Chương trình và sách giáo khoa phổ thông sau năm 2015: Khó khăn và giải pháp dành cho sinh viên các ngành Sư phạm

Bài viết tập trung làm sáng rõ những những vấn đề về chương trình

và sách giáo khoa phổ thông sau năm 2015. Bài viết đi sâu phân tích những khó khăn

thách thức dành cho sinh viên đang học các ngành sư phạm đối với chương trình và

sách giáo khoa phổ thông sau năm 2015. Trên cơ sở đó, bài viết đưa ra các giải pháp

cụ thể nhằm giúp sinh viên có thể thực hiện dạy tốt chương trình và sách giáo khoa

phổ thông sau năm 2015.

pdf6 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 13/05/2022 | Lượt xem: 332 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Chương trình và sách giáo khoa phổ thông sau năm 2015: Khó khăn và giải pháp dành cho sinh viên các ngành Sư phạm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
318 CHƯƠNG TRÌNH VÀ SÁCH GIÁO KHOA PHỔ THÔNG SAU NĂM 2015: KHÓ KHĂN VÀ GIẢI PHÁP DÀNH CHO SINH VIÊN CÁC NGÀNH SƯ PHẠM SV. Huỳnh Tuyết Nhung ThS. Hồ Chí Linh Tóm tắt. Bài viết tập trung làm sáng rõ những những vấn đề về chương trình và sách giáo khoa phổ thông sau năm 2015. Bài viết đi sâu phân tích những khó khăn thách thức dành cho sinh viên đang học các ngành sư phạm đối với chương trình và sách giáo khoa phổ thông sau năm 2015. Trên cơ sở đó, bài viết đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm giúp sinh viên có thể thực hiện dạy tốt chương trình và sách giáo khoa phổ thông sau năm 2015. 1. Đặt vấn đề Chương trình và sách giáo khoa hiện hành vẫn có những điểm mạnh, nhưng trước sự phát triển của khoa học công nghệ và muốn hội nhập với các nước có nền giáo dục phát triển thì sách giáo khoa hiện hành chưa đáp ứng được yêu cầu đó. Vì vậy việc thay đổi chương trình và sách giáo khoa phổ thông sau năm 2015 là một vấn đề tất yếu và rất thiết thực. Việc đổi mới nào cũng khó tránh khỏi những khó khăn bước đầu, nhất là đối với sinh viên sư phạm. Do đó, các trường đào tạo sư phạm và bản thân sinh viên đang học các ngành sư phạm cần phải chuẩn bị sẵn tâm thế với những khó khăn từ việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa sau năm 2015 để có những giải pháp giúp cho sinh viên tiếp cận việc đổi mới này dễ dàng và có hiệu quả. 2. Giải quyết vấn đề 2.1. Một số nét về chương trình giáo dục phổ thông tổng thể Chương trình (CT) giáo dục phổ thông (GDPT) được hiểu là toàn bộ phương hướng và kế hoạch GDPT, trong đó nêu rõ mục tiêu GDPT, quy định yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực đối với học sinh, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học, chuyên đề học tập và hoạt động trải nghiệm sáng tạo (gọi chung là môn học) ở mỗi lớp và mỗi cấp học của GDPT. CT tổng thể là phương hướng và kế hoạch khái quát của toàn bộ CT GDPT, trong đó quy định những vấn đề chung của GDPT, bao gồm: Quan điểm xây dựng CT, mục tiêu CT GDPT và mục tiêu CTGD của từng cấp học, yêu cầu cần đạt về phẩm chất chủ yếu và năng lực chung của học sinh cuối mỗi cấp học, các lĩnh vực giáo dục và hệ thống các môn học, thời lượng của từng môn học, định hướng nội dung giáo dục bắt buộc ở từng lĩnh vực giáo dục và phân chia vào các môn học ở từng cấp học đối với tất cả học sinh trên phạm vi toàn quốc, định hướng về phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục và cách thức đánh giá chất lượng giáo dục của từng môn học, điều kiện tối thiểu của nhà trường để thực hiện được CT. Mục tiêu của CT GDPT hiện hành chưa chú trọng yêu cầu phát triển năng lực và phát triển tiềm năng riêng của mỗi học sinh. Mục tiêu của CT GDPT mới nhấn mạnh yêu cầu phát triển năng lực, chú ý phát huy tiềm năng vốn có của mỗi HS, chú ý phát triển cả con người xã hội và con người cá nhân. Đó chính là đổi mới căn bản trong CT GDPT. Từ trước đến nay, kể cả CT hiện hành, về cơ bản vẫn là CT tiếp cận nội dung. Theo cách tiếp cận nội dung, CT thường chỉ nêu ra một danh mục đề tài, chủ đề của một lĩnh vực/môn học nào đó cần dạy và học. Tức là tập trung xác định và trả 319 lời câu hỏi: Chúng ta muốn học sinh biết cái gì? Nên chạy theo khối lượng kiến thức, ít chú ý dạy cách học, nhu cầu, hứng thú của người học CT mới chuyển sang cách tiếp cận năng lực, nhằm phát triển phẩm chất và năng lực người học. Đó là là cách tiếp cận nêu rõ học sinh sẽ làm được gì và làm như thế nào vào cuối mỗi giai đoạn học tập trong nhà trường. Cách tiếp cận này cũng đòi hỏi HS nắm vững những kiến thức, kĩ năng cơ bản nhưng còn chú trọng yêu cầu vận dụng kiến thức, kĩ năng vào thực hành, giải quyết các tình huống trong học tập và cuộc sống; tính chất và kết quả hoạt động cũng phụ thuộc rất nhiều vào hứng thú, niềm tin, đạo đức của người học nên CT cũng rất chú trọng đến mục tiêu phát triển các phẩm chất của học sinh; phát triển các phẩm chất chủ yếu và các năng lực chung mà mọi học sinh đều cần có, đồng thời phát triển các phẩm chất và năng lực riêng của từng em; tập trung vào việc dạy và học như thế nào? Sự thay đổi căn bản trong cách tiếp cận này sẽ chi phối và bắt buộc tất cả các khâu của quá trình dạy học thay đổi: nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức, cách kiểm tra, đánh giá, thi cử; cách thức quản lý và thực hiện nhằm tạo ra sự thay đổi căn bản về chất lượng giáo dục. 2.2. Những khó khăn của sinh viên đang học các ngành sư phạm đối với chương trình và sách giáo khoa sau năm 2015 Là những giáo viên tương lai, khi ra trường cũng là thời điểm chương trình và sách giáo khoa mới đi vào thực hiện, hơn ai hết, sinh viên đang học các ngành sư phạm sẽ gặp rất nhiều những khó khăn: - Hiện nay, chương trình đạo tạo các ngành sư phạm ở các trường đại học, cao đẳng vẫn phần nhiều tập trung đào tạo cho giáo viên tương lai dạy theo định hướng nội dung. Thế nhưng, trong những năm tới, khi sinh viên ra trường, chương trình và sách giáo khoa mới yêu cầu giáo viên dạy theo định hướng hình thành và phát triển năng lực của học sinh. Việc thay đổi lớn này là một thách thức vô cùng khó khăn đối với sinh viên khi thói quen trong tư duy và nội dung, phương pháp hiện tại đã tồn tại và định hình. Điểm yếu của phần lớn sinh viên hiện nay là đang được học và sẽ dạy học theo phương pháp chủ yếu truyền thụ kiến thức lý thuyết cho học sinh dẫn đến hoạt động của học sinh là ghi nhớ kiến thức rời rạc, có sẵn, không được vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề trong học tập và trong cuộc sống. - CT GDPT mới đòi hỏi giáo viên đổi mới PPDH theo hướng tích hợp, phân hóa, phát huy tính chủ động, sáng tạo, rèn luyện phương pháp học, đổi mới kiểm tra đánh giá theo yêu cầu vì sự tiến bộ và phát triển năng lực học sinh. Thế nhưng, để những giáo viên tương lai làm được như vậy là cả một câu chuyện rất dài. + Dạy học tích hợp là định hướng dạy học giúp học sinh phát triển khả năng huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết có hiệu quả các vấn đề trong học tập và trong cuộc sống, được thực hiện ngay trong quá trình lĩnh hội tri thức và rèn luyện kĩ năng; phát triển được năng lực cần thiết, nhất là năng lực giải quyết vấn đề. Tính tích hợp thể hiện qua sự huy động, kết hợp, liên hệ các yếu tố có liên quan với nhau của nhiều lĩnh vực để giải quyết có hiệu quả một vấn đề và thường đạt được nhiều mục tiêu khác nhau. Khó khăn, thách thức của giáo viên khi thực hiện chủ trương dạy học tích hợp trong CT mới là ngoài năng lực chuyên môn vững, giáo viên còn phải có sự hiểu biết sâu rộng ở các lĩnh vực khác có liên quan; không chỉ bộ môn, bậc học, lớp học mình dạy, mà còn am hiểu cặn kẽ những bộ môn, bậc học, lớp học khác, Chủ trương dạy học tích hợp trong CT mới có một số điểm khác so với CT 320 hiện hành như: tăng cường tích hợp nhiều nội dung trong cùng một môn học, xây dựng một số môn học tích hợp mới ở các cấp học, tinh thần chung là tích hợp mạnh ở các lớp học dưới và phân hoá dần ở các lớp học trên; yêu cầu tích hợp được thể hiện cả trong mục tiêu, nội dung, phương pháp và thi, kiểm tra, đánh giá giáo dục học sinh. + Dạy học phân hóa cũng là một thách thức lớn những giáo viên tương lai. Đây là định hướng dạy học bảo đảm sự phù hợp với các đối tượng học sinh khác nhau (về hoàn cảnh, đặc điểm tâm - sinh lý, khả năng, nhu cầu và hứng thú, sở thích cá nhân), nhằm phát triển tối đa điều kiện và tiềm năng của mỗi học sinh. Việc dạy theo các chuyên đề học tập của học sinh sẽ rất khác nhau trong khi khả năng đáp ứng của nhà trường và giáo viên lại hạn chế. Xuất hiện một số môn học, chuyên đề học tập có nội dung mới so với CT hiện hành, nhất là một số chuyên đề học tập mới gắn tới định hướng nghề nghiệp, đòi hỏi các yêu cầu mới về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất của nhà trường. + Hoạt động trải nghiệm sáng tạo (TNST) trong CT GDPT là một hoạt động giáo dục mới, trong đó, dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục (cụ thể là giáo viên, không chỉ là giáo viên chủ nhiệm mà cả giáo viên bộ môn), từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển tình cảm, đạo đức, các kỹ năng, tích luỹ kinh nghiệm riêng và phát huy tiềm năng sáng tạo của mỗi cá nhân. Hoạt động TNST hướng đến hệ thống giá trị, chuẩn mực về đạo đức, văn hoá, thẩm mĩ... Loại tri thức này có tính linh hoạt,“mềm dẻo”, chủ yếu dựa theo nhu cầu xã hội, nguyện vọng và hứng thú của học sinh. Hoạt động TNST nhằm tích lũy kinh nghiệm quan hệ, hoạt động, ứng xử, giải quyết vấn đề để thích ứng với sự đa dạng của cuộc sống luôn vận động. Hoạt động TNST có chức năng chủ yếu là thực hiện các nhiệm vụ giáo dục đạo đức, giá trị, niềm tin, lý tưởng, thẩm mĩ, sức khoẻ, thái độ lao động, nguyên tắc hành vi, lối sống và kỹ năng sốngSinh viên hiện nay còn chưa chú trọng các hoạt động xã hội, sự tích lũy kinh nghiệm,vốn sống thực tế, kĩ năng mềm, còn hạn chế nên sẽ rất khó khăn thực hiện CT hoạt động TNST với mục tiêu, tính chất, nội dung, cách thức tiến hành, kiểm tra - đánh giá của hoạt động này trong CT GDPT có nhiều đổi mới. - Đổi mới căn bản phương pháp đánh giá chất lượng giáo dục theo hướng hỗ trợ phát triển phẩm chất và năng lực học sinh cũng là một thách thức không nhỏ của giáo viên tương lai. Nếu trước đây, việc kiểm tra đánh giá chủ yếu là để đánh giá kết quả học tập, nặng về kiểm tra đánh giá kiến thức của học sinh thì giai đoạn tới, việc đánh giá phải vì sự tự học của học sinh: Giúp học sinh biết điều chỉnh cách học, vượt qua từng khó khăn, biết tự rút kinh nghiệm về phương pháp học tập. 2.3. Giải pháp 2.3.1. Đối với Bộ giáo dục và đào tạo - Sớm xây dựng Chương trình môn học, biên soạn sách giáo khoa và các tài liệu dạy học theo yêu cầu phù hợp với chương trình đổi mới nhất là với thực tế Việt Nam, xu thế phát triển chương trình và sách giáo khoa của nhiều nước có nền giáo dục tiên tiến, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. - Tổ chức bồi dưỡng giảng viên, mời những người có kinh nghiệm về giảng dạy,vận dụng kinh nghiệm của các nước có nền giáo dục phát triển để học tập và nâng cao năng lực cho đội ngũ giảng viên nước mình. 321 - Huy động nhiều kinh nghiệm của các nhà xuất bản, các nhà biên soạn sách giáo khoa nhằm có thêm nhiều kiến thức phong phú, đa dạng phù hợp với nhiều đối tượng học sinh, đặc điểm vùng miền và địa phương. - Bộ giáo dục phải hướng dẫn cho các trường chọn sách giáo một cách phù hợp và khoa học. - Bộ giáo dục phải có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các Bộ, các cơ quan, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng và tổ chức kế hoạch triển khai thực hiện Đề án đổi mới. Bộ giáo dục phải có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các Bộ, các cơ quan, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng và tổ chức kế hoạch triển khai thực hiện Đề án đổi mới chương trình giáo dục phổ thông được thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 404/QĐ-TTg. 2.3.2. Đối với các cơ sở đào tạo giáo viên sư phạm - Chú trọng thực hiện tốt các qui định về nội dung, chương trình, thời gian, hình thức tổ chức và đánh giá kết quả bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giảng viên theo Thông tư số 20/2013/TT-BGDĐT ngảy 06 tháng 6 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo Quy định bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giảng viên các cơ sở giáo dục đại học. - Các trường có đào tạo sư phạm phải đổi mới chương trình đào tạo, phương pháp dạy học đáp ứng yêu cầu trong việc trang bị cho sinh viên ra trường đầy đủ những phẩm chất và năng lực để có thể dễ dàng tiếp cận với chương trình đổi mới. - Các cơ sở đào tạo giáo viên phải chủ động trong việc bồi dưỡng năng lực dạy học tích hợp, phân hóa, nghiên cứu khoa học. - Thiết kế đưa vào chương trình đào tạo các môn kỹ năng mềm để giúp sinh viên thích ứng được với các hỉnh thức và nội dung dạy học khác nhau ở các trường phổ thông. - Phải tăng cường các hoạt động trải nghiệm, hoạt động xã hội cho sinh viên, các trường phổ thông và giảng viên phải có sự hợp tác với nhau để giúp sinh viên đi sâu vào chuyên môn của giáo viên phổ thông nhằm phát huy được năng lực vốn có và khắc phục, rèn luyện những thiếu sót đáp ứng được yêu cầu đổi mới. - Phải xây dựng chương trình đào tạo mới phù hợp với việc đổi mới đó là chuyển từ chương trình đặt nặng vấn đề truyền đạt lí luận sang định hướng và phát triển năng tự học, năng lực giáo dục và dạy học. - Cần đưa vào các môn rèn luyên phương pháp đánh giá nhằm đánh giá đúng năng lực nhất là trong các đợt kiến tập và thực tập sư phạm. 2.3.3. Đối với giảng viên - Giảng viên phải tìm hiểu chính xác và đầy đủ về chương trình đổi đổi mới để từ đó tiếp cận và phát huy một cách có hiệu quả. - Giảng viên không ngừng bồi dưỡng chuyên môn, giải quyết các vấn đề thuộc chuyên môn, xây dựng chương trình mới,nghiên cứu khoa học ,khắc phục được những hạn chế của bản thân,luôn trao dồi phẩm chất đạo đức nhà giáo,giảng viên không chỉ dạy học mà còn phải giáo dục để tạo ra được những nhà giáo có đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng cho chương trình giáo dục phổ thông. 322 - Ngưởi giảng viên phải nâng cao tiếp cận việc dạy tích hợp và phân hóa để đáp ứng được khả năng tiếp thu và phát huy được tiềm năng ở mỗi sinh viên. - Người giảng viên cần phải thay đổi phương pháp dạy học chuyển từ cách dạy thông thường là đọc chép,đặt nặng việc truyền thụ kiến thức sang cách dạy chủ yếu phát huy năng lực của người học,vì người giảng viên sẽ là người đi đầu và làm mẫu cho sinh viên trong việc tiếp cân phương pháp dạy học mới. - Giảng viên phải kích thích được tính tự giác,độc lập,sáng tạo của sinh viên, tinh thần tự chủ, sống có trách nhiệm, thấy được tầm quan trọng của việc tự học,khả năng đọc giáo trình,chắc lọc kiến thức một cách khoa học,biết cách đặt câu hỏi và giải quyết vấn đề để từ đó trang bị cho sinh viên được những tri thức khoa học chân chính và hiện đại đáp ứng được yêu cầu của việc đổi mới chương trình giáo dục. - Giảng viên phải tạo được không khí học tập thoải mái giúp sinh viên tự tin phát biểu ý kiến,khả năng nói trước đám đông,không thụ động trông chờ vào giảng mà giảng viên chỉ là người tổ chức và hướng dẫn sinh viên tiếp cận kiến thức . - Giảng viên cần phải có năng lực trong việc đánh giá hoạt động học tập của sinh viên để từ đó hỗ trợ kiến thức và những thiếu sót cần phải bồi dưỡng thêm. - Thay đổi cách đánh giá và kiểm tra để thấy được năng lực vốn có và khả năng phát triển năng lực của sinh viên. 2.3.4. Đối với sinh viên - Sinh viên cần chủ động tìm hiểu đầy đủ về chương trình và sách giáo khoa phổ thông sau năm 2015 để chuẩn bị sẵn hành trang cần thiết cho việc dạy học theo định hướng đổi mới. - Với những đổi mới của chương trình và sách giáo khoa phổ thông sau năm 2015, sinh viên sư phạm cần ý thức sâu sắc trách nhiệm nặng nề của bản thân góp phần vào cuộc cách mạng trong giáo dục trong những năm tới. Sinh viên không chỉ chú trọng trang bị những kiến thức và năng lực chuyên môn, mà cần chú trọng đến cả phương pháp dạy học theo hướng hướng tích hợp, phân hóa, phát huy tính chủ động, sáng tạo, rèn luyện phương pháp học, đổi mới kiểm tra đánh giá theo yêu cầu vì sự tiến bộ và phát triển năng lực học sinh. - Sinh viên phải có ý thức trong việc tự tìm tòi kiến thức, nâng cao tinh thần tự học, biết lực chọn kiến thức một cách khoa học, giải quyết được những vấn đề xảy ra, thích ứng với hoàn cảnh dạy và nội dung đổi mới hiện nay. - Sinh viên cẩn phải tăng cường các hoạt động trải nghiệm ở các trường phổ thông qua việc đi kiến tập và thực tập sư phạm, tích cực tham gia các hoạt động phong trào,hoạt động xã hội, để khi ra trường phát huy được kinh nghiệm từ chính những trải nghiệm . - Sinh viên có ý thức trong việc kiểm tra, tự kiểm tra, đánh giá, tự đánh giá quá trỉnh học tập của bạn thân để qua đó phát huy những điểm mạnh và khắc phục những hạn chế. Trên cơ sở, sinh viên bước đầu tiếp cận sự đổi mới khi kiểm tra đánh giá trong tương lai. - Sinh viên không học tập lý thuyết suông mà phải biết cách vận dụng kiến thức đã được học vào thực tiễn cuộc sống để nắm vẫn kiến thức một cách sâu sắc, tăng cường rèn luyện nghiệp vụ sư phạm hướng vào hình thành phát triển năng lực nghề nghiệp của bản thân trong tương lai. 323 - Sinh viên phải học tập và định hướng cho bản thân phương pháp dạy phù hợp với chương trình đổi mới để khi ra trường không bỡ ngỡ với sự thực tiễn đổi mới giáo dục phổ thông. - Sinh viên chú trọng rèn luyện phẩm chất tốt đẹp của nhà giáo, có lối sống và ứng xử chuẩn mực, lòng yêu nghề và tinh thần vượt qua khó khăn, thử thách. 3. Kết luận Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển mình mang tính lịch sử từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định giáo viên phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất; đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng cả kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra đánh giá trong quá trình học tập để có thể tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt động dạy học và giáo dục. Trong cuộc cách mạng trong giáo dục ở nước ta hiện nay, mỗi giáo viên đang giảng dạy ở phổ thông, và hơn hết là sinh viên đang theo học các ngành sư phạm phải ý thức một cách sâu sắc sứ mệnh to lớn của mình. Với những khó khăn thách thức đặt ra trong chương trình và sách giáo khoa phổ thông sau năm 2015, bản thân sinh viên sư phạm phải nỗ lực hết sức mình, tìm ra các giải pháp hiệu quả nhằm thích ứng và giảng dạy tốt chương trình và sách giáo khoa mới, đáp ứng sự kì vọng của toàn xã hội. Tài liệu tham khảo [1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011). Chương trình phát triển các ngành sư phạm và các trường sư phạm từ năm 2011 - 2020 (Ban hành kèm theo Quyết định số 6290/QĐ-BGDĐT ngày 13 tháng 12 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT). [2]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015). Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý và giáo viên phổ thông của các cơ sở đào tạo giáo viên. [3]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015). Tài liệu Hỏi – đáp về Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể. [4]. Nguyễn Đức Vũ (2015). Xác định các phẩm chất và năng lực của người giảng viên đại học sư phạm đáp ứng đổi mới giáo dục và đào tạo. Tạp chí Khoa học - Đại học Huế, 102(03), tr. 5-9.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfchuong_trinh_va_sach_giao_khoa_pho_thong_sau_nam_2015_kho_kh.pdf
Tài liệu liên quan