũng phải được tiến hành đồng 
bộ trên cơ sở các thang chuẩn năng lực đã được xác định trong quá trình đào tạo. Sản 
phẩm để đánh giá không nhất thiết phải là một bài kiểm tra lý thuyết theo bộ đề như 
lâu nay, mà có thể là một tiểu luận do sinh viên nghiên cứu về chương trình, SGK, 
giáo án giảng dạy, hoặc một hoạt động trải nghiệm dạy học qua thâm nhập thực tế... 
III. Kết luận 
Đối với các trường/ khoa sư phạm, nhiệm vụ đào tạo giáo viên đáp ứng yêu cầu 
đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục Việt Nam cũng không kém nặng nề. Vì thế, 
sự thay đổi đồng bộ từ tầm nhìn chiến lược cho đến chương trình đào tạo, và nhất là 
thay đổi quan niệm “làm chuyên môn” của nhà sư phạm đóng vai trò quyết định. Sản 
phẩm đào tạo đang liên tục cho “ra lò”, bài toán chất lượng và nhu cầu thực tế của 
nền giáo dục đang hiện diện hàng ngày, đang “treo trước mắt” như một sự thách đố. 
Ý thức được sứ mệnh và trách nhiệm, mỗi nhà sư phạm không thể không tự thay đổi 
bản thân, từ cách tư duy, nhận thức, quan niệm về chuyên môn ngành sư phạm cho 
đến thực tế giảng dạy. Mỗi giảng viên, dù dạy bất cứ bộ môn nào ở trường/khoa đại 
Kỷ yếu hội thảo khoa học220
học sư phạm phải là một nhà giáo học pháp hiện đại trong lĩnh vực chuyên môn của 
mình. Nếu được như vậy, chất lượng đào tạo giáo viên chắc chắn sẽ được nâng lên. 
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Tài liệu tập huấn: Dạy học và kiểm tra, đánh 
giá theo theo định hướng phát triển năng lực của học sinh.
[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể.
[3] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ 
văn.
[4] Nguyễn Thanh Hùng (chủ biên), Lê Thị Diệu Hoa (2007), Phương pháp dạy 
học Ngữ văn Trung học phổ thông những vấn đề cập nhật, Nxb Đại học Sư phạm.
[5] Phạm Thị Thu Hương (2014), “Các năng lực đặc thù của giáo viên Ngữ văn 
phổ thông”, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia Dạy học Ngữ văn trong bối cảnh đối mới căn 
bản, toàn diện giáo dục phổ thông, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 
795-805. 
[6] Đỗ Ngọc Thống (2013), “Các năng lực then chốt và năng lực sư phạm trong 
đào tạo giáo viên”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trường 
phổ thông Việt Nam, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr. 1443-1456.
[7] Đoàn Thị Thu Vân (2014), “Từ mục tiêu phát triển năng lực học sinh, nghĩ về 
chương trình học, thi môn Ngữ văn và vị trí của người thầy”, Kỷ yếu Hội thảo quốc 
gia Dạy học Ngữ văn trong bối cảnh đối mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông, 
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 153-160.
[8] Pasi Sahlberg (2016), Bài học Phần Lan, Nxb Thế giới.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
chuong_trinh_giao_duc_pho_thong_mon_ngu_van_va_nhung_doi_hoi.pdf